Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Luan van tư tưởng hồ chí minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.19 KB, 107 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho Đảng và nhân dân ta một di sản tư
tưởng, lý luận vô cùng to lớn và sâu sắc. Tư tưởng của Người đã trở thành nền
tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam,
là tài sản vô giá của Đảng và nhân dân ta. Tư tưởng đó đã dìu dắt chúng ta
trên những chặng đường xây dựng và phát triển đất nước, là ngọn cờ dẫn dắt đến
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, trở thành sức mạnh tổng hợp và đoàn
kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hôm nay và mai sau.
Trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người, có tư tưởng về văn hóa.
Tư tưởng văn hóa của Người là một trong nhiều lĩnh vực phong phú và sâu
sắc nhất, có giá trị bền vững. Đây là lĩnh vực mà Hồ Chí Minh đã có đóng
góp quý giá cho nhân loại, Người đã được thế giới suy tôn là "Nhà văn hóa
lớn", "tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai". Không phải ngẫu nhiên mà
UNESCO đã ghi nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh hai danh hiệu cao quý: "Anh
hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của Việt Nam". Bởi, Hồ
Chí Minh mang cốt cách dân tộc mình tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Cùng với trí tuệ và tinh thần cách mạng, Hồ Chí Minh đã đấu tranh không mệt
mỏi, hy sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam và sự
tiến bộ, văn minh nhân loại. Là danh nhân văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh
tượng trưng cao đẹp cho cốt cách văn hóa dân tộc, thống nhất với các yếu tố
văn hóa nhân loại. Trên cơ sở nhận thức đầy đủ đúng đắn về cốt cách văn hóa
dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã kết tinh những giá trị ấy với tinh hoa văn
hóa nhân loại trên những phương diện khác nhau. Đó là văn hóa tình nghĩa,
tinh thần nhân văn Việt Nam, sự khoan dung hòa hợp, lối sống và cách ứng
xử. Hồ Chí Minh đã có một sự kết hợp hài hòa, nhuần nhị đã có cách giải
quyết một cách biện chứng.



2

Nhà văn hóa tương lai Hồ Chí Minh luôn là lá cờ vẫy gọi, là ngọn đèn
pha soi sáng con đường đi lên của dân tộc. Các giá trị tư tưởng đó không chỉ
có giá trị trong quá khứ mà luôn là tài sản của hiện tại và tương lai. Nó lan tỏa
và chỉ hướng đi lên cho sự phát triển của dân tộc. Trong toàn bộ giá trị tư
tưởng văn hóa của Hồ Chí Minh, có nội dung tư tưởng về giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ngày nay, nền kinh tế thị trường đã kéo theo sự phát triển như vũ bão
của khoa học - công nghệ, đem lại cho xã hội nhiều biến đổi to lớn. Công
nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và đương nhiên kéo theo sự thay đổi đời
sống vật chất và tinh thần. Điều đó có nghĩa là văn hóa có vai trò to lớn. Văn
hóa lành mạnh và không lành mạnh cũng ồ ạt thâm nhập vào. Một số phần tử
vì chạy theo lợi nhuận mà không hiểu tác hại của văn hóa không lành mạnh
đã đưa vào Việt Nam, thâm nhập vào giới trẻ. Nó làm cho một số bộ phận
thanh thiếu niên tụt dốc về văn hóa, đồng thời nó làm suy thoái về đạo đức,
lối sống của một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, cả cán bộ có chức có
quyền. Đó là sự phai nhạt về lý tưởng, không thật sự tin tưởng vào thắng lợi
cuối cùng của con đường cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và dân tộc ta đã lựa
chọn - con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là căn bệnh chủ nghĩa cá
nhân khá phổ biến dẫn tới cơ hội, thực dụng, quan liêu, lãng phí, tham ô, chạy
chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp...
Thông thường, mỗi bước phát triển đòi hỏi sự thăng hoa của văn hóa
nhưng thực tiễn những năm qua chúng ta chưa trả lời được vấn đề này.
Hiện nay, Đảng ta xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây
dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là quan trọng. Trong nhiệm vụ xây dựng Đảng, cùng với việc xây dựng
chính trị, tư tưởng, tổ chức, phải tập trung xây dựng Đảng về văn hóa, xây
dựng văn hóa trong Đảng, văn hóa cầm quyền. Xây dựng kinh tế trước hết

xây dựng con người có văn hóa, có đạo đức có trí tuệ, điều mà từ trước tới


3

nay chúng ta ít quan tâm. Coi xây dựng kinh tế là trung tâm là đúng, nhưng
phải hướng tới văn hóa và mục tiêu cuối cùng là vì mục tiêu văn ihóa, nước
giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Như vậy, văn hóa là nền tảng
tinh thần của xã hội. Chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới,
trong đó phải đặc biệt chú ý xây dựng văn hóa, tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế
thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức và thể lực, thẩm
mỹ ngày càng cao.
Với tất cả lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại và sự vận dụng vào xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay" làm
luận văn tốt nghiệp của mình
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991), nhiều đề
tài khoa học xã hội cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được triển khai
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống. Đặc biệt sau nghị quyết
01/NQ-TW về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay, nhiều đề tài cấp Nhà
nước (KX) đã được triển khai và thực hiện có hiệu quả. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996), đã thực hiện 10 chương trình nghiên
cứu khoa học với sự chỉ đạo của Hội đồng lý luận Trung ương.
Cùng với thời gian và tiến trình đổi mới đất nước, cho đến nay, đã có
nhiều cách tiếp cận tư tưởng Hồ Chí Minh. Công trình nghiên cứu bài viết của

tác giả trong nước và ngoài nước về Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày càng nhiều,
phong phú, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có liên quan đến nhiều mặt của đời


4

sống văn hóa xã hội ở nước ta và cả trên thế giới. Tiêu biểu là một số sản
phẩm sau:
Các công trình đã in thành sách:
- Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về
văn hóa" Hà Nội, 2003.
Đây là công trình gồm các bài viết của nhiều tác giả về tư tưởng văn
hóa Hồ Chí Minh, trong đó có một số bài viết đề cập tới quan điểm của Người
về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại như:
+ GS,TS. Đỗ Huy trong "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của
nền văn hóa - nghệ thuật mới ở Việt Nam", đã trình bày một cách khái quát
những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn
hóa nghệ thuật, khẳng định đây là "bộ phận hợp thành hữu cơ của hệ thống tư
tưởng Hồ Chí Minh, đặt cơ sở cho quá trình nhân dân ta xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc". Trong bài viết này, tác giả đã bước đầu
đề cập đến những vấn đề cơ bản như vấn đề kế thừa, phát huy các giá trị văn
hóa nghệ thuật truyền thống, sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa nghệ
thuật dân tộc, biện chứng giữa tính dân tộc và tính quốc tế.
+ Trong bài "Giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc trong tư tưởng Hồ
Chí Minh", PSG,TS. Nguyễn Khánh Bật chủ yếu đi sâu vào vấn đề bản sắc
văn hóa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh - cái tạo nên đặc trưng và khí
phách và tâm hồn mỗi dân tộc.
+ TS. Nguyễn Đức Lữ trong bài "Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc", chủ yếu
nói về mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố dân tộc và nhân loại.

- Tác phẩm "Hồ Chí Minh - văn hóa và đổi mới", của hai tác giả Đinh
Xuân Lâm và Bùi Đình Phong, Nxb Lao động, Hà Nội, 1998.


5

Trong "Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính
dân tộc, khoa học, đại chúng", PGS,TS. Bùi Đình Phong đã đề cập tính dân
tộc trong mối quan hệ giữa tính dân tộc với tính khoa học và tính đại chúng Ba tính chất cơ bản của nền văn hóa mới Việt Nam sau 1945, mà trong đó văn
hóa nghệ thuật là một lĩnh vực đặc thù; và đi đến khẳng định: Hồ Chí Minh
luôn nhấn mạnh về "cái vốn", "cốt cách" và "đặc tính" của nền văn nghệ dân tộc.
- GS,TS. Đỗ Huy: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển
văn hóa mới ở Việt Nam", Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2000.
Tác giả đã đề cập, để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại cần nghiên cứu các tư tưởng văn hóa của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
- Thành Duy: "Cơ sở khoa học và nền tảng văn hóa của tư tưởng Hồ
Chí Minh", Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
Tác giả đã tìm hiểu hai mặt: Nền tảng văn hóa và cơ sở khoa học của
tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh trong mối quan hệ hữu cơ để tìm ra hạt nhân
cốt lõi trong văn hóa tư tưởng Hồ Chí Minh. Tác giả đã nghiên cứu một vài
khía cạnh trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trên góc độ văn hóa và khoa học để
người đọc thấy rõ hơn tầm vóc Hồ Chí Minh không chỉ với tư cách là anh
hùng giải phóng dân tộc mà còn là nói đến với tư cách là nhà văn hóa lớn của
thế giới, với nhiều sáng tạo văn hóa có giá trị thời đại.
- Đỗ Huy: "Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh", Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1997.
Tác giả đã đặt vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, trình bày các vấn đề: Phương pháp nghiên cứu Hồ Chí Minh về
chiến lược xây dựng nền văn hóa mới, tư tưởng văn hóa chính trị, văn hóa đạo

đức, văn hóa pháp luật, văn hóa nghệ thuật Hồ Chí Minh và những đề xuất
của tác giả về việc tiếp tục phát triển các tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


6

- Song Thành: "Hồ Chí Minh, nhà văn hóa kiệt xuất", Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1999.
Tác giả đã khẳng định: Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn, tạo cho văn
hóa Việt Nam một cái nhìn mới, một quan niệm sống mới, một ý thức chính
trị đạo đức... Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh đã làm thức dậy truyền thống văn
hóa dân tộc, định hướng cho việc phát triển một nền văn hóa mới.
- Bùi Đình Phong: "Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa",
Nxb Lao động, Hà Nội, 2001.
Tác giả đã nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa với nội dung
cốt lõi. Đó là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, trên nền tảng chủ
nghĩa Mác - Lênin, gắn liền dân tộc với quốc tế.
- Phạm Ngọc Anh - Bùi Đình Phong: "Hồ Chí Minh - Văn hóa và phát
triển", Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2009.
Các tác giả đã khẳng định ở Hồ Chí Minh, văn hóa là quá trình kế
thừa, chắt lọc và tiếp biến những giá trị của văn hóa dân tộc và thời đại. Văn
hóa ở Hồ Chí Minh là văn hóa của con người, do con người, vì con người, lấy
con người làm hạt nhân xâu chuỗi giá trị phát triển. Những giá trị tư tưởng
của Hồ Chí Minh về văn hóa được thời gian thẩm định không chỉ là tài sản
riêng của dân tộc Việt Nam mà đã trở thành tài sản chung của toàn nhân loại.
- Lê Xuân Vũ: "Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền văn hóa Việt Nam",
Nxb Văn học, Hà Nội, 2004.
Tác giả đã làm sáng tỏ Hồ Chí Minh là một nhà văn hóa lớn có nhiều
cống hiến đặc biệt cho văn hóa Việt Nam ở trong lĩnh vực văn học, báo chí

qua chính tác phẩm của Người để chúng ta thấy, mục đích văn chương, báo
chí của chủ tịch Hồ Chí Minh là phục vụ sự nghiệp cách mạng của nhân dân,
và đã trở thành nguyên tắc rường cột cho nền văn hóa Việt Nam. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cùng Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập và xây dựng nền văn


7

hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển trong sự nghiệp đổi mới
ngày nay.
- Lê Xuân Vũ: "Trong ánh sáng tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh",
Nxb Văn học, Hà Nội, 2003.
Tác giả đã tập hợp những bài viết của những tác giả phản ánh thực
tiễn văn hóa Việt Nam, những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường
lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa trong điều kiện cụ thể, góp
phần tích cực vào xây dựng văn hóa mới.
- Ngoài ra, còn phải kể đến một số công trình nghiên cứu bàn về bản
sắc văn hóa Việt Nam trong quá trình phát triển và hội nhập trên nhiều lĩnh vực
cụ thể, như: "Tìm về bản sắc dân tộc của văn hóa", do Hồ Sĩ Vịnh chủ biên;
"Văn hóa Việt Nam một chặng đường", do Hồ Sĩ Vịnh và Huỳnh Khái Vinh
chủ biên; Thành Duy trong "Tư tưởng Hồ Chí Minh với bản sắc văn hóa dân
tộc"; hoặc viết về Hồ Chí Minh như là một biểu tượng của việc giữ gìn và phát
huy bản sắc của dân tộc, như "Suy nghĩ về bản sắc văn hóa dân tộc" của Huy Cận.
Các luận văn:
+ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vận dụng vào xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong sự nghiệp đổi mới"
của Vũ Đình Hướng, Luận văn cử nhân, 2003.
+ "Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân tộc của văn hóa
nghệ thuật vào xây dựng nền văn hóa nghệ thuật đậm đà bản sắc dân tộc ở
nước ta hiện nay", của Nguyễn Thị Thu Hiền, Luận văn thạc sĩ, 2008.

+ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới vào
xây dựng nền văn hóa dân tộc và vận dụng tư tưởng đó trong phát triển nền
văn hóa ở nước ta hiện nay", của Trịnh Thanh Mai, Luận văn thạc sĩ, 2009.
Các luận văn trên đã trình bày quan điểm Hồ Chí Minh về tính dân
tộc của văn hóa nghệ thuật, một số giải pháp để vận dụng quan điểm về tính


8

dân tộc của Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa nghệ thuật đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc.Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiếp thu tinh hoa văn hóa
thế giới.
Các bài đăng trên tạp chí
+ "Những yếu tố cơ bản tạo nên nền tảng văn hóa Hồ Chí Minh", của
Thái Hữu Thuấn, Tạp chí Khoa học xã hội, số 12, 2005.
+ "Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và vấn đề bảo tồn bản sắc văn
hóa dân tộc", của Nguyễn Ngọc Quyến, Tạp chí Triết học, số 11, 2004.
+ "Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển giá trị văn hóa dân tộc và nhân
loại", của Hồ Văn Chiểu, Tạp chí Cộng sản, số 34, 2003.
+ "Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc về lịch sử văn hóa dân tộc để thực
hiện sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản", của Cù Huy Chử, Tạp chí Khoa
học xã hội, số 01+ 02, 2006.
+ "Sự thật: Người là Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc và
nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam", của TS. Văn Thị Thanh Mai, Tạp chí
Tuyên giáo, số 10-2009.
Như vậy, có thể thấy các công trình, bài viết nêu trên đều đã đề cập
đến quan điểm của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại ở những góc độ khác nhau, song vẫn chủ yếu
là đi vào vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,
chưa tác giả nào tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung quan điểm của Hồ Chí

Minh về "Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại" để vận dụng vào xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay như là một
công trình nghiên cứu có tính hệ thống và chuyên biệt. Trên cơ sở kế thừa kết
quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, luận văn sẽ đi sâu, góp phần
làm rõ hơn nữa quan điểm của Người về vấn đề này.


9

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn có mục đích trình bày một cách tổng quát những quan điểm
của Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại và sự vận dụng vào xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn làm rõ:
- Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bắc sắc văn
hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại vào xây dựng nền văn hóa ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn
xác định đối tượng nghiên cứu là tư tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, quá trình vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong xây dựng, phát triển văn hóa nước ta.
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa là một vấn đề rất rộng. Luận văn

không trình bày toàn bộ các vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mà chủ
yếu khai thác một trong những quan điểm của Người về văn hóa đó là tư
tưởng Hồ Chí Minh về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hóa nhân loại, quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta trong
xây dựng, phát triển văn hóa nước ta trong quá trình đổi mới.


10

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Thực hiện đề tài này, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại, đồng thời có tham khảo một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa
học, sách báo, tạp chí… liên quan đến nội dung được đề cập trong luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó luận văn sẽ được thực
hiện trên cơ sở kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu khoa học: Phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, phương pháp lôgíc và lịch sử, điều tra so
sánh... Ngoài ra, luận văn còn áp dụng cả phương pháp khảo sát thực tiễn để
thực thi đề tài này.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Trước hết, luận văn sẽ là một bản tổng hợp một cách đầy đủ, chân
thực, khách quan những tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa. Trên cơ sở đó,
luận văn sẽ làm công việc khảo sát việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong
sự nghiệp xây dựng văn hóa Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
và giảng dạy các bộ môn: Văn hóa, lịch sử, đạo đức, tư tưởng Hồ Chí Minh...
ở các nhà trường, làm tài liệu cho các đề tài nghiên cứu sau này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 2 chương, 6 tiết.


11

Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC
VÀ TIẾP THU TINH HOA VĂN HÓA NHÂN LOẠI

1.1. KHÁI NIỆM VĂN HÓA, BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC, QUAN NIỆM
VỀ GIAO LƯU VÀ TIẾP THU VĂN HÓA GIỮA CÁC DÂN TỘC

1.1.1. Khái niệm văn hóa
1.1.1.1 Quan niệm của các học giả về văn hóa
Văn hóa là khái niệm có nội hàm hết sức phóng phú. Mọi sự vật, hiện
tượng, mọi quá trình trong thế giới vật chất lẫn tinh thần có mối quan hệ với
con người, tác động và ảnh hưởng trở lại con người đều có khía cạnh văn hóa
của nó. Người ta có thể hiểu văn hóa như một hoạt động sáng tạo của con
người, nhưng cũng có thể hiểu văn hóa như lối sống, thái độ ứng xử, lại có thể
hiểu văn hóa như trình độ học vấn…
Bằng những cách tiếp cận khác nhau, gắn với nhiều khía cạnh của cuộc
sống, hiện nay, đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa, phản ánh văn hóa
"hữu thể" (tangible) và văn hóa "vô hình" (intangible).
Văn hóa hữu thể như đình, đền, chùa, miếu, lăng mộ, nhà sàn…
Văn hóa vô hình bao gồm các biểu hiện tượng trưng và "không sờ

thấy được", được lưu truyền và biến đổi theo thời gian. Nó gồm âm nhạc,
múa, truyền thông, truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, phong tục tập quán,
lễ hội...
Tác giả E.B. Tylor trong cuốn Văn hóa nguyên thủy (Primitere Culture,
London, 1871) đưa ra quan niệm văn hóa là một phức hợp nhiều mặt, do con
người tạo nên và mang tính xã hội.


12

Tổng thư ký UNESCO, Mayor định nghĩa: "Văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và các cộng đồng) trong quá khứ và
hiện tại. Qua các thế kỷ, các hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống
các giá trị, các truyền thống và thị hiếu, những yếu tố xác định đặc tính riêng
của mỗi dân tộc" [28, tr. 95].
Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO)
đưa ra cách hiểu văn hóa theo nghĩa rộng: Văn hóa là một phức thể - tổng thể
các đặc trưng - diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm... khắc họa
nên bản sắc của cộng đồng gia đình, xóm, làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội…
Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương, cả lối sống, những quyền
cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống tín ngưỡng...
UNESCO cũng đưa ra cách hiểu văn hóa theo nghĩa hẹp: Đó là tổng
thể những hệ thống biểu trưng chi phối cách ứng xử và sự giao tiếp trong một
cộng đồng, khiến cộng đồng ấy có đặc thù riêng (đẹp hay xấu, đạo đức hay vô
luân, phải hay trái, đúng hay sai…) theo cộng đồng ấy.
Người phương Đông có quan niệm: "Văn" nghĩa là "vẻ đẹp" (giá trị);
văn hóa nghĩa là "trở thành có giá trị", "chứa các giá trị, thước đo, mức độ
nhân bản của xã hội và con người".
Người phương Tây có quan niệm: Từ tiếng La-tinh, Cultura (vun trồng
vật chất và tinh thần), dẫn tới Culture (văn hóa). Như vậy, văn hóa được hiểu

là trình độ vun trồng của con người, của xã hội, khẳng định tính người, làm
cho con người và xã hội ngày càng phát triển hơn, bỏ lại những gì đằng sau là
trạng thái nguyên sơ.
Ở Việt Nam, khái niệm văn hóa chỉ mới xuất hiện thời hiện đại, gắn
với tư tưởng của GS. Đào Duy Anh và tác phẩm "Việt Nam văn hóa sử cương"
của ông. Trong tác phẩm đó, theo trường phái văn hóa học Pháp, GS. Đào
Duy Anh chỉ quan niệm văn hóa như là tổng hợp các mặt sinh hoạt của con
người trong đời sống xã hội.


13

Như vậy, chúng ta hiểu văn hóa là một phạm trù chỉ toàn bộ đời sống
con người trong mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người
với giới tự nhiên. Quan hệ đó đã kết tinh các giá trị (vật chất và tinh thần),
năng lực hoạt động của con người (trong phương thức sống, năng lực chiếm
lĩnh thế giới và khả năng hóa thân vào sản phẩm do mình tạo ra) và trình độ
phát triển của chính bản thân con người (hoàn thiện phẩm chất, nhân cách,
trình độ...). Văn hóa giúp con người tự hoàn thiện, khắc họa bản sắc, tính cách
riêng của một cộng đồng, có tầm quan trọng to lớn và ý nghĩa cách mạng sâu
xa đối với vận mệnh con người.
Như vậy, khi tìm hiểu về lĩnh vực này từ trước đến nay đã có nhiều
cách hiểu khác nhau về văn hóa. Chung quy lại, có ba cách hiểu chính sau đây:
- Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất - đó là toàn bộ những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và
phát triển của mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng
của toàn bộ cuộc sống loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các
mặt của đời sống xã hội và quan tâm đến trình độ phát triển của con người.
- Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn - đó là những giá trị tinh thần,
là đời sống tinh thần của xã hội, như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ,

tâm linh nghệ thuật... Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt, chứ không phải là
toàn bộ đời sống xã hội loài người.
- Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hằng ngày - đó
là trình độ học vấn của con người.
1.1.1.2. Quan niệm Hồ Chí Minh về văn hóa
Nghiên cứu tư tưởng văn hóa ở Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, Người đã
có quan niệm văn hóa theo nhiều nghĩa khác nhau. Tùy từng thời kỳ, Người
sử dụng khái niệm văn hóa với những nội hàm rộng hẹp khác nhau. Nhưng
khi bắt tay xây dựng nền văn hóa mới, Người đã coi văn hóa là đời sống tinh


14

thần, là thuộc về kiến trúc thượng tầng, để có sự phân biệt tương đối với các
mặt khác nhau của đời sống xã hội
Trong "Mục đọc sách" ở phần cuối tập "Nhật ký trong tù" (năm 19421943), Hồ Chí Minh đã nêu ra một định nghĩa về văn hóa đầy đủ nhất: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu
hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời
sống và đòi hỏi của sự sinh tồn" [40, tr. 431].
Người còn ghi thêm:
Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc
lợi của nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.

