Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

tư tưởng HCM và lịch sử đảng bộ huyện chư prông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.12 KB, 21 trang )

Phần 1
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
I. Mở đầu
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại lời di huấn dặn dò về Đảng, và
vấn đề đạo đức cách mạng: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, phải thật sự cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân". Cả cuộc đời của mình, Người đã tự thực hiện một
cách hoàn chỉnh, trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng; Người
vừa là nhà lý luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức trong sáng gần
gũi và độc đáo nhất.
Về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh nói: "Đạo đức đó không phải là đạo đức
thủ cựu. Nó là đạo đức mới. Đạo đức vĩ đại, nó không vì danh vọng của cá nhân, mà
vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người". Và theo cách diễn đạt bình dị
của Người: Đạo đức như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con
người, sức có mạnh mới gánh được nặng, và đi được xa. Ngay trong những năm
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta tiến hành sự nghiệp vĩ đại giải phóng và
thống nhất đất nước, Người đã khái quát và cảnh báo: "Một dân tộc, một Đảng và mỗi
con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và
ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không còn trong sáng
nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân". Người cũng thường xuyên nhấn mạnh: "Đảng
phải là đạo đức, là văn minh", cán bộ, đảng viên có đạo đức cách mạng phải vừa
hồng vừa chuyên, hội tụ đủ đức tài, đức là gốc; phải có sự trung với nước, và hiếu với
dân.
Tư tưởng và tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng của Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng
đạo đức phong cách Hồ Chí Minh là niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, công chức
đối với Bác kính yêu - một con người mà tư tưởng và tầm vóc vĩ đại đã vượt qua mọi
không gian và thời gian, trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của văn minh nhