Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

Các nhân tố tác động đến hành vi quản trị lợi nhuận của người quản lý tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.84 KB, 37 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
--------------

NGƠ HỒNG ĐIỆP

CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HÀNH VI
QUẢN TRỊ LỢI NHUẬN CỦA NGƯỜI QUẢN LÝ
TẠI CÁC CƠNG TY NIÊM YẾT TRÊN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2018


Công trình được hoàn thành tại: Trường ĐH Kinh tế TP. Hồ
Chí Minh
Người hướng dẫn khoa Học: PGS.TS. Bùi Văn Dương

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
trường họp tại

Vào hồi


giờ

ngày

tháng năm

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO NGHIÊN CỨU
Báo cáo tài chính cung cấp những thông tin hữu ích về tình
hình hình tài chính, kết quả kinh doanh, các dòng tiền và những
thông tin bổ sung khác giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin
đưa ra các quyết định kinh tế (Epstein và Jermakowicz, 2008;
Mackenzie và cộng sự, 2012). Mức độ hữu ích của thông tin tài
chính phụ thuộc nhiều vào chất lượng thông tin về lợi nhuận (Ball
và Shivakumar, 2005). Thông tin về lợi nhuận và các bộ phận
hợp thành của nó ngày càng đóng vai trò quan trọng cho các bên
liên quan, có thể đo lường hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
và dự đoán được dòng tiền trong tương lai (Dechow, Kothari và
Watts, 1998). Chính vì vậy, chất lượng thông tin về lợi nhuận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Tính linh hoạt của kế toán cho phép người quản lý vận dụng
để cung cấp thông tin thích hợp và đáng tin cậy giúp cho các bên
liên quan đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, kịp thời
thay đổi quyết định cho phù hợp với thực tế kinh doanh của họ,
nhưng cũng chính sự linh hoạt này tạo cơ hội cho người quản lý

tham gia quản trị lợi nhuận (Healy và Wahlen, 1999; Dechow và
Skinner, 2000). Nhiều nghiên cứu đã công bố cho thấy người
quản lý quản trị lợi nhuận (QTLN) xuất phát từ những mục đích,


2
những động cơ đã định trước như: vì lợi ích cá nhân của người
quản lý, để tránh vi phạm các thỏa thuận trên các hợp đồng, để
đạt lợi ích từ thị trường vốn (đạt được lợi nhuận mục tiêu, để phát
hành cổ phiếu với giá cao, để được lợi khi sáp nhập, chia tách
hay mua bán doanh nghiệp), hoặc phản ứng lại với các chính sách
của Nhà Nước như giảm số thuế TNDN, để được ưu đãi đầu tư,
ưu đãi về thuế,…. Bên cạnh đó, người quản lý có thể QTLN bằng
cách cắt giảm chi phí nghiên cứu và phát triển, chi phí quảng cáo,
chi phí đào tạo, tăng thời gian bán chịu cho khách hàng, giảm giá
bán niêm yết nếu mua hàng với số lượng lớn,… QTLN có liên
quan chặt chẽ đến chất lượng thông tin của BCTC của các công
ty và là chủ đề thường xuyên được quan tâm trong nghiên cứu
lĩnh vực kế toán (Collins, Pincus và Xie, 1999; Barth, Landsman
và Lang, 2008).
Việt Nam hiện nay là thành viên của nhiều hiệp ước kinh tế
như WTO, AEC,... đòi hỏi phải hội nhập nhanh các định chế quốc
tế để tăng tính minh bạch thông tin công bố. Nhà Nước Việt Nam
đã không ngừng nỗ lực để hoàn thiện dần hệ thống pháp lý cần
thiết nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của TTCK, thu hút
vốn đầu tư thông qua TTCK, đồng thời cũng hướng đến mục tiêu
gia tăng chất lượng thông tin BCTC của các CTNY. Từ những
phân tích trên, tác giả cho rằng việc tìm hiểu, phát hiện, đo lường
hành vi QTLN và xác định các nhân tố tác động và mức độ tác
động đến hành vi QTLN là rất cần thiết xét về lý luận khoa học

và ứng dụng thực tế.


3
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Thứ nhất, đo lường và đánh giá thực trạng hành vi QTLN của
người quản lý tại các CTNY trên TTCK Việt Nam.
Thứ hai, xác định các nhân tố tác động và mức độ tác động
của các nhân tố đến hành vi QTLN của người quản lý tại các
CTNY trên TTCK Việt Nam. Từ đó, luận án đưa ra những kiến
nghị nhằm kiểm soát hành vi QTLN, nâng cao chất lượng BCTC
cho CTNY Việt Nam.
3. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Câu hỏi 1: Người quản lý tại các công ty niêm yết trên thị
trường chứng khoán Việt Nam thực hiện QTLN ở mức độ nào?
Câu hỏi 2: Những nhân tố nào tác động và mức độ tác động
của các nhân tố đến hành vi QTLN của người quản lý tại các
CTNY trên TTCK Việt Nam như thế nào?
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là
hành vi QTLN và các nhân tố tác động đến hành vi QTLN của
người quản lý doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu
-

Xét về không gian: Các công ty niêm yết trên hai sàn
giao dịch chứng khoán của Việt Nam (HOSE và HNX),
không bao gồm các công ty đại chúng giao dịch cổ phiếu
trên sàn Upcom, không thuộc lĩnh vực ngân hàng, chứng
khoán, bảo hiểm và các quỹ đầu tư.



4
-

Xét về thời gian: Luận án sử dụng số liệu báo cáo năm,
giai đoạn 2010 – 2016.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp trong đó
phương pháp định lượng là chính. Cụ thể: Phương pháp nghiên
cứu định tính: Luận án sử dụng phương pháp phỏng vấn chuyên
sâu với các chuyên gia, tham vấn ý kiến về các biến nhân tố đưa
vào mô hình nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu định lượng:
Luận án sử dụng phương pháp này để kiểm định giả thuyết
nghiên cứu về các nhân tố tác động và mức độ tác động của các
nhân tố đến hành vi QTLN.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Về mặt nghiên cứu: (1) Hệ thống hoá các lý thuyết nền tảng
về hành vi QTLN, đánh giá thực trạng của các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam liên quan đến hành vi
QTLN (QTLN thông qua các khoản dồn tích và QTLN thông qua
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh) và xác định các nhân tố tác động
cũng như mức độ tác động của các nhân tố đến hành vi này; và
(2) mở rộng thêm cánh cửa khoa học nghiên cứu về hành vi
QTLN tại Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu của luận án kỳ vọng sẽ có ý
nghĩa thực tiễn đối với: (1) Những nhà hoạch định chính sách,
các đơn vị lập pháp có cái nhìn sâu sắc hơn, bao quát hơn, từ đó
xây dựng được hệ thống các quy định mang tính khả thi cao hơn,

phù hợp với đặc thù của đất nước, gắn kết với xu thế hội nhập


5
quốc tế; (2) Các công ty niêm yết có thể tự đánh giá và tự kiện
toàn hệ thống quản trị cho công ty mình, từ đó gia tăng chất lượng
BCTC doanh nghiệp; và (3) Những đối tượng có lợi ích trực tiếp
(như nhà đầu tư, chủ nợ,…) có thể đánh giá mức độ QTLN của
công ty mà họ đầu tư, từ đó có thể gia tăng hiệu quả của các quyết
định đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Kết cấu chính của luận án gồm: Phần mở đầu, Chương 1Tổng quan về vấn đề nghiên cứu, Chương 2- Cơ sở lý thuyết,
Chương 3 - Phương pháp nghiên cứu, Chương 4 - Kết quả nghiên
cứu và bàn luận, Chương 5: Kết luận và kiến nghị.


6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ MÔ HÌNH ĐO LƯỜNG
HÀNH VI QTLN
1.1.1.

Nghiên cứu về các mô hình đo lường

Trong hơn 30 năm qua, các công cụ đo lường được phát triển
dần qua thời gian và ngày một hữu hiệu hơn.
Mô hình Healy (1985): Healy (1985) lập luận rằng, QTLN
được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định do đó tổng
dồn tích là chênh lệch giữa lợi nhuận trên báo cáo và dòng tiền
từ hoạt động kinh doanh. Ông cho rằng dồn tích bình thường kỳ

vọng sẽ bằng 0 (zero) nên dồn tích bất thường cũng chính là tổng
dồn tích tại một thời điểm và được xác định bằng công thức bên
dưới. Nếu tổng dồn tích không bằng 0 thì đó là biểu hiện của
QTLN.
Mô hình DeAngelo (1986): DeAngelo (1986) cho rằng dồn
tích bình thường NDA phát sinh là ngẫu nhiên. Nếu doanh nghiệp
ở trạng thái đứng yên thì NDA ở thời điểm t bằng với NDA ở
thời điểm t-1. Vì vậy, sự khác biệt giữa NDA ở thời điểm t và
thời điểm t-1 chính là DA và cũng chính là biểu hiện của hành vi
QTLN. DeAngelo (1986) đã tiến thêm một bước, đã xác định dồn
tích bất thường riêng biệt cho mỗi DN bằng cách tính chênh lệch
giữa tổng dồn tích của hai kỳ kế tiếp nhau trên tổng tài sản.
Mô hình Jones (1991): Jones (1991) tin rằng sự biến đổi của
doanh thu sẽ mang đến sự thay đổi của vốn kinh doanh, dẫn đến
sự thay đổi trong việc tính toán các khoản trích trước và khấu hao
tài sản cố định. Tất cả các điều này đều tác động đến lợi nhuận
của doanh nghiệp. Jones (1991) đã dùng biến doanh thu (REV)


7
và biến tài sản cố định (PPE) như là các biến độc lập để đo lường
DA. Tổng biến dồn tích = Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền từ hoạt
động kinh doanh
Các mô hình cải tiến mô hình của Jones (1991)
Dechow, Sloan và Sweedney (1995): Dechow, Sloan và
Sweedney (1995) đã cải tiến mô hình Jones (1991) bằng cách bổ
sung thêm một yếu tố tạo ra dồn tích bình thường là nợ phải thu.
Họ cho rằng, người quản lý điều chỉnh doanh thu không liên quan
đến tiền thì phải ghi nhận nợ phải thu.
Kothari, Leone và Wasley (2005): Kothari, Leone và Wasley

