Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.53 KB, 30 trang )

Trường Đại học Kinh tế Quốc dân



Bài tập môn :
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
Giáo viên hướng dẫn: TS. Nguyễn Thị Bích Thủy
Họ tên sinh viên : Phạm Thị Kim Huệ
MSV : CQ501095
Lớp : Tín chỉ 10
Khóa : 50
Năm học 2009-2010
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Người
kiến trúc nên Nhà nước Cách mạng Việt Nam. Nói đến Bác, là chúng ta nhớ
ngay đến tấm gương đạo đức cách mạng sáng ngời của Người. Một nhà lãnh
đạo đã nói: Để hiểu sự nghiệp Hồ Chí Minh, chúng ta hãy đến với con người
Hồ Chí Minh. Hồ Chủ tịch là một thiên tài kiệt xuất. Cái cốt tử trong thiên
tài của Bác là đạo đức cách mạng.
Ở Paris có bức tường “Những người
làm nên thế kỷ 20″ (Ils ont fait le XX Siecle)
có nụ cười Bác Hồ ở đây, giữa những trí
tuệ, những tâm hồn lớn ở thời đại chúng ta.
Trong một thế giới vẫn còn nhiều bạo
ngược và lẫn lộn, đã có một cuộc đời Hồ
Chí Minh, một con người Hồ Chí Minh.
Chúng ta có thể gọi Bác bằng nhiều cách khác nhau: 1 vị lãnh tụ, 1
người cộng sản chân chính, 1 tâm hồn và trí tuệ lớn lao, 1 con người của
những quyết định lịch sử; nhưng trên hết thảy, Hồ Chí Minh là 1 người con
yêu nước vĩ đại đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc.


Và trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh
có viết: “Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực
tự cường, đổi mới và sáng tạo”.
“Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội”
Độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng
chính trị xuyên suốt và bao trùm
trong di sản tư tưởng Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đặc sắc ấy thể
hiện nhất quán mục tiêu của
con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn, nó vừa đáp
ứng được yêu cầu bức xúc của
dân tộc và khát vọng của quần
chúng nhân dân giành lấy độc
lập, tự do, ấm no và hạnh phúc,
giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến
độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn
sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ
nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
*Sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội là
tất yếu khách quan
Dân tộc ta có truyền thống yêu nước, anh dũng bất khuất, đã từng
chiến thắng nhiều đế quốc phong kiến hung hãn. Từ khi thực dân Pháp xâm
lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ
ra các cuộc nổi dậy trên khắp mọi miền đất nước thu hút đông đảo các tầng
lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các

phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông
Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa đều bị thực
dân Pháp thẳng tay đàn áp và thất bại. Điều đó chứng tỏ rằng, vẫn là nhân
dân giàu lòng yêu nước, có truyền thống chống giặc ngoại xâm, sẵn sàng
ủng hộ và tham gia các phong trào yêu nước; còn các bậc sĩ phu, các nhà
lãnh đạo các phong trào chống thực dân Pháp đều có thừa trí dũng, không
thiếu quyết tâm nhưng họ, cả giai cấp phong kiến và đại diện cho chế độ
phong kiến, cả giai cấp tư sản và đại diện cho thế lực tư sản khi đó đều
không giải quyết được vấn đề độc lập dân tộc ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, chưa bao giờ như lúc bấy giờ, độc lập dân tộc càng
trở nên là yêu cầu cơ bản, khách quan của xã hội Việt Nam - xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến. Công cuộc giải phóng dân tộc Việt Nam khi ấy ở trong
"tình hình đen tối như không có đường ra". Bằng con đường nào và giai cấp
nào có khả năng gánh vác sứ mệnh trọng đại đó ?
Và sự ra đời của Chủ nghĩa Mác đã vạch ra cái tất yếu từng bị che lấp
bởi màn sương mù trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác khẳng định: chủ nghĩa tư
bản nhất định bị thay thế bằng một chế độ tốt đẹp hơn - chế độ cộng sản chủ
nghĩa không có người bóc lột người và người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư
bản chính là giai cấp công nhân - sản phẩm của nền đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa. Đó là một tiếng sét trong lòng chủ nghĩa tư bản ở vào thời thịnh
trị, sau khi nó chiến thắng các chế độ chuyên chế phong kiến, và đã bành
trướng ra khắp thế giới. Các nước tư bản phát triển khi ấy đang trở thành
"trung tâm vũ trụ", chi phối và làm mưa làm gió mọi mặt đời sống xã hội
loài người.
Nhưng chính thời điểm mà chủ nghĩa tư bản tưởng như đang cực
thịnh ấy, thì Cách mạng Tháng Mười đã nổ ra. Sự đột phá Tháng Mười mở
đầu cho một xu thế phát triển mới của lịch sử thế giới. Nếu trước Cách mạng
Tháng Mười, chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển đến mức người ta rêu rao
như một "định mệnh", như một "trật tự vĩnh hằng", thì sau Tháng Mười -
1917, không ai không thấy, cái "then" hãm thế giới ấy đã bị bẻ gẫy, điều