5. Xây dựng kinh tế [40, tr. 431].
Như vậy, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất. Đó là toàn bộ những
giá trị vật chất và những giá trị tinh thần mà loài người sáng tạo ra nhằm đáp
ứng lẽ sinh tồn, đồng thời cũng là mục đích sống của loài người. Và muốn
xây dựng văn hóa dân tộc thì phải xây dựng tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
xã hội, đạo đức, tâm lý con người.
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, văn hóa được Hồ Chí Minh xác
định là đời sống tinh thần xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Văn hóa được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo thành bốn vấn


15

đề chủ yếu của đời sống xã hội. Trong công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn
vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: Chính trị, kinh
tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn hóa là một kiến trúc thượng tầng.
Theo Hồ Chí Minh, bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với nhau, cùng
tác động lẫn nhau:
- Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
Khi đất nước và dân tộc còn bị nô lệ thì văn hóa cùng chung số phận
nô lệ, tuyệt đại bộ phận nhân dân bị đọa đầy trong vòng tối tăm dốt nát. Vì
vậy, có những nhà yêu nước chủ trương trước hết phải khai dân trí phải nâng
cao trình độ văn hóa của nhân dân, sau đó mới tính chuyện giành độc lập tự
do cho đất nước và dân tộc. Đường lối cải lương đó đã hoàn toàn bị thất bại.
Khi chuẩn bị cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga, vấn đề cũng được
đặt ra tương tự như vậy. Có người cho rằng cần nâng cao trình độ văn hóa của
nhân dân Nga? Quan điểm của Lênin đã thực tiễn Cách mạng tháng Mười
Nga chứng minh là đúng đắn.
Lãnh đạo nhân dân đi theo con đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh

đã vạch ra một đường lối mới: Phải tiến hành cách mạng chính trị trước mà cụ
thể ở Việt Nam là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc để giành chính
quyền, để giải phóng chính trị, giải phóng xã hội, từ đó giải phóng văn hóa
mở đường cho văn hóa phát triển.
- Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho xây dựng và phát triển văn hóa.
Cùng với việc xác định bốn vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa
đều phải coi trọng ngang nhau, Hồ Chí Minh vẫn chỉ rõ kinh tế thuộc về cơ sở
hạ tầng, là nền tảng của việc xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng
tầng. Từ đó, Người nêu ra luận điểm phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở
hạ tầng để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa.


16

Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có
kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được.
"Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa.
Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới
vực được đạo, vì thế kinh tế phải đi trước… Phát triển kinh tế và văn hóa để
nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta" [47, tr. 59].
- Văn hóa không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.
Văn hóa phải thực hiện nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển
kinh tế.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã khẳng định:
"Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài,
mà phải ở trong kinh tế chính trị" [43, tr. 368-369].
Trong tư tưởng văn hóa, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến bản chất của
một hiện tượng văn hóa đó chính là khả năng sáng tạo của nhân dân lao động.
Khi khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo văn hóa, là ngọn
nguồn của mọi giá trị văn hóa, Người nhắc nhở cần tạo cho văn hóa một động

lực, một diện mạo hoàn toàn mới, góp phần vào việc xây dựng và phát triển
một nền văn hóa mới ở Việt Nam.
Như vậy, một điều đặt ra so với định nghĩa về văn hóa của UNESCO thì
quan niệm của Hồ Chí Minh được nêu ra từ rất sớm nhưng lại phù hợp với tình
hình hiện nay khi mà UNESCO đã thống nhất quan niệm cơ bản về văn hóa.
Từ phương Đông sang phương Tây, từ truyền thống đến hiện đại, từ
dân tộc đến nhân loại, Người đã có một quá trình tích lũy tri thức, thâu thái và
liên kết nhiều sắc thái văn hóa, hòa quyện cách mạng với văn hóa. Vì vậy,
chúng ta có thể nhận thức quan niệm nêu trên của Hồ Chí Minh về văn hóa là
một sự tổng kết cả hai phương diện khoa học và thực tiễn chuẩn bị cho sự
nghiệp xây dựng một nền văn hóa mới ở Việt Nam.


17

Tóm lại, "văn hóa" là một khái niệm có nội hàm phong phú và ngoại
diên rất rộng, cho nên tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau. Cho dù hiểu
theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp thì văn hóa vẫn được coi là tất cả những giá trị
mà nhân loại đã đạt được trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.Văn
hóa chính là sự nối tiếp từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. Văn hóa đã trở
thành một trong những thành tố quan trọng đối với sự tồn vong và phát triển
của mỗi một dân tộc.
1.1.2. Khái niệm bản sắc văn hóa
Nhân lõi của một nền văn hóa tập trung và lắng đọng ở bản sắc văn
hóa. Các nhà triết học và văn hóa học đều nhận thấy, bản sắc văn hóa là đặc
trưng riêng về sắc thái thể hiện cả bên ngoài lẫn nội dung bên trong, khẳng
định nó là của dân tộc này chứ không phải là dân tộc khác. Bản sắc văn hóa,
vì thế, là bộ gien di truyền của văn hóa dân tộc. Nói một cách khái quát, bản
sắc văn hóa là sức mạnh chủ thể của nền văn hóa. Bản sắc văn hóa thể hiện ở
mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, xã hội.

Trên bình diện xã hội, động lực văn hóa đối với sự phát triển xã hội
thể hiện ở vai trò của bản sắc văn hóa đối với sự cố kết cộng đồng, tạo nên
sức mạnh tổng hợp, nội sinh của mỗi dân tộc. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, mỗi cộng đồng dân tộc đều tạo dựng nên cho mình những giá trị tinh
thần nhất định. Những giá trị đó là sự phản ánh về mặt tinh thần quá trình tồn
tại và phát triển của mỗi dân tộc. Đến lượt mình, những giá trị đó lại trở thành
định hướng giá trị, thành động lực của quá trình dựng nước và giữ nước của
dân tộc, các quốc gia.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, như Đảng ta đã khẳng định tại Hội
nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII:
Bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn


18

năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng
nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cá
nhân với gia đình - làng - xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung,
trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự
tinh tế trong ứng xử tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân
tộc độc đáo [16, tr. 56].
Bản sắc đó chi phối toàn bộ đời sống của cộng đồng dân tộc Việt Nam,
trải qua mấy nghìn năm lịch sử, nó được biểu hiện rõ rệt nhất trước những
thách thức của lịch sử đối với vận mệnh dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam
đã tạo nên sự tồn tại của dân tộc Việt Nam và giúp cho cộng đồng dân tộc
tránh được âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược trong lịch sử. Chính
hệ giá trị cốt lõi này bản sắc văn hóa dân tộc - là "bộ lọc" và hệ quy chiếu để
ông cha chúng ta lựa chọn, tiếp thu nhiều giá trị mới qua nhiều cuộc giao lưu,

tiếp xúc văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới qua các thời kỳ khác
nhau của lịch sử. Điều kỳ lạ là trải qua tất cả các cuộc giao lưu, giao tiếp ấy
dù là áp đặt hay tự nguyện, văn hóa Việt Nam không những vẫn giữ nguyên
được bản sắc của mình mà còn phong phú thêm nhờ biết thâu nhận nhiều yếu
tố mới từ bên ngoài, đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước qua các
giai đoạn lịch sử, đồng thời phù hợp với giá trị cội nguồn của văn hóa dân tộc.
1.1.3. Quan niệm về giao lưu và tiếp thu văn hóa giữa các dân tộc
Giao lưu văn hóa (Acculturation) là sự tiếp xúc và trao đổi qua lại trong
một quá trình lâu dài, trực tiếp giữa hai nền văn hóa của hai cộng đồng người
khác nhau. Giao lưu văn hóa là sự vận động thường xuyên của xã hội, gắn bó
với tiến hóa xã hội nhưng cũng gắn bó với sự phát triển của văn hóa, là sự vận
động thường xuyên của văn hóa. Nó không chỉ là động lực phát triển của văn
hóa mà còn là động lực của sự tiến hóa xã hội.


19

Ngay từ thời tiền sử, sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa đã diễn ra. Song,
điều đó không phải bản thân hoạt động văn hóa mang lại mà nó diễn ra nhờ
hoạt động trao đổi kinh tế và nhiều hoạt động trao đổi "phi kinh tế", như trao
đổi tặng phẩm hay vật phẩm tôn giáo; hoặc nhờ những sự tiếp xúc khác nhau
như quan hệ hôn nhân, ngoại giao… Ngoài ra, các cuộc thiên di thường xảy ra
trong thời nguyên thủy và cổ trung đại làm cho các tập đoàn người có văn hóa
khác nhau đã vô tình đến với nhau, sống cạnh nhau, xen kẽ nhau cũng dẫn
đến sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa.
Trong giao lưu văn hóa, một điều tất yếu xảy ra là, bất kể văn hóa của
cộng đồng người này có thể lan truyền đến cộng đồng kia. Các yếu tố văn hóa
được tiếp biến có khi là cá biệt, rời rạc; nhưng cũng có khi lại kết thành hệ
thống chặt chẽ; có khi lại gắn kết với những yếu tố văn hóa truyền thống; có
khi lại đổi mới mạnh mẽ các yếu tố văn hóa cũ. Người ta gọi những yếu tố

văn hóa đó là ngoại sinh. Vì vậy, có thể nói, giao lưu văn hóa vừa là kết quả
của trao đổi, vừa là chính bản thân sự trao đổi. Có hiểu như vậy mới thấy hết
tầm quan trọng của giao lưu văn hóa trong lịch sử nhân loại. Nó là một động
lực cho sự phát triển của lịch sử.
1.2. NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ TIẾP THU TINH HOA VĂN HÓA NHÂN LOẠI

1.2.1. Văn hóa dân tộc cội rễ của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
Như một dòng chảy liên tục từ đời này sang đời khác, như những mạch
lưu thông lan tỏa và thấm sâu trong từng thớ đất của ông cha để lại, văn hóa
dân tộc luôn là cội rễ của tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có truyền thống nhà nho tại
một vùng đất xứ Nghệ đầy ắp truyền thống văn hóa. Ngay từ lúc nhỏ, Hồ Chí
Minh đã được nuôi dưỡng trong một gia đình - quê hương xứ Nghệ; Người
được tắm mình trong bao làn điệu dân ca, điệu vè, hát ví, hát giặm. Khi còn


20

thiếu niên, Nguyễn Sinh Cung đã say sưa với những hoạt động văn hóa - văn
nghệ giàu tình cảm quê hương. Cậu bé Cung thường cùng với anh trai và bạn
bè có mặt trong những điệu hát ví, hát phường vải và các buổi hội hè. Hơn
nữa, từ nhỏ, Nguyễn Sinh Cung đã được tắm mát, bao bọc trong sự đầm ấm,
hạnh phúc của gia đình tình cảm nồng nàn, thủy chung của tình làng nghĩa
xóm vẫn vốn là những nét đẹp của truyền thống văn hóa Việt Nam…
Những truyền thống văn hóa do Hồ Chí Minh kết tinh bắt nguồn từ sự
đùm bọc yêu thương của một gia đình nhà nho thanh bạch, ngay từ đầu đã
được hưởng sự giáo dục đúng đắn, chỉ dẫn tận tình của cha mẹ, thầy học và
những người thân trong họ trong làng. Bởi vậy, ở cậu bé, những truyền thống
văn hóa của dân tộc, trước hết lòng yêu nước, cũng được sớm ươm mầm, nảy