(2005) đã phát triển mô hình của Jones (1991) và Mô hình
Dechow, Sloan và Sweedney (1995) trên cơ sở xem xét thêm biến
ROA. Mục đích của Kothari, Leone và Wasley (2005) là xem xét
mối quan hệ giữa biến dồn tích và hiệu suất hoạt động của công
ty.
Yoon, Miller và Jiraporn (2006): Họ đã tiếp tục cải tiến mô hình
của Jones điều chỉnh (1995) bằng việc đưa thêm các biến nợ phải
trả, chi phí trả cho nhân viên hưu trí và thay tổng tài sản đầu năm
trên mô hình Jones điều chỉnh bằng chỉ tiêu doanh thu thuần.
Mô hình Raman and Shahrur (2008): Mô hình Raman và
Shahrur (2008) phát triển mô hình của Kothari, Leone và Wasley
(2005) bằng cách thêm tiếp vào biến MTB là tỷ số giữa giá thị
trường của cổ phiếu với giá trị sổ sách của cổ phiếu đó vào cuối
năm.
Mô hình Roychowdhury (2006): Roychowdhury (2006) đã xem
xét mức độ bất thường của 3 yếu tố: Dòng tiền từ hoạt động kinh
doanh, chi phí tuỳ biến, chi phí sản xuất để xác định mức độ


8
QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Để tính mức
độ bất thường của dòng tiền hoạt động (Ab_CFO), chi phí sản
xuất (Ab_PROG) và chi phí tuỳ biến (Ab_DiscEXP), lấy chênh
lệch giữa giá trị thực tế và giá trị vừa xác định được từ 03 yếu tó
này.
1.1.2.

Nghiên cứu kiểm định sự phù hợp của các mô hình
đo lường


Dechow, Sloan, và Sweeney (1995) cho rằng mô hình Jones
điều chỉnh (1995) là mô hình tốt nhất để phát hiện hành vi QTLN.
Chen (2011) đã đưa ra 03 nhận định: Thứ nhất, mô hình Jones
điều chỉnh vẫn là sự lựa chọn tốt nhất để phát hiện hành vi QTLN
so với các phương pháp đo lường khác; Thứ hai, mô hình Jones
điều chỉnh đôi khi gặp vấn đề, do đó cần sử dụng thêm cách tiếp
cận khác cùng một lúc, sau đó so sánh với kết quả từ Jones điều
chỉnh; Thứ ba, mọi nỗ lực tìm ra một phương pháp tốt hơn để
phát hiện hành vi QTLN vẫn phải tiến hành, mô hình Jones điều
chỉnh vẫn không có mô hình khác thay thế.
Tại Việt Nam, Phạm Thị Bích Vân (2012) đưa ra kết luận
rằng “Mô hình Jones (1991) không hiệu quả trong việc phát hiện
hành vi QTLN của các doanh nghiệp niêm yết TTCK Việt Nam”.
Nguyễn Anh Hiền và Phạm Thanh Trung (2015) đã chứng minh
được rằng thì mô hình Kothari, Leone và Wasley (2005) là phù
hợp nhất để nhận diện hành vi QTLN tại các CTNY trên TTCK
Việt Nam. Võ Thị Quý và Dương Trọng Nhân (2017) chứng
minh được rằng mô hình Jones (1991) và Mô hình Kothari, Leone
và Wasley (2005) là phù hợp trong việc phát hiện hành vi QTLN
tại các công ty niêm yết trên HOSE.


9
1.2. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN
HÀNH VI QTLN
1.2.1.

Cấu trúc của HĐQT

Chủ tịch HĐQT kiêm Giám đốc điều hành: Có hai kết quả

trái chiều nhau, một là việc kiêm nhiệm sẽ làm gia tăng mức độ
QTLN như nghiên cứu của Murhadi (2009), Nekhili và cộng sự
(2016) và hai là việc kiêm nhiệm sẽ thúc đẩy việc quản lý tốt hơn
như Iraya và cộng sự (2015), Abbadi và cộng sự (2016).
Tính độc lập của Hội đồng quản trị: Các nghiên cứu cho rằng
tính độc lập càng cao thì dễ kiểm soát hành vi QTLN như nghiên
cứu của Alves (2014), Liu và cộng sự (2015), Abbadi và cộng sự
(2016). Ngược lại, nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ cùng chiều
như nghiên cứu của Al-Rassas và cộng sự (2015), Liu và cộng sự
(2012) và Soliman và cộng sự (2013). Moradi và cộng sự (2012),
Nekhili và cộng sự (2016) đã không tìm thấy mối quan hệ giữa
mức độ độc lập của HĐQT và mức độ QTLN.
Qui mô Hội đồng quản trị: Nghiên cứu cho rằng quy mô càng
lớn thì QTLN càng thấp, như nghiên cứu của Soliman và cộng sự
(2013), Lakhal (2015),…Jaggi và cộng sự (2009), Nekhili và
cộng sự (2016) phát hiện ra mối quan hệ cùng chiều giữa độ lớn
của HĐQT và mức độ QTLN.
Số lần họp của Hội đồng quản trị: Yang và cộng sự (2009),
Abbadi và cộng sự (2016) cho rằng nếu HĐQT tổ chức họp
thường xuyên thì có thời gian xem xét đến nhiều vấn đề, trong đó
có giám sát hành vi QTLN. Alves (2012), Metawee, A., (2013)
đã tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa hành vi QTLN và tần
suất họp HĐQT.


10
Chuyên môn về tài chính của thành viên HĐQT: Ayemere và
cộng sự (2015), Abbadi và cộng sự (2016) cũng tìm mối quan hệ
ngược chiều giữa tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính
với mức độ QTLN. Metawee (2013) tìm thấy mối quan hệ cùng

chiều giữa tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính với
mức độ QTLN.
Thành viên nữ trong HĐQT: Srinidhi và cộng sự (2011),
Thiruvadi and Huang (2011) cho rằng càng nhiều thành viên nữ
trong HĐQT thì chất lượng báo cáo tài chính sẽ gia tăng.
Luckerath - Rover (2011) tìm thấy mối tương quan cùng chiều
giữa thành viên nữ trong HĐQT với chất lượng thông tin báo cáo
của doanh nghiệp. Adams và Ferreira (2009, Akpan và cộng sự
(2014) tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa thành viên nữ
HĐQT với hiệu quả hoạt động của công ty.
1.2.2.

Ủy ban kiểm toán

Qui mô Ủy ban kiểm toán: Lin và cộng sự (2006) cho thấy
số lượng thành viên trong ủy ban này có quan hệ ngược chiều với
mức độ QTLN. Danoshana và cộng sự (2013) cho rằng số lượng
thành viên của ủy ban kiểm toán có quan hệ cùng chiều với hiệu
quả hoạt động của công ty. Bedard và cộng sự (2004), Baxter và
Cotter (2009), Soliman và cộng sự (2013), Bamahros và cộng sự
(2015), Nekhili và cộng sự (2016) không tìm thấy tác động giữa
quy mô Uỷ ban kiểm toán với mức độ QTLN.
Chuyên môn của thành viên ủy ban kiểm toán: Choi và cộng
sự (2004), Abbott và cộng sự (2004) cho rằng sự hiện diện ít nhất
một thành viên có chuyên môn về tài chính trong Ủy ban kiểm
toán sẽ làm giảm mức độ QTLN của người quản lý. Abdul


11
Rahman và Ali (2006), Lin và cộng sự (2006) không mối quan

hệ có ý nghĩa liên quan đến sự hiện diện của thành viên Ủy ban
kiểm toán có chuyên môn về tài chính với hành vi QTLN.
Số lượng cuộc họp của ủy ban kiểm toán: Abbott và cộng sự
(2004), Ebrahim (2007) và Soliman và cộng sự (2013) đều chứng
minh được mối quan hệ ngược chiều giữa số lượng cuộc họp của
ủy ban kiểm toán với khoản dồn tích bất thường, chính là đại diện
của hành vi QTLN. Bédard và cộng sự (2004), Davidson và cộng
sự (2005) đã không tìm thấy mối quan hệ giữa hành vi QTLN với
số lần họp của Ủy ban kiểm toán.
1.2.3.

Kiểm toán độc lập

Qui mô công ty kiểm toán: Soliman và cộng sự (2013), AlRassas và cộng sự (2015), Ahmad và cộng sự (2016), Abbadi và
cộng sự (2016) cùng chứng minh được rằng doanh nghiệp được
kiểm toán bởi Big 4 thì mức độ QTLN sẽ giảm đi. Một số nghiên
cứu không tìm thấy mối quan hệ giữa độ lớn công ty kiểm toán
với hành vi QTLN, điển hình như Bamahros và cộng sự (2015),
Nekhili và cộng sự (2016)…
Thay đổi công ty kiểm toán: DeFond và Jiambalvo (1993) thì
cho rằng hầu hết những sự thay đổi công ty kiểm toán đều do sự
không đồng thuận về quan điểm với kiểm toán viên trong việc
đánh giá, vận dụng các chính sách, ước tính kế toán. Davidson
và cộng sự (2006) đã chứng minh mức độ QTLN sẽ tăng cao đối
với những doanh nghiệp chuyển từ Big 6 sang các công ty kiểm
toán không phải là Big 6.
1.2.4.