định mệnh ấy thành ảo tưởng, cái trật tự ấy bị lật nhào, tạo ra phản ứng dây
chuyền của hàng loạt cuộc đấu tranh giải phóng có quy mô to lớn và chiều
sâu cách mạng chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại. Rõ ràng, tới những
năm 20 của thế kỷ XX với những biến động to lớn và sâu sắc, đặc biệt với
Cách mạng Tháng Mười Nga "rung chuyển thế giới", đã làm cho tính chất
thời đại thay đổi, giai cấp trung tâm của thời đại thay đổi, vai trò lãnh đạo
cách mạng cũng thay đổi; vì vậy con đường để giải quyết mâu thuẫn của xã
hội, lực lượng cách mạng và phương pháp cách mạng cũng thay đổi.
Toàn bộ tình hình đó của thế giới, bằng nhiều con đường, dội vào và
thấm sâu trong mảnh đất Việt Nam - nơi mà chính "sự tàn bạo của chủ nghĩa
tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa cộng sản chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt của công cuộc giải phóng nữa thôi". Hơn ai hết, chính Nguyễn Ái
Quốc là người gieo hạt, gây mầm cách mạng Việt Nam. Người đã đi từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa xã hội. Ở Người, chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam, bản lĩnh và tố chất đặc biệt Việt Nam đã "bắt gặp" chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, nói như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng - một cuộc gặp gỡ đẹp như
cùng hẹn trước - đã chung đúc nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Với kỳ công của
Nguyễn Ái Quốc, chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với phong trào yêu nước
và phong trào công nhân Việt Nam chuyển hóa thành một tất yếu đưa đến
một sự kiện trọng đại : năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện
này là mốc son đánh dấu sự kết hợp các nhân tố dân tộc và giai cấp, quốc gia
và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong bản chất của Đảng.
Vừa ra đời, Đảng tuyên bố : "Chủ trương tư sản dân quyền cách mạng và thổ
địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Lời tuyên bố ấy cũng đồng nghĩa
với lời bác bỏ thẳng thừng chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa; và
nhìn rộng hơn, cũng bác bỏ bất cứ một thứ chủ nghĩa nào khác, bất cứ một
con đường nào khác. Một cách tự nhiên là, ngay sau lời tuyên bố ấy của
Đảng, chủ nghĩa xã hội không chỉ là mục tiêu lựa chọn mà đã thực sự thúc
đẩy lịch sử dân tộc Việt Nam chuyển mình, là con đường dân tộc Việt Nam
đã và đang đi từ đó dọc thế kỷ XX, và tiếp tục đi cho tới đích cuối cùng. Chủ

tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ; chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho
mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc có một xã hội tốt lành
gắn liền với tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no; bảo đảm việc làm cho
mọi người, tất cả vì niềm vui, hòa bình, hạnh phúc của con người. Rõ ràng,
sự lựa chọn mục tiêu độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội của Đảng
và nhân dân ta, xét về lôgíc là một tất yếu khách quan; xét về lịch sử, là hoàn
toàn phù hợp với sự vận động của cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển
của thời đại; xét về nhu cầu, là hoàn toàn xuất phát từ điều kiện cụ thể của
một nước thuộc địa, nửa phong kiến và nguyện vọng cháy bỏng của nhân
dân Việt Nam; và xét về mặt xã hội, đó là một hệ giá trị cơ bản nhất quyết
định sự phát triển của đất nước Việt Nam ta hôm nay và mai sau.
Cũng chính vì vậy mà con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và độc lập
phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội trở thành nội dung cốt lõi trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, và là mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam suốt hai phần ba thế kỷ và mãi mãi về sau.
* Mối quan hệ giữa độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
+ Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết, là cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai
đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Hai giai đoạn ấy không có bức tường ngăn cách, mà gắn bó chặt chẽ với
nhau.
Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có hai nhiệm vụ chiến lược:
chống thực dân xâm lược và chống địa chủ phong kiến. Nhiệm vụ dân tộc và
dân chủ quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó nhiệm vụ giải phóng dân tộc đặt
lên trên hết, trước hết, nhiệm vụ dân chủ cần thực hiện từng bước và phải
phục tùng sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tư tưởng trên đây được Hồ Chí
Minh thể hiện rõ nét trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930 và

