Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Những điều kiện cơ bản cho sự ra đời của của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước chưa qua chế độ tư bản chủ nghĩa và ý nghĩa của việc nghiên cứu.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.47 KB, 15 trang )

TIỂU LUẬN LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
Đề số 8: Những điều kiện cơ bản cho sự ra đời của của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa ở các nước chưa qua chế độ tư bản chủ nghĩa và ý nghĩa của
việc nghiên cứu.
Bài làm
A. Mở đầu:
Các nhà sáng lập CNMLN phát hiện ra quy luật khách quan của quá
trình biến chuyển cách mạng căn bản và khẳng định lịch sử xã hội loại người là
lịch sử kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế - xã hội phát triển từ thấp đến cao như
“ một quá trình lịch sử tự nhiên” [C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội, năm 2004, tập 23, trang 21 ] . Thực tế lịch sử nhân loại đã có 5
hình thái kinh tế - xã hội kế tiếp nhau, hình thái cao nhất là hình thái kinh tế xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Trong những bối cảnh lịch sử khác nhau, ở những thời điểm
khác nhau và do đó những điều kiện cơ bản cho sự ra đời của loại hình thái cuối
cùng ở các loại nước cũng có những khía cạnh khác nhau. Như Lênin đã nói: “Tất
cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều không tránh khỏi, nhưng
tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn
giống nhau; mỗi một dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô sản,
vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt
khác nhau của đời sống xã hội” [V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1981, t.
30, tr. 159 – 160 ]
Lịch sử nhân loại chứng minh rằng, đã có một số nước “ bỏ qua” một vài
hình thái kinh tế - xã hội như nước Mỹ đã bỏ qua hình thái kinh tế xã hội phong
kiến để tiến thẳng lên hình thái tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác – Leenin khẳng
định, sự thật đó cũng nằm trong quy luật chung của lịch sử và trong thời đại hiện
1


nay nó đang tiếp tục diễn ra. Sẽ có những nước chưa qua chủ nghĩa tư bản cũng có
thể nổ ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công và bước vào thời kì quá độ


lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lenin, đó là loại “đặc biệt của đặc biệt”
Hình thức “ đặc biệt của đặc biệt” đã được chứng minh ở Việt Nam ( từ
1945 đến nay ), Trung Quốc ( từ 1949 đến nay ), CuBa ( từ 1959 đến nay), Lào,…
Dù trải qua những điều kiện khác nhau nhưng các nước này vẫn có những điều
kiện cơ bản chung thống nhất cho sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa.
B. Nội dung
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA
HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI
1.1. Một số quan niệm về hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp,
trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua
lại lẫn nhau, thống nhất với nhau. Bởi vậy “ Khi phân tích những hình thái kinh tế,
người ta không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hóa học được. Sức
trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó” [C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1993, tập 23, trang 16 ] Lịch sử loài
người trải qua 5 hình thái: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hửu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa, và Cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế nhau như vậy giữa các hình thái
kinh tế-xã hội là con đường phát triển chung của nhân loại. Quá trình đó diễn ra
một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan. Sự biến đổi đó của
hình thái kinh tế-xã hội không chịu sự tác động của con người mà tuân theo các
quy luật xã hội khách quan.“Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những
quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực
lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự

2


phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”

[V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, năm 1974, tập 1, trang 163]
Trong đó chủ nghĩa cộng sản: Chỉ một chế độ xã hội mà ở đó con người
được giải phóng triệt để khỏi ách áp bức bất công, con người được phát triển toàn
diện, của cải làm ra dồi dào, con người lao động một cách tự nguyện, tự giác, làm
theo năng lực hưởng theo nhu cầu ; là xã hội mà ở đó không còn giai cấp và nhà
nước .4s
Trong đó hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa là một phạm trù của
chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội)
dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản
xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện
chứng gi ữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định .
1.2.

Hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản

chủ nghĩa
Những điều kiện tiên quyết như các nhà kinh điển đã nêu ra đối với các
nước “lạc hậu”, “tiền tư bản chủ nghĩa” để tiến lên chủ nghĩa xã hội đến nay hầu
như không còn nữa. Vậy, những nhân tố nào trong thời đại ngày nay là những điều
kiện tiên quyết để các nước có xuất phát điểm thấp thực hiện thành công bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội? Không ít ý kiến cho rằng, trong bối cảnh hiện nay việc
nhìn nhận về quá độ lên chủ nghĩa xã hội của các nước chưa kinh qua tư bản chủ
nghĩa không nên đặt trong mối tương quan đối lập giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội như quan niệm trước đây. Bởi lẽ, về mặt phương pháp luận quan niệm
trước đây cho rằng, đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ cũng dẫn đến sự phủ
định, triệt tiêu mặt đối lập; trong khi thực ra đấu tranh giữa các mặt đối lập bao giờ
3



cũng bao hàm sự chuyển hóa lẫn nhau. [ Tạp chí cộng sản: Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn ]
Ph. Ăng-ghen khẳng định: “Nhưng một điều kiện tất yếu để làm được
việc đó là tấm gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây cho tới nay vẫn còn là
tư bản chủ nghĩa. Chỉ khi nào nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã bị đánh bại tại quê
hương của nó và ở những nước nó đã phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua
tấm gương ấy mà biết được rằng “việc đó đã được tiến hành như thế nào”, những
lực lượng sản xuất công nghiệp hiện đại, với tư cách là sở hữu công cộng, đã được
sử dụng như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội, - thì những nước lạc hậu ấy mới
có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như vậy. Như thế thắng lợi của
những nước ấy sẽ được bảo đảm. Và điều đó không chỉ đúng với nước Nga, mà với
tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa” [C. Mác và
Ph. Ăng-ghen: Sđd, t. 22, tr. 632]
Củchủ nghĩa xã hội, V.I. Lê-nin nêu rõ: “Vấn đề đặt ra như thế này: đối
với các dân tộc lạc hậu hiện nay đang trên con đường giải phóng và sau chiến tranh
đã có một bước tiến bộ, mà khẳng định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân
tộc đó nhất định phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, chúng ta có
cho như vậy là đúng hay không? Chúng tôi cho rằng không đúng... Quốc tế cộng
sản còn phải xác định và chứng minh trên lý luận cho một nguyên tắc đó là: với sự
giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế
độ Xô-viết, và q ua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng
sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [V.I. Lê-nin: Sđd, t.
41, tr. 295 ]
CHƯƠNG II. Những điều kiện cơ bản cho sự ra đời của của hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước chưa qua chế độ tư bản chủ
nghĩa
4



2.1. Điều kiện thứ nhất, nhân loại đã chuyển sang “ giai đoạn tột cùng của
chủ nghĩa tư bản” giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.
Chủ nghĩa đế quốc là chính sách mà qua đó các quốc gia hay các dân tộc hùng
mạnh tìm cách mở rộng và duy trì quyền kiểm soát hoặc ảnh hưởng đối với các
quốc gia hay dân tộc yếu hơn.
Chủ nghĩa đế quốc mang hàm ý rộng hơn, có thể liên quan đến việc thực
hiện quyền kiểm soát hay ảnh hưởng đối với quốc gia khác một cách chính thức
hoặc không chính thức, trực tiếp hoặc gián tiếp, trên khía cạnh chính trị hoặc kinh
tế mà không nhất thiết bao gồm việc xâm chiếm, sáp nhập lãnh thổ hay kiểm soát
trực

tiếp

về

mặt

chính

trị

đối

với

quốc

gia


khác.

Mặc dù chủ nghĩa đế quốc dưới hình thức xâm chiếm, quản lý trực tiếp các
thuộc địa không còn tồn tại phổ biến, chủ nghĩa đế quốc mới, một hình thức kiểm
soát và chi phối các quốc gia khác thông qua con đường kinh tế mà không cần cai
trị trực tiếp, vẫn tiếp tục là một đặc điểm của nền kinh tế chính trị quốc tế đương
đại. [Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc
tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013). ] Giai đoạn
đỉnh cao này vừa là xu hướng tất yếu của sự phát triển của CNTB, vừa là thể hiện
sự lỗi thời của hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa về mặt lịch sử ( thời gian )
và vừa đẩy nhanh , mở rộng sự lỗi thời đó ra phạm vi quốc tế ( không gian). [ Giáo
trình Lý luận hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ]
Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt vì
sau khi xác lập phạm vi trên toàn thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn
đế quốc chủ nghĩa. Với sự phát triển của khoa học - kĩ thuật, sản xuất công, nông
nghiệp, thương nghiệp và giao thông vận tải có bước tiến vượt bậc, cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ hai được triển khai sôi nổi. Ở trình độ cao hơn cách
5


mạng công nghiệp trước, nên đời sống xã hội chính trị của các nước tư bản lớn,
tiêu biểu cũng bộc lộ một số điểm mới, ngoài những điểm cơ bản vốn có của chủ
nghĩa tư bản. Đó là hiện tượng thiếu công bằng xã hội ngày càng thể hiện trầm
trọng, sự chênh lệch giàu, nghèo trong xã hội ngày càng cách biệt; sự giác ngộ về
chính trị của nhân dân lao động, đặc biệt của công nhân ngày một nâng cao; các tệ
nạn của chủ nghĩa tư bản xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội.
Những điều trên khiến cho những mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản
trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa càng thêm sâu sắc: mâu thuẫn giữa giai cấp tư
sản chính quốc và GCCN ở thuộc địa ; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc xâm

lược với các quốc gia, dân tộc bị xâm lược và đô hộ; mâu thuẫn giữa các nước tư
bản – đế quốc với nhau; đặc biệt là mâu thuẫn giữa sản xuất có tính chất xã hội với
chiếm hữu có tính chất tư nhân. Mâu thuẫn này chi phối xã hội tư bản chủ nghĩa và
đưa tới những cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng gay gắt.
Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có nhiều sự thay đổi, đạt được trình độ
phát triển cao về kinh tế, năng suất lao động…, song bản thân nó vẫn có những
mâu thuẫn không thể tự giải quyết. Chủ nghĩa Tư bản phải cố gắng tự giải quyết
một phần mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cùng những di
chứng của nó trong lòng xã hội tư sản. Tất nhiên, cũng cần phải hiểu mặt khác là,
Chủ nghĩa Tư bản phải tự điều chỉnh còn do nguyên nhân bên ngoài, do điều kiện
quốc tế đã thay đổi; sự xuất hiện và phát triển không ngừng của Chủ nghĩa Xã hội,
sự sụp đổ nhanh chóng của hệ thống thuộc địa đã làm cho Chủ nghĩa Tư bản không
thể tồn tại tự nó nữa mà phải vì nó, muốn tồn tại được, buộc nó phải khác đi.
Nếu nhìn nhận một cách trực quan, Chủ nghĩa Tư bản hiện đại đã khoác trên
mình nó một bộ áo cánh mới và bộ áo cánh đó đã phần nào che đậy được một số
khuyết tật cố hữu của Chủ nghĩa Tư bản. Tuy nhiên, Chủ nghĩa Tư bản dầu sao vẫn
6


là Chủ nghĩa Tư bản với bản chất xã hội mang nặng sự phi lý, là chế độ đầy rẫy bất
công phi lý, mâu thuẫn. Và một điều nữa cần được khẳng định là chính những thay
đổi hiện nay trong lòng Chủ nghĩa Tư bản cùng những thành công nhất thời trong
việc tự điều chỉnh lại tạo những nhân tố và tiền đề mới cho một xã hội tương laixã hội phủ nhận Chủ nghĩa Tư bản . [ GS.TS Vũ Văn Hiền Ủy viên Trung ương
Đảng: Nhận thức về Chủ nghĩa Tư bản hiện đại ]
Đây chính là một trong những điều kiện thời đại cơ bản và khách quan cho
sự ra đời của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ở những nước chưa qua
chế độ tư bản chủ nghĩa . Chủ nghĩa đế quốc càng thực hiện các chính sách thực
dân đế quốc thì càng làm cho những điều kiện ra đời của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa ở trong nước càng chín muồi, càng đẩy nhanh chủ nghĩa tư bản
vào giai đoạn tổng khủng hoảng và càng làm cho mâu thuẫn ở trong nước và trên

trường quốc tế trở nên gay gắt và tất yếu dẫn đến bùng nổ các cuộc cách mạng ở cả
chính quốc và ở cả các nước thuộc địa , phụ thuộc với quy mô, tính chất khác nhau
[ Giaos trình lý luận hình thái KTXHCSCN ]
2.2. Điều kiện thứ hai, Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng thế
giới mà trụ cột là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
Thực tiễn cách mạng trên thế giới trong giai đoạn hiện nay không thể phủ
nhận vai trò của phong trào cách mạng thế giới mà điền hình là phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế không chỉ là nguồn động lực to lớn cho cách mạng từng
nước nói chung, cách mạng của các nước thuộc địa , phụ thuộc nói riêng nổ ra và
giành chính quyền thắng lợi; mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn con
đường phát triển hay việc hình thành hình thái kinh tế cộng sản – chủ nghĩa ở các
nước chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa.

7


Các đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân họp ở Mátxcơva đã nhất
trí thông qua một bản tuyên ngôn. Bổ sung và phát triển nội dung của bản Tuyên
ngôn năm 1957, tuyên ngôn này là cương lĩnh cách mạng chung cho tất cả các
đảng Mác - Lênin toàn thế giới. Bản tuyên ngôn hơn hai vạn chữ, gồm có lời nói
đầu và sáu đoạn. Trong đoạn 4 với tiêu đề “Xoá bỏ chế độ thực dân: Chế độ thực
dân nhất định phải tan vỡ.” Cách mạng Tháng Mười Nga đã thức tỉnh nhân dân
thuộc địa nổi lên chống thực dân. Liên Xô thắng lợi trong cuộc Chiến tranh thế
giới lần thứ hai, nhiều nước ở châu Âu và châu Á xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc thắng lợi, hệ thống xã hội chủ
nghĩa lớn mạnh trên thế giới - những việc đó đang đẩy mạnh phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. [ Báo điện tử Đảng cộng sản VN:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - 80 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - HÀ NỘI 2010 ]
Đúng như Mác viết trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản :” Đối với chúng

ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần sáng tạo ra, không phải là
một lí tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản kaf
một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của
phong trào ấy là kết quả của những tiền đề còn lại” [ C.M và Ăngghen Toàn tập:
Tập 4 ] Và Ăng-ghen lưu ý thêm rằng “ Để tránh rơi vào không tưởng, chủ nghĩa
xã hội phải xuất phát từ mảnh đất hiện thực”. Đó chính là phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, do giai cấp công nhân lãnh đạo, với tư cách là lực lượng vật
chất tiền phong của cuộc cách mạng xã hội, là “ trái tim của thế giới”, là phong
trào có tính “ chủ động lịch sử vĩ đại”
Sau cách mạng thái Mười Nga năm 1917, sự phát triển mạnh mẽ của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là những luận điểm của Lênin, V. I.
Lê-nin đã góp phần hoàn thiện và làm phong phú thêm chủ nghĩa Mác. Cụ thể, ông
8


đã phát triển và hoàn thiện lý luận về chuyên chính vô sản, về xây dựng khối liên
minh công nông, về vấn đề dân tộc và thuộc địa, về chủ nghĩa quốc tế vô sản, về
việc xây dựng và củng cố Đảng vô sản kiểu mới. Đặc biệt, V. I. Lê-nin đã xây dựng
lý luận mới hoàn chỉnh về cách mạng xã hội chủ nghĩa, đã chứng minh và khẳng
định khả năng chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi ở một nước riêng lẻ… Đối với các
dân tộc châu Á, cũng như với các dân tộc khác trên toàn thế giới đang đấu tranh
cho hòa bình, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; học thuyết V. I. Lê-nin giống
như mặt trời đưa lại nguồn sáng mới. V. I. Lê-nin rất quan tâm đến phong trào giải
phóng dân tộc của các dân tộc châu Á, coi đó là bộ phận hợp thành không thể tách
rời của cuộc đấu tranh của quần chúng lao động toàn thế giới chống lại đế quốc áp
bức.
Vào những năm đầu thế kỷ XX, trong hoàn cảnh quốc tế xuất hiện nhiều
nhân tố mới, với tư duy mới, V. I. Lê-nin đã nêu ra khả năng phát triển không theo
con đường tư bản chủ nghĩa đối với các nước lạc hậu, các nước tiền tư bản. Người
khẳng định: “… Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc

hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến
tới chủ nghĩa cộng sản, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”( Dẫn
theo: Viện Mác - Lê-nin: Chủ nghĩa Lê nin và công cụộc đổi mới trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb. Thông tin lý luận, H.1990, tr.45) Tư
tưởng đó của V. I. Lê-nin có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn đối với các
nước châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh. Trước hết, chúng ta chứng kiến các nước
Trung Á trong Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết với sự giúp đỡ anh
em của nước Nga đã từ chế độ tiền tư bản chủ nghĩa, thậm chí tiền phong kiến
bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Thứ hai, chúng ta chứng kiến nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ
cũng đi theo con đường đó và đạt được những thành tựu vô cùng tốt đẹp. Thứ ba,
9


chúng ta chứng kiến Việt Nam, Trung Quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cuba và một số nước khác cũng chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa với những thành công bước đầu rất đáng khích lệ
Phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế nói riêng không chỉ là nguồn động lực với các nước tiền tư bản, thuộc địa,
phụ thuộc trong cuộc đấu tranh giành giữ chính quyền mà còn hỗ trợ các nước này
không chỉ về vật chất mà còn tinh thần trong việc hình thành hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa. Các dân tộc trên thế giới nói chung và châu Á nói riêng
sống và đấu tranh theo khẩu hiệu của Lênin: Toàn bộ châu Á trẻ trung, tức là hàng
trăm triệu quần chúng lao động ở châu Á, có bạn đồng minh vững chắc là giai cấp
vô sản ở tất cả các nước văn minh. Không có một lực lượng nào trên thế giới lại có
thể ngăn chặn. Dự báo này được kiểm chứng hoàn toàn đúng với thực tế lịch sử đã
diễn ra trong nửa sau của thế kỷ XX: bởi sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa
hùng mạnh, hàng trăm dân tộc bị nô dịch, áp bức đã vùng lên làm cách mạng giải
phóng dân tộc, làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, làm tan rã chủ nghĩa thực dân
mới. Ghi vào lịch sử thế giới những trang vàng về sự hình thành và phát triển của
phong trào không liên kết trên phạm vi toàn cầu; là thành tựu to lớn của các Đảng

Cộng sản cầm quyền trong thế kỷ XX.
Việt Nam là một quốc gia ở phương Đông, trải qua nhiều cuộc chiến tranh
tàn khốc kéo dài bị tàn phá hết sức nặng nề, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhân dân ta quyết tâm đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc điểm đặc thù của nước ta là, từ hình thái kinh tế - xã hội của một nước thuộc
địa, nửa phong kiến trải qua cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và tiến
thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ
sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, mặc dù chế độ mới đã đem lại
quyền tự do, dân chủ chưa từng có cho nhân dân, nhưng nền dân chủ xã hội chủ
10


nghĩa của chúng ta chưa hoàn thiện. Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, tư tưởng
tiểu nông vẫn nặng nề trong xã hội. Chế độ tập trung quyền lực cao độ là hết sức
cần thiết trong kháng chiến nhưng di sản của nó vẫn ảnh hưởng không nhỏ đến
sinh hoạt dân chủ trong thời bình.Về điều này, sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhiều lần nhắc nhở chúng ta không được chủ quan, tự mãn với những kết quả ban
đầu trong tiến trình mở rộng dân chủ. Đối với Người, xây dựng và thực hành nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp lâu dài của cách mạng nước ta. [ Tạp chí
cộng sản: V. I. Lê-nin và tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội ]
2.3. Điều kiện thứ ba, là giai cấp công nhân ra đời và trở thành lực lượng lãnh
đạo thông qua đảng của nó, đối với phong trào đấu tranh cách mạng của quảng
đại quần chúng
Phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc, tiền tư bản
đã tạo ra những tiền đề chính trị quan trọng cho việc xây dựn hình thái kinh tế - xã
hội mà không cần trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa . Những tiền đề chính trị cơ bản
nhất là : sự ra đời, trưởng thành và uy tín của Đảng cộng sản , sự ra đời và hoàn
thiện của nhà nước , liên minh giai cấp giữa giai cấp công nhân với đại đa số quần
chúng nhân dân lao động .. Những tiền đề chính trị đó đã trở thành điều kiện trực
tiếp để giai cấp công nhân có thể bắt đầu xây dựng hình thái kinh tế xã hội cộng