Cấu trúc sở hữu vốn



12
Sở hữu vốn quản lý: Masmoudi Ayadi và cộng sự (2014),
Nekhili và cộng sự (2016) đã tìm thấy mối quan hệ ngược chiều
có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ sở hữu vốn quản lý với mức độ
QTLN. Charfeddine và cộng sự (2013), Aygun và cộng sự (2014)
chứng minh được mối liên hệ cùng chiều giữa tỷ lệ sở hữu quản
lý với các khoản dồn tích bất thường.
Sở hữu vốn Nhà nước: Ayemere và cộng sự (2015) cũng tìm
thấy quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ sở hữu vốn nhà nước với
mức độ QTLN. Guo và Ma (2015) đã tìm được mối quan hệ cùng
chiều giữa tỷ lệ sở hữu vốn Nhà nước với mức độ QTLN. Bozec
và cộng sự (2002) không tìm ra mối quan hệ có ý nghĩa giữa sở
hữu Nhà nước với vấn đề trình BCTC.
Sở hữu vốn Tổ chức: Jiambalvo và cộng sự (2002), Hadani
và cộng sự (2011) cho rằng với doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu tổ
chức càng cao thì sẽ ít có khả năng QTLN. Hashim và Devi
(2012), Masmoudi và cộng sự (2014) cũng tìm thấy bằng chứng
rằng mức độ thông tin về lợi nhuận được công bố sẽ tăng khi có
sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức.
Sở hữu vốn Tập trung: Firth và cộng sự (2006) phát hiện rằng
thông tin về lợi nhuận sẽ giảm khi mức độ tập trung vốn tăng lên.
Emamgholipour và cộng sự (2013), Guo và Ma (2015) cho rằng
khi sở hữu tập trung về tổ chức thì sẽ khuyến khích QTLN. Ben
Slama và cộng sự (2007), Alves (2012), Ellili (2013) cho rằng sở
hữu tập trung có mối quan hệ ngược chiều với mức độ khoản dồn
tích bất thường.
Sở hữu vốn Nước ngoài: Nghiên cứu của Kim (2008), Jun
Guo và cộng sự (2014), Gue và Ma (2015) đã chứng minh được



13
rằng tỷ lệ vốn các nhà đầu tư nước ngoài càng cao thì khả năng
QTLN càng thấp.
1.3. KHE HỔNG NGHIÊN CỨU
Nhận xét các công trình nghiên cứu đã công bố
Các công trình nghiên cứu công bố ở nước ngoài rất đa dạng,
nhìn nhận hành vi QTLN từ nhiều khía cạnh khác nhau như động
cơ để người quản lý thực hiện QTLN, kỹ thuật QTLN và các nhân
tố tác động đến hành vi này. Xét các công trình nghiên cứu về
các nhân tố tác động đến hành vi QTLN, mỗi nghiên cứu chủ yếu
tập trung vào một hoặc hai nhóm nhân tố tác động đến hành vi
QTLN: Nhóm nhân tố liên quan đến đặc điểm của HĐQT, đặc
điểm của Uỷ ban kiểm toán, kiểm toán độc lập, cấu trúc chủ sở
hữu vốn.
Các công trình nghiên cứu công bố trong nước chủ yếu tập
trung vào việc kiểm định sự phù hợp của mô hình trong việc phát
hiện hành vi QTLN và các phương pháp đo lường sự trung thực
của chỉ tiêu lợi nhuận trên Báo cáo tài chính, không có nhiều
nghiên cứu tìm hiểu các nhân tố tác động đến hành vi QTLN. So
sánh mức độ công bố các công trình, tác giả cũng nhận ra rằng
phần lớn các nghiên cứu trong nước tập trung vào QTLN thông
qua các khoản dồn tích hơn các nghiên cứu về QTLN thông qua
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Bên cạnh đó, bộ máy điều hành
tại CTNY Việt Nam đại bộ phận được tổ chức gồm HĐQT, BKS
và Ban Giám đốc. HĐQT một số công ty còn thành lập tiểu ban
kiểm toán để tư vấn cho HĐQT liên quan đến nhiều vấn đề, trong
đó có kiểm soát quá trình lập, trình bày và công bố BCTC. Như
vậy, vai trò của BKS trong tổ chức bộ máy quản lý tại CTNY



14
Việt Nam khác biệt so với vài trò của Uỷ Ban kiểm toán tại các
CTNY tại các nước phát triển. Tác giả chưa tìm thấy nhiều công
trình nghiên cứu ảnh hưởng của nhân tố thuộc Ban kiểm soát tác
động đến hành vi QTLN tại CTNY Việt Nam.
Định hướng nghiên cứu của luận án
Trên cơ sở phân tích tổng quan các công trình nghiên cứu ở
Việt Nam và trên thế giới, những vấn đề đã nghiên cứu và chưa
nghiên cứu, tác giả nhận thấy cần thiết phải có một nghiên cứu
rộng hơn, đầy đủ hơn về các nhân tố tác động đến hành vi QTLN
tại các công ty niêm yết Việt Nam, làm cơ sở để đưa các kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin lợi nhuận trên BCTC,
kiểm soát hành vi QTLN của doanh nghiệp. Định hướng nghiên
cứu của luận án là:
-

Tìm hiểu các nhân tố tác động đến hành vi QTLN, trong
đó mở rộng thêm nhân tố BKS vào mô hình nghiên cứu.

-

Nghiên cứu cả hai hình thức QTLN: QTLN thông qua các
khoản dồn tích và QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh.


15
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2.1. ĐỊNH NGHĨA VÀ PHÂN LOẠI HÀNH VI QTLN

2.1.1. Định nghĩa
Có nhiều định nghĩa về hành vi QTLN. Sự khác biệt cơ bản
giữa các định nghĩa được giới thiệu bởi các nhà nghiên cứu dựa
vào những giả định của bản thân, dựa vào những động cơ phía
sau hành vi QTLN và nhận thức của họ về hành vi QTLN.
Định nghĩa mang tính sơ khai về hành vi QTLN là định nghĩa
của Schipper (1989, p.92). Bà cho rằng “Hành vi QTLN là hành
vi của người quản lý sử dụng sức ảnh hưởng của mình để can
thiệp vào việc vận dụng các chính sách kế toán nhằm đạt được
các lợi ích cá nhân”.
Định nghĩa của Healy và Wahlen (1999, p.7): “Hành vi
QTLN xảy ra khi người quản lý vận dụng những xét đoán trên
báo cáo tài chính và trong cơ cấu của nghiệp vụ kinh tế phát sinh
để làm thay đổi báo cáo tài chính, để gây sự hiểu nhầm về tình
trạng hoạt động của công ty, hoặc là để tác động đến kết quả các
hợp đồng mà chúng dựa vào số liệu báo cáo kế toán”.
2.1.2. Phân loại
QTLN thông qua các khoản dồn tích (A_EM): Là hành vi
QTLN mà người quản lý sẽ vận dụng các khoản dồn tích để tác
động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh (R_EM):
Là hành vi QTLN mà người quản lý sẽ tác động vào các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh, thông qua đó làm thay đổi lợi nhuận của
công ty.


16
2.2. CÁC LÝ THUYẾT NỀN TẢNG
Lý thuyết đại diện
Lý thuyết đại diện (Fama và Jensen, 1983; Jensen và

Meckling, 1976; Ross,1973) còn gọi là lý thuyết uỷ quyền tập
trung vào mối quan hệ giữa người chủ sở hữu và một bên là bên
được ủy quyền. Trong công ty cổ phần, người uỷ quyền chính là
chủ sở hữu (cổ đông) thuê người được uỷ quyền (người quản lý)
thông qua các hợp đồng. Vấn đề đại diện tất yếu tạo ra mâu thuẫn
giữa bên ủy quyền và bên đại diện, giữa cổ đông và chủ nợ. Để
giải quyết những mâu thuẫn này, người quản lý sẽ tác động vào
số liệu kế toán, vào các nghiệp vụ kinh tế phát sinh để đảm bảo
dung hòa lợi ích của các bên. Luận án vận dụng lý thuyết đại diện
để biện giải hành vi QTLN và một số nhân tố tác động đến hành
vi QTLN.
Lý thuyết các bên liên quan
Lý thuyết các bên liên quan được giới thiệu đầu tiên bởi
Freeman năm 1984. Ý tưởng trung tâm của lý thuyết này là sự
thành công của một tổ chức phụ thuộc vào mối quan hệ giữa
người quản lý với các bên liên quan như nhà đầu tư, chủ nợ,
người lao động, khách hàng, nhà cung cấp, nhà nước và các đối
tượng khác có liên quan đến việc đạt được mục tiêu của doanh
nghiệp. Người quản lý chịu sức ép phải quan tâm đến lợi ích của
nhiều đối tượng liên quan và cả lợi ích của bản thân nên hoàn
toàn có thể lý giải khả năng người quản lý sẽ thực hiện QTLN.
Vì lẽ đó, luận án vận dụng nội dung lý thuyết này để biện giải
cho kết quả nghiên cứu.
Lý thuyến tín hiệu


17
Ross (1977), Cho và Sobel (1990) cho rằng sự mâu thuẫn vốn
có của cổ đông và người quản lý làm cho người quản lý tập trung
cung cấp những tín hiệu trọng tâm, đáp ứng các nhu cầu thông

tin cơ bản cho người sử dụng. Trong thị trường tài chính, mối
quan hệ chủ yếu giữa cổ đông và người quản lý được thể hiện
bằng lợi nhuận đầu tư, người đầu tư đưa ra quyết định kinh tế dựa
trên các chỉ số về khả năng sinh lời. Người quản lý rất hiểu
nguyên lý khá cơ bản “Một tín hiệu tốt có thể thu hút nhiều sự
quan tâm của các bên liên quan như nhà đầu tư, chủ nợ, người
lao động, khách hàng,...”. Họ hoàn toàn có thể lựa chọn thời điểm
tốt nhất để công bố thông tin tốt hoặc che giấu hoặc trì hoãn việc
cung cấp thông tin bất lợi ra bên ngoài hoặc thậm chí họ có thể
thực hiện các thủ thuật để thay đổi thông tin bất lợi đó. Luận án
cho rằng hoàn toàn có thể sử dụng nội dung này để giải thích vấn
đề QTLN.
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Lý thuyết này được giới thiệu bởi Pfeffer và Salancik (1978),
là một lý thuyết nền tảng về vai trò nguồn lực của HĐQT doanh
nghiệp. Họ cho rằng hoạt động của các tổ chức sẽ có phụ thuộc
lẫn nhau và các nguồn lực sẽ góp phần kiện toàn chức năng tổ
chức và hoạt động của công ty. HĐQT cần thiết phải quản trị sự
phụ thuộc giữa các tổ chức và đảm bảo có được các nguồn lực và
những thông tin mà họ cần. Luận án cho rằng người quản lý có
đủ năng lực và điều kiện để điều chỉnh các nguồn lực của doanh
nghiệp. Cùng với nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới, luận án vận
dụng lý thuyết phụ thuộc nguồn lực để giải thích hành vi QTLN
của người quản lý.