Người nhấn mạnh tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ VIII
(khóa I) 5-1941.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung
dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền
đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để tạo cơ sở, tiền đề cho
việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
phải được thực hiện một cách triệt để. Đó là một nền độc lập thực sự, độc
lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối nội, lẫn đối
ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của những
chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là độc
lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt
Nam, một đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với
thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là
một, dân tộc Việt Nam là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất
không thể phân chia, đồng bào Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con
dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên. Đó là quan điểm nhất quán, mang
tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì và phát triển được khối
thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không thể nói đến việc
tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Để tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự
do hạnh phúc của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà
người dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa
gì".
+ Chủ nghĩa xã hội là con đường bảo vệ và phát triển thành quả của độc lập
dân tộc
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy
quan hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không
thực hiện được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng

mới bảo vệ và phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì
vậy, nếu độc lập dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con
đường tốt nhất để giữ vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả
của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh,
ai cũng có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân
tộc trong nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản
phẩm lao động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít
hưởng ít, ai có sức lao động mà không làm thì không hưởng, những người
già, đau yếu, tàn tật và trẻ em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm
sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính
trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được quan tâm và
ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ nghĩa xã hội là hòa bình, hữu
nghị, làm bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đó
không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà cơ bản tạo nên sự
phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân chính, mới
giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc
và cách mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt,
lâu dài. Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó
khăn hơn. Hồ Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ,
thắng bần cùng lạc hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ
giai cấp địch đã khó, đấu tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó
khăn hơn nhiều". Từ những khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi
Đảng, Nhà nước và mỗi người dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
* Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã

hội xuất hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó
được thể hiện rõ nét từ năm 1930. Sự thể hiện tư tưởng của Người về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội có thể phân thành 3 thời kỳ chủ yếu.
+ Thời kỳ 1930 - 1945
Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí
Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh soạn
thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ
rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải
phóng dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô
sản: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản". Theo tư tưởng Hồ Chí Minh điều đó có ý
nghĩa là: Đối tượng của cuộc đấu tranh là thực dân đế quốc và bọn tay sai
chống lại độc lập dân tộc.
Ở trong nước lực lượng cách mạng bao gồm công nông là gốc và tất
cả những ai có lòng yêu nước, thương nòi. Về lực lượng cách mạng ngoài
nước trong thời kỳ này, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự ủng hộ của Quốc tế
Cộng sản, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết, giai cấp công nhân
và nhân dân lao động chính quốc, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.
Nhân tố quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc
là sự lãnh đạo của Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Thời kỳ 1945 - 1954
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ này được thể
hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh khởi xướng
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến quốc",
"kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến".
Kháng chiến tức là bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần
thứ hai của thực dân Pháp theo phương châm ‘trường kỳ kháng chiến nhất
định thắng lợi”.
Kiến quốc theo Hồ Chí Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ

nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, xây dựng đời sống mới, xây dựng những
cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
+ Thời kỳ 1954 - 1969
Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trong tư
tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản lãnh đạo
thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến
tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
Ngày 2-9-1969, Hồ Chí Minh qua đời. Theo chỉ dẫn của Người, nhân
dân ta đã đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào. Với chiến dịch lịch sử
mang tên Hồ Chí Minh, mục tiêu của thời kỳ này được hoàn thành vào ngày
30-4-1975.
* Những điều kiện bảo đảm cho độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, trong suốt quá trình cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng phải
được giữ vững, củng cố và tăng cường. Xuất phát từ quan điểm xây dựng
chủ nghĩa xã hội là một nhiệm vụ khó khăn hơn đánh đổ đế quốc, phong
kiến, Hồ Chí Minh khẳng định trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội
Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Thứ hai, khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công - nông -
trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được củng cố và mở rộng. Hồ Chí
Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người dân cần nêu cao trách
nhiệm trong việc làm cho "rừng cây đại đoàn kết ấy đã nở hoa kết trái và gốc
rễ nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và nó có một cái tương lai 'trường
xuân bất lão'".
Thứ ba, sự ủng hộ giúp đỡ của các lực lượng cách mạng, hòa bình,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới được giữ vững và phát triển. Để làm được
việc đó, ngay từ 1947, Hồ Chí Minh đã nêu cao chủ trương: "Làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai".

Ba nhân tố trên luôn được giữ vững và tăng cường, tác động qua lại,
liên quan chặt chẽ với nhau là điều kiện bảo đảm cho sự thắng lợi của mục
tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Đó là ba bài học lớn mà mỗi cán bộ và đảng viên cần ghi sâu vào lòng và
phát huy thêm mãi".

* Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính
trị đặc sắc của Hồ Chí Minh.
Bởi lẽ, Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương
thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước. Chúng ta tự hào với lịch
sử hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường và bền bỉ để giữ vững độc lập dân
tộc của dân tộc ta. Khi nước nhà bị bọn xâm lược giầy xéo thì dân tộc không
có khát vọng nào cao hơn là giành độc lập dân tộc. Nhưng chúng ta vẫn biết
là không phải bất cứ lúc nào những người con yêu nước của dân tộc cũng
tìm thấy cho mình con đường cứu dân, cứu nước đúng đắn. Thực tiễn khi
thực dân Pháp xâm lược nước ta cho đến những năm đầu của thế kỷ XX cho
thấy, nhân dân ta, các thế hệ nối tiếp nhau đứng lên, mong đánh đuổi thực
dân Pháp, giành lại non sông đất nước. Song do chưa có đường lối đúng đắn
như con đường “Tây du” và “Đông du” của các cụ Phan khởi xướng, do
ngọn cờ tư tưởng phong kiến đã lỗi thời, nên các phong trào, các cuộc khởi
nghĩa yêu nước lần lượt thất bại, quần chúng cách mạng bị dìm trong biển
máu. Sự thể đau lòng đến nỗi nhà yêu nước Phan Bội Châu buông lời:
“Trăm lần thất bại chưa có một lần thành công”. Sinh ra trong cảnh nước
mất, nhà tan, người thanh niên Nguyễn Tất Thành sau nhiều trăn trở đã ra đi
tìm đường cứu nước vào năm 1911. Sau hơn 10 năm lăn lộn, qua nhiều nước
để tìm tòi và thử nghiệm, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với
tư tưởng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Người cho rằng phải học tập
cách mạng Nga, khi được tiếp xúc: “Bản luận cương về vấn đề dân tộc và
thuộc địa” của Lênin, Người đã sung sướng nói to lên: “Hởi đồng bào bị đọa
đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng

chúng ta!”. Vậy là, từ lòng yêu nước, thương dân thúc giục Người ra đi tìm
đường cứu nước, cứu dân thì đến với Cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa
Lê-nin, Người đã tìm thấy ở đó con đường cứu nước, cứu dân và giải phóng
lao động và quả quyết: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc của Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tư duy sáng tạo độc đáo của Người đối
với Chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến trình, logic phát triển của cách mạng vô
sản ở Việt Nam. Lựa chọn con đường cách mạng vô sản là sự thống nhất
giữa điều kiện khách quan với nhận thức và hoạt động chủ quan của Hồ Chí
Minh. Đó là sự gặp gỡ của thời đại và Hồ Chí Minh, đồng thời cũng là đóng
góp to lớn nhất của Người với thời đại, đặc biệt là đối với các nước thuộc
địa và phụ thuộc. Đi theo con đường cách mạng vô sản, cách mạng giải
phóng dân tộc khỏi ách nô dịch của chủ nghĩa thực dân, giải phóng quần
chúng lao động khỏi áp bức bóc lột và đi đến mục tiêu cao cả của chủ nghĩa
cộng sản là giải phóng con người. Thực hiện thắng lợi mục tiêu ấy thuộc về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình
cách mạng, ở mỗi giai đoạn của cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt
cũng như lâu dài. Bởi vì, đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm
đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ
nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân
tộc, giải phóng dân tộc. Nhưng để có độc lập thực sự cho dân tộc phải đi lên
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng, là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập
dân tộc. Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Như thế nghĩa là cách mạng Việt Nam
phải hướng tới mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng

con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột và bất công, tiến tới một xã hội
“trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”. Chính vì vậy, trong “Chính cương vắn tắt”, Người
chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội cộng sản.
Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và ngay trong cách mạng ấy, Người cũng xác định cần
phải giải quyết hai nội dung cơ bản đó là : độc lập dân tộc và dân chủ nhân
dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực
giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta mà đông
đảo là công nhân và nông dân là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong
kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này
nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp
xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay
sai đã là sự nghiệp nổi lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt
Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi
nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan
niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai
đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu,
nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam – một cuộc
cách mạng do giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách
mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách
mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân.

Tư tưởng của Người còn sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là

khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất tổ quốc. Độc
lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân
dân, nhất là đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến có trên 90% là nông
dân. Dân chủ trước hết lúc này là phải giành lại ruộng đất cho dân cày và
xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của họ. Độc lập dân
tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Hai nội dung đó quan hệ chặt chẽ và
thúc đẩy nhau, song trước hết cần tập trung vào độc lập dân tộc vì nó giải
quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể nhân dân ta với đế quốc xâm lược.
Giải quyết mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu thuẫn cơ bản của
xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Và như thế, rõ ràng, tư tưởng Hồ Chí Minh
về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là
sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, chủ
nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi
các mục tiêu trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Đó là sự lựa chọn
của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam và của chính lịch sử cách mạng
Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa
xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển

×