sản chủ nghĩa ở các nước chưa qua chế độ tư bản chủ nghĩa sau khi lãnh đạo các
cuộc cách mạng xã hội cần thiết trước đó.
Ngay từ thắng lợi của cuộc cách mạng XHCN Tháng Mười Nga, hầu hết
phong trào công nhân ở các nước thuộc địa , phụ thuộc đa gắn bó với phong trào
yêu nước và là bộ phận ngày càng quan trọng của cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân . Sự ra đời của nhiều nước thuộc
địa, phụ thuộc đã đưa phong trào công nhân dần chuyển từ đấu tranh tự phát sang
11


tự giác. Ở một số nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc như Trung Quốc, Việt Nam,
Lào, Ba Lan, Tiệp Khắc,… thông qua sự lãnh đạo của ĐCS, giai cấp công nhân đã
cùng với các giai cấp và tầng lớp nhân dân khác hoàn thành triêt để cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đưa dân tộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở
các nước vốn là thuộc địa và phụ thuộc , hiện nay đã giành được độc lập nhưng
chưa lựa chọn con đường đi lên CNXH, phong trào công nhân có vai trò ngày càng
tăng trong quá trình xây dựng, củng cố, bảo vệ và phát triển đất nước. [PGS.TS.
Bùi Thị Kim Hậu, Giaos trình Lý luận về thời đại ngày nay và phong trào cách
mạng TG, NXB chính trị quốc gia- sự thật Hà Nội, 2016, trang 182 – 183 ] Sự lãnh
đạo của phong trào công nhân đã tạo ra tiền đề chính trị cơ bản đưa đất nước bước
vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội mà không phải trải qua chế độ
tư bản chủ nghĩa. Đây chính là con đường “: đặc biệt của đặc biệt” cho sự ra đời
của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa ở các nước tiền tư bản
Bên cạnh việc khẳng định điều kiện ra đời hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa thì các nhà sáng lập chủ nghĩa Mac Lenin cũng phê phán 2 quan điểm
sai trái: một là , cứ để các nước đi qua tư bản chủ nghĩa rồi “ nó” sẽ tự chuyển hóa
thành chủ nghĩa cộng sản mà không cần một cuộc đấu tranh giai cấp nào; bằng ý
chí chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn hoàn toàn có thể tiến lên chủ nghĩa cộng
sản, bất chấp những quy luật khách quan và chủ quan,…
Việc hình thành một hình thái kinh tế xã hội là một quy luật tư nhiên không

thể chối bỏ, song nó không thể tự xảy ra nếu không có sự tác động cả 2 chiều của
lịch sử, của con người, nó cũng không thể hoàn thiện và đạt được cái đích cuối
cùng nếu chúng ta cứ vội vàng bỏ qua những điều kiện tiền đề xung quanh nó. Từ
đó chúng ta có thể phát biểu quy luật xây dựng chủ nghĩa xã ở các nươc tiền tư bản
theo 2 cách tiếp cận: Cách tiếp cận thứ nhất: hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ
nghĩa được hình thành từ tiền đề cơ sở hạ tầng, KTTT chưa chín muồi đầy đủ của
12


các nước tư bản; tự sự tiếp thu có chọn lọc của gccn các nước tiền bản với tiền đề
CSHT , KTTT ở các nước tư bản phát triển; từ thắng lợi toàn diện và triệt để các
cuộc cách mạng xã hội tất yếu và sự ủng hộ to lớn của phong trào cách mạng thế
giới. Cách tiếp cận thứ hai: Các nước tiền bản muốn xây dựng thành công hình thái
cuối cùng này phải kết hợp tối đa nội lực và ngoại lực, có đảng cộng sản lãnh đạo,
tiếp thu có chọn lọc và hoàn thiện CSHT, KTTT. Như vậy dù hiểu theo cách tiếp
cận nào thì ta cũng có thể thấy, hình thái KTXH CSCN là một tất yếu với các nước
tiền tư bản nói riêng và thế giới nói chung.
.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu :
ViỆc nghiên cứu điều kiện ra đời cuả hình thái kinh tế xã hội CSCN ở các nước
chưa kinh qua tư bản chủ nghĩa có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn:
Một là, phải thấy sự hình thành và phát triển của hình thái KTXH CSCN là quy
luật, là quá trình lịch sử tự nhiên; phải thấy được vai trò của các điều kiện, tránh
tuyệt đối hóa cũng như bỏ qua một điều kiện nào
Hai là, tùy điều kiện lịch sử mà vận dụng sáng tạo, tiếp thu có chọn lọc
những điều kiện quốc tế; phát huy vai trò của đảng cộng sản, của giai cấp nhân
trong cuộc cách mạng xhcn để từng bước xây dựng csht và kttt phù hợp với điều
kiện lịch sử của mỗi thời kì , mỗi giai đoạn phát triển của đất nước và thời đại
Ba là, phát huy đồng thời vai trò của đảng, nhà nước và các tổ chức chính trị
xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng trong việc xây dựng những cơ sở ban đầu
cho cncs vì chưa có đầy đủ những điều kiện kinh tế xã hội như các nước tư bản