18
Lý thuyết kế toán thực chứng
Lý thuyết này được giới thiệu bởi Watt và Zimmerman
(1978, 1990) giải thích các vấn đề liên quan đến lựa chọn chính

sách kế toán. Lý thuyết này cho rằng công ty là một tập hợp các
hợp đồng, chủ yếu là hợp đồng với nhân viên, với nhà cung cấp
sản phẩm hàng hóa và với nhà cung cấp vốn. Lý thuyết kế toán
thực chứng cho rằng các chính sách kế toán được lựa chọn là một
trong những nỗ lực của công ty để giảm thiểu chi phí hợp đồng,
để tối đa hóa lợi ích cho người quản lý. Việc người quản lý vận
dụng linh hoạt các chính sách kế toán được thừa nhận để QTLN
là rất phổ biến. Vì vậy, luận án cho rằng vận dụng lý thuyết kế
toán thực chứng để xem xét và biện giải kết quả nghiên cứu một
số nhân tố tác động đến hành vi QTLN, đặc biệt là QTLN thông
qua các khoản dồn tích là rất phù hợp.


19
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ QUY TRÌNH
NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp và thiết
kế nghiên cứu theo nhóm hỗn hợp gắn kết. Luận án sử dụng
phương pháp định lượng để kiểm định các nhân tố tác động và
mức độ tác động của các nhân tố đến hành vi QTLN tại các
CTNY trên TTCK Việt Nam. Luận án thực hiện nghiên cứu định
tính, áp dụng công cụ phỏng vấn sâu với các chuyên gia, nhằm
thảo luận các biến đưa vào mô hình, làm cơ sở cho việc phân tích
các nhân tố tác động đến hành vi QTLN.
Qui trình nghiên cứu
Bước 1: Luận án tổng hợp các công trình nghiên cứu trong
nước và trên thế giới liên quan đến hành vi QTLN, tập trung
nghiên cứu cách thức đo lường hành vi QTLN, động cơ dẫn đến

hành vi QTLN và các nhân tố tác động đến hành vi QTLN; hệ
thống hoá các lý thuyết nền tảng liên quan đến hành vi QTLN.
Từ đó, tác giả xác định khe hổng nghiên cứu, xây dựng mô hình
nghiên cứu dự kiến.
Bước 2: Để có được mô hình nghiên cứu chính thức, luận
án thực hiện thảo luận trực tiếp với các chuyên gia liên quan đến
các biến đưa vào mô hình nghiên cứu. Mục tiêu của thảo luận
chuyên gia là tìm kiếm sự đồng thuận về các biến mà luận án đã
kế thừa, khám phá ra các biến mới đưa thêm vào mô hình nghiên
cứu. Từ kết thảo luận, luận án đề xuất mô hình nghiên cứu chính
thức.


20
Bước 3: Sau khi đã có mô hình nghiên cứu chính thức, luận
án sẽ thu thập số liệu từ thị trường chứng khoán Việt Nam. Thực
hiện hai lần hồi quy đa biến để xác định biến phụ thuộc đại diện
cho hành vi QTLN thông qua các khoản dồn tích (Mô hình Jones
cải tiến (2005)) và xác định biến phụ thuộc đại diện cho hành vi
QTLN thông qua các nghiệp vụ kinh tế phát sinh (Mô hình
Roychowdhury (2005)). Thực hiện thống kê mô tả biến phụ
thuộc để đánh giá thực trạng hành vi QTLN tại các công ty niêm
yết Việt Nam. Thực hiện hồi quy đa biến giữa biến độc lập và
biến phụ thuộc cho từng mô hình để kiểm định các giả thuyết
nghiên cứu đã đặt ra.
Bước 4: Phân tích kết quả phân tích hồi quy từ hai mô hình
nghiên cứu, luận án đề xuất những kiến nghị nhằm ngăn ngừa,
kiểm soát hành vi QTLN, nâng cao chất lượng thông tin của
BCTC tại các CTNY trên TTCK Việt Nam.
3.2. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu định tính
Để thực hiện nghiên cứu định tính tác giả tiến hành phỏng
vấn trực tiếp 12 chuyên gia là những người có am hiểu sâu rộng,
có nhiều năm kinh nghiệm làm việc thực tiễn thuộc lĩnh vực
nghiên cứu của luận án.
Dựa trên các công trình nghiên cứu trên thế giới, luận án xác
định 16 biến kế thừa. Tác giả tham vấn ý kiến của chuyên gia
bằng câu hỏi mở liên quan đến 16 biến nhân tố này. Bên cạnh đó,
phỏng vấn chuyên sâu các chuyên gia giúp luận án tiếp nhận được
nhiều biến chưa tìm thấy công trình nghiên cứu tại Việt Nam như:
Hiệu quả kinh doanh so với kế hoạch đề ra của đại hội cổ đông,