nở và lớn lên từng ngày.
Cha Nguyễn Sinh Cung là ông Nguyễn Sinh Sắc, đậu Phó bảng nhưng
không muốn ra làm quan, cho rằng "quan trường là nô lệ trong những người
nô lệ, lại càng nô lệ hơn". Mẹ Nguyễn Sinh Cung là bà Hoàng Thị Loan, người
phụ nữ có học, đôn hậu, đảm đang, hết lòng chăm sóc và bảo ban con cái. Các
thầy học đều là những nhà nho đức hạnh được gia đình cậu tin tưởng, gửi gắm.
Từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được nghe cha mình đàm thoại với bạn bè về
thời cuộc, được đứng hầu trà trong các cuộc luận bàn giữa cha cậu với những
người bạn chí thân cùng chí hướng với Người, như: Đào Tấn, Phan Bội Châu,
Vương Thúc Quý, Lê Văn Huân... Hồ Chí Minh đã tham gia công tác bí mật
làm liên lạc cho những nhà nho yêu nước, được đọc và nghe đọc những bài
yêu nước thể hiện tinh thần và văn hóa của dân tộc
Bằng sự nhảy cảm bản thân, cộng với sự truyền dạy của thầy, của cha,
Nguyễn Tất Thành đã sớm hiểu biết tường tận về lịch sử hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước của dân tộc. Người tự hào vì mình là con lạc cháu Hồng, là
con cháu của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi... các vị anh hùng cứu nước. Người cũng kính trọng và cảm phục sâu sắc


21

tâm hồn tài năng, đức độ của các nhà văn hóa Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...
Nguyễn Tất Thành yêu những câu ca dao quê hương.
Vào buổi nước mất nhà tan từ đầu thế kỷ XX, ở kinh đô Huế, Nguyễn
Tất Thành đã nghe cha kể lại về cuộc nổi dậy của Vua Hàm Nghi, về cả gia
đình tướng Tôn Thất Thuyết đã bỏ mình vì nước, phò vua giữa rừng sâu... Tất
cả những hành động đó đều có một điểm xuất phát từ "nhân cách dân tộc" và
đều cùng vì "nhân cách dân tộc Việt Nam"
Tất cả đã bồi bổ vào trái tim, tâm hồn và nhãn quan chính trị của người
thanh niên Nguyễn Tất Thành. Và cũng chính là bắt đầu từ đó, vì niềm tự hào

quá khứ của Tổ quốc, vì truyền thống tốt đẹp của một nền văn hóa dân tộc với
bao di sản của tổ tiên, Nguyễn Tất Thành đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu
dân, cứu nước.
Hành trang của Người trên bước đường bôn ba là một nền văn hóa tốt
đẹp của quê hương - gia đình - dân tộc. Người đã dùng chính vũ khí văn hóa
dân tộc cao đẹp đó để chống lại thứ văn hóa xấu xa của chủ nghĩa thực dân
xâm lược, với mục tiêu không chỉ để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc Việt
Nam mà còn vì sự trường tồn và phát triển của nền văn hóa nhân loại.
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại - nguồn bổ sung, hoàn chỉnh tư
tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
Nếu như nền văn hóa dân tộc là cái khởi nguyên, cái cội rễ, thì tinh
hoa văn hóa nhân loại sẽ bổ sung hoàn chỉnh cho tầm cao tư tưởng và nhân
cách Hồ Chí Minh.
Quá trình hoạt động cách mạng và trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh
về văn hóa đã thể hiện một luận điểm rất quan trọng, đó là: Nền văn hóa của
một dân tộc phải là kết quả của sự kết hợp văn hóa dân tộc với tinh hoa văn
hóa nhân loại. Và chính bằng trí tuệ tài năng, đầu óc phê phán tinh tường, sức


22

lao động và bằng cả lý tưởng của mình, Người là biểu tượng của sự tiếp thu
và hòa nhập tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Ngay
từ thời niên thiếu, Người đã được đào tạo theo lối nho học truyền thống. Người
đọc thuộc nhiều bài trong "Tứ thư", "Ngũ kinh" - những bộ sách kinh điển của
Nho giáo. Người đã từng nói (1923): Tôi sinh ra trong một gia đình nhà nho
Việt Nam... Những thanh niên trong gia đình ấy thường nghiên cứu lý luận
của Khổng Tử, đó không phải là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh
nghiệm đạo đức và sự trang nhã. Về căn bản, chủ nghĩa Khổng Tử là sự bình

yên trong xã hội không bao giờ thay đổi.
Trong sự phát triển của Người về văn hóa, đặc biệt là khi tiếp thu chủ
nghĩa Mác - Lênin, thì đối với học thuyết Nho giáo Hồ Chí Minh có thái độ
rất rõ ràng, phù hợp với đạo lý dân tộc và tinh thần mác - xít. Người đã từng
nói: Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy học thuyết của Khổng Tử có nhiều
điều không tích cực, song chúng ta phải học những điều hay trong đó. Trong
lĩnh vực xây dựng con người mới, Hồ Chí Minh giáo dục cán bộ, đảng viên ta
phải chịu khổ trước và hưởng vui sau nhân dân, không bị cám dỗ trước của
cải vật chất, không vì nghèo mà thay đổi lòng dạ, không vì kẻ thù có sức
mạnh mà nhu nhược khuất phục. Tư tưởng đó chính là Hồ Chí Minh đã tiếp
thu cái cao đẹp của Nho giáo.
Sau khoảng 30 năm hoạt động ở nước ngoài, chủ yếu là ở trung tâm
văn minh châu Âu, và ngọn nguồn tinh hoa của các cuộc cách mạng tư sản,
Nguyễn Ái Quốc đã có đủ thời gian và điều kiện để tiếp nhận những gì thuộc
văn hóa phương Tây mà cần thiết cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc mình.
Đó là vốn tri thức sách vở mà Người có được khi tiếp nhận với tinh hoa văn
hóa phương Tây từ cổ tới kim qua những tác phẩm bất hủ của những thiên tài
như Sếchxpia, Huy gô, Tônxtôi, Pruđông… Hồ Chí Minh đã sớm tìm thấy


23

trong chủ nghĩa nhân văn một khát vọng tự do, một tinh thần chiến đấu không
khoan nhượng vì cuộc sống tốt đẹp của con người.
Đối với văn hóa phương Tây, một mặt Người đã tìm thấy những giá trị
quý báu nhất của cuộc cách mạng tư sản đấu tranh vì quyền tự do, quyền bình
đẳng và bác ái. Qua lăng kính của một con người trên con đường đấu tranh
giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu tư tưởng tự do, bình đẳng,
dân chủ một cách triệt để. Tuy nhiên, Người cũng phê phán "những tư tưởng
cộng hòa dân chủ không đến nơi" của cách mạng tư sản. Người cũng đã thể

hiện điều đó bằng tầm nhìn sâu sắc của mình.
Trong bộ phận cấu thành tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa mới, chủ
nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò quan trọng nhất. Khác với các học thuyết khác,
chủ nghĩa Mác- Lênin không chỉ dừng lại ở mưu cầu hạnh phúc cho mọi
người mà con trang bị cho con người phương pháp biện chứng duy vật với tư
cách là công cụ nhận thức khoa học để hành động cách mạng. Tư tưởng Hồ
Chí Minh là trí tuệ của loài người, là sản phẩm văn hóa của nhân loại được
chắt lọc qua nhiều thế hệ.
Nguyễn Ái Quốc tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin là tiếp thu một hệ tư
tưởng hoàn toàn tiến bộ so với các hệ tư tưởng trước đó mà Người đã biết tới.
Tính mới mẻ và sự khác nhau căn bản đó chính là ở chỗ tư tưởng Mác - Lênin
là nguồn sáng hướng dân tộc Việt Nam tới độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1.3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIỮ GÌN
BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VÀ TIẾP THU TINH HOA VĂN HÓA NHÂN LOẠI

1.3.1. Hồ Chí Minh với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
1.3.1.1. Giữ gìn bản sắc văn hóa - Nhu cầu sinh tồn và phát triển
dân tộc
Văn hóa trước hết là văn hóa của dân tộc. Theo cách tiếp cận đó, văn
hóa Việt Nam trước hết là thành quả mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước


24

kiên cường, sáng tạo đầy gian khổ, hy sinh nhưng rất đỗi hào hùng của cộng
đồng các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có
thể nói đặc trưng tiêu biểu, khí phách và tâm hồn dân tộc được thể hiện rõ nhất
qua bản sắc văn hóa dân tộc. Từ bản sắc văn hóa dân tộc, người ta còn đi sâu
nghiên cứu để tìm ra điều cốt lõi nhất trong bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.

Để hiểu rõ được bản sắc văn hóa Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
Dân ta phải biết sử ta,
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam
Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang
của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng cháu tiên, có nhiều người tài giỏi
đánh Bắc diệt Nam, yên dân trị nước đến để muôn đời [43, tr. 171].
Chính truyền thống lịch sử đó đã tạo nên "vốn quý" văn hóa Việt Nam,
cốt cách của tâm hồn dân tộc. Hiểu biết lịch sử, vì thế trở thành nhu cầu tồn
tại của cả cộng đồng và mỗi cá nhân.
Theo Hồ Chí Minh, từ việc nghiên cứu lịch sử nước nhà, mỗi người sẽ
thấy dân tộc Việt Nam có những cái vốn rất quý báu của mình. Như vậy, quá
trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam đã tạo ra
những giá trị bền vững, những tinh hoa mang tính đặc thù. Làm nên bản sắc
văn hóa dân tộc.
Với Hồ Chí Minh, việc bảo vệ, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là cần
thiết nhưng quan trọng hơn là vận dụng và phát triển những bản sắc ấy vào
cuộc sống. Đó là cách tốt nhất để bảo vệ và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia,
là vấn đề tồn tại hay không tồn tại của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc
Việt Nam có ý nghĩa thiêng liêng cao quý, nó là tài sản vô giá, là linh hồn của


25

núi sông, đã được hun đúc, tạo dựng qua bao biến thiên của lịch sử và thăng
trầm của vận nước mà trong đó nhân dân ta phải trả bằng cả, mồ hôi và nước
mắt. Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam là biểu hiện sự trường tồn của giống
nòi, là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai của dân tộc. Văn hóa dân
tộc mãi mãi là một tiêu chí cơ bản để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác.
Phát triển kinh tế là nhu cầu bức xúc đối với nước ta hiện nay, nhưng

nếu làm cho bản sắc văn hóa dân tộc bị tàn úa đi thì trở thành phản phát triển.
Trong Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa VII), Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
nói: Cùng với việc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa, phải xây dựng và
phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản là dân tộc, hiện đại, nhân văn.
1.3.1.2. Nội dung giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Hồ Chí Minh nhận thức được sâu sắc rằng văn hóa là động lực của sự
nghiệp cách mạng. Văn hóa vừa là vũ khí để chống lại kẻ thù xâm lược, vừa
là động lực thúc đẩy sự tiếp xúc và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, để dân
tộc Việt Nam có thể hòa nhập với thế giới bên ngoài và để phát triển. Nhưng
trước khi có hội nhập và phát triển, chúng ta phải có cái vốn văn hóa của
mình. Vốn đó là bản sắc văn hóa.
Trong bản sắc văn hóa dân tộc, trước hết phải thấy được tinh thần yêu
nước hạt nhân của tinh thần sáng tạo của dân tộc. Đây là tài sản có giá trị nhất
trong hành trang cứu nước của Hồ Chí Minh. Nó là cơ sở xuất phát, là động
lực, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Hồ
Chí Minh cho rằng: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, đó là truyền
thống quý báu của dân tộc ta. Từ xưa tới nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì
tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ to lớn;
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và
lũ cướp nước" [43, tr. 174].


×