Bốn là, có đầy đủ hệ thống những điều kiện cho sự ra đời của hình thái cuối
cùng này, áp dụng có chọn lọc vào Việt Nam – cũng là một đất nước tiền tư bản, bỏ
qua tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên cnxh, để đạt thành tựu thành công và triệt để
nhất

13


Cuối cùng việc nghiên cứu loại hình kinh tế xã hội này có ý nghĩa to lớn cho
chuyên ngành chủ nghĩa xã hội mà bản thân đang theo học, làm tài liệu nghiên cứu
khoa học, phục vụ cho công tác giarngr sau này.
C. Kết luận
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội cscn đã tạo nên một bước ngoặt đặc biệt
quan trọng đối với nhân loại, với giai cấp vô sản trên toàn thế giới nchung và gcvs
các nước tiền tư bản nói riêng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Hình thái Ktxh cscn
là sự thống nhất biện chứng giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, giữa
hoàn cảnh quốc tế và những nhân tố bên trong của gccn mỗi quốc gia dân tộc,.
Ngày nay, khi mà hệ thống cnxh còn chưa chiếm ưu thế trên toàn thế giới,
mà vẫn là một hệ thống xã hội tồn tại song hàng với chủ nghĩa tư bản với số lượng
quốc gia xã hội chủ nghĩa còn ít và đang bị các quốc gia tư bản chủ nghĩa đe dọa
tấn công và xóa bỏ thì việc nghiên cứu học thuyết hình thái kinh tế xã hội cscn là
sự cần thiết. Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân ta phải luôn kiên định đi theo
con đường chủ nghĩa xã hội , lấy chủ nghĩa Mac Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
kim chỉ nam cho mọi hành động.

14


1.


2.
3.
4.
5.
6.
7.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[ Báo điện tử Đảng cộng sản VN: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM - 80
NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ
QUỐC GIA - HÀ NỘI 2010 ]
[ C.M và Ăngghen Toàn tập: [C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 2004 Tập 4 ]
[C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm
2004 , t. 22, tr. 632]
[C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, năm 1993, tập 23, trang 16
[Đào Minh Hồng – Lê Hồng Hiệp (chủ biên), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ
Quốc tế, (TPHCM: Khoa QHQT – Đại học KHXH&NV TPHCM, 2013).
[V. I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1981, t. 30, tr. 159 – 160 ]
[V.I.Lênin: Toàn tập, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mátxcơva, năm 1974, tập 1,

trang 163]
8. [V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M. 1981, t. 41, tr. 295 ]
9. [ GS.TS Vũ Văn Hiền Ủy viên Trung ương Đảng: Nhận thức về Chủ
nghĩa Tư bản hiện đại ]
10.PGS.TS. Bùi Thị Kim Hậu, Giaos trình Lý luận về thời đại ngày nay và
phong trào cách mạng TG, NXB chính trị quốc gia- sự thật Hà Nội, 2016,
trang 182 – 183 ]
11.[ PGS.TS. Bùi Thị Kim Hậu, Giáo trình Lý luận hình thái kinh tế xã hội

cộng sản chủ nghĩa, Hà Nội 2/2017 ]
12.[ Tạp chí cộng sản: V. I. Lê-nin và tư tưởng về xây dựng chủ nghĩa xã hội
]
13.[ Tạp chí cộng sản: Quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa ở Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn ]
14. ”( Dẫn theo: Viện Mác - Lê-nin: Chủ nghĩa Lê nin và công cụộc đổi mới
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb. Thông tin lý
luận, H.1990, tr.45

15



×