21
khả năng thanh toán nợ vay ngắn hạn, mức độ gia tăng kế hoạch
lợi nhuận năm nay so với năm trước, thâm niên của giám đốc
điều hành, số lượng bài viết được đăng tải trên các báo chuyên
ngành, mức phí kiểm toán. Dựa trên số liệu có thể thu thập được
từ TTCK, tác giả đề xuất 3 biến mới: Tỷ lệ thành viên nữ thuộc
BKS, tỷ lệ nợ vay ngắn hạn trên tổng tài sản ngắn hạn và mức độ
hoàn thành kế hoạch.
Nghiên cứu định lượng
Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu của luận án có 416 công ty đang niêm yết
trên hai sàn giao dịch chứng khoán HOSE và HNX, giai đoạn
2010-2016.
Quy trình tính toán và phân tích dữ liệu nghiên cứu
Quy trình tính toán và phân tích dữ liệu nghiên cứu sẽ được
thực hiện như sau:
Bước 1: Xác định giá trị của biến phụ thuộc thông qua mô

hình Kothari, Leone và Wasley (2005).
Bước 2: Xác định giá trị của biến phụ thuộc thông qua mô
hình Roychowdhury (2006).
Bước 3: Luận án sử dụng phương pháp phân tích tương quan
giữa biến phụ thuộc với các biến độc lập và giữa các biến độc lập
với nhau.
Bước 4: Luận án sử dụng phương pháp hồi quy đa biến giữa
biến phụ thuộc với các biến độc lập, lựa chọn phương pháp hồi
quy phù hợp và kiểm định các khuyết tật của mô hình hồi quy.
Lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp


22
Để lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp nhất, luận án sẽ
thực hiện hồi quy từng cặp, kiểm định sự phù hợp giữa Pooled
OLS, FEM và REM.
Kiểm định các khuyết tật của mô hình hồi quy
Trong nội dung bước công việc này, luận án thực hiện một
số kiểm định sau: Kiểm định phương sai của sai số không đổi:
Có nhiều phương pháp để kiểm định phương sai thay đổi như
kiểm định White, kiểm định Breusch Pagan, kiểm định
Glejser,…Luận án sẽ sử dụng kiểm định Breusch Pagan để kiểm
định phương sai của sai số không đổi. Kiểm định phân phối chuẩn
của phần dư: Luận án sử dụng phương pháp đồ thị để phát hiện
phân phối chuẩn của phần dư. Kiểm định tự tương quan: Luận án
sử dụng kiểm định Breusch Godfrey để kiểm định tự tương quan.
Kiểm định đa cộng tuyến: Sử dụng hệ số khuyết đại phương sai
(VIF)
3.3. MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu chính của luận án là nghiên cứu các nhân tố tác

động đến hành vi QTLN tại các CTNY trên TTCK Việt Nam.
Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh được rằng người
quản lý kết hợp hai hình thức QTLN (A_EM và R_EM) vì mỗi
hình thức QTLN có đặc điểm riêng, kỹ thuật riêng, chi phí riêng
và có mức độ tác động riêng tác động riêng. Mục tiêu của luận
án là đánh giá mức độ QTLN riêng biệt từng hình thức và kiểm
định tác động các nhân tố đến từng hình thức QTLN tại CTNY
Việt Nam nên đã xây dựng 02 mô hình nghiên cứu. Mỗi mô hình
gồm có 19 biến độc lập kết hợp với biến phụ thuộc (A_EM và
R_EM).


23
3.4. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của luận án là đo lường, đánh giá thực trạng hành
vi QTLN và xác định các nhân tố tác động đến hành vi QTLN tại
các CTNY trên TTCK Việt Nam. Như đã trình bày ở mục 3.3 –
Mô hình nghiên cứu, luận án xây dựng 02 mô hình nghiên cứu
với 02 biến phụ thuộc (A_EM, R_EM) và 19 biến nhân tố. Trên
cơ sở vận dụng các lý thuyết nền, luận án phát triển 19 giả thuyết
nghiên cứu như sau:
Bảng mô tả giả thuyết nghiên cứu
Giả
thuy
ết
H1

H2

Nội dung lý thuyết

Chủ tịch HĐQT có kiêm nhiệm
Giám đốc điều hành thì mức độ
QTLN càng cao
Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
không điều hành càng cao thì mức
độ QTLN càng thấp

Lý thuyết nền

Kỳ
vọng

Lý thuyết đại diện

+

Lý thuyết đại diện

-

Lý thuyết đại diện
H3

Số lượng thành viên HĐQT càng
cao thì mức độ QTLN càng thấp

H4

Công ty càng tổ chức nhiều cuộc
họp HĐQT thì mức độ QTLN sẽ

càng thấp

H5

Tỷ lệ thành viên HĐQT có
chuyên môn tài chính càng cao thì
mức độ QTLN càng thấp

H6

Tỷ lệ thành viên nữ thuộc HĐQT
càng cao thì mức độ QTLN càng
thấp

H7

Số lượng thành viên BKS càng
lớn thì mức độ QTLN càng thấp

Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực
Lý thuyết đại diện
Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực
Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực

-

-


-

Lý thuyết đại diện
Lý thuyết phụ
thuộc nguồn lực
Lý thuyết đại diện

-

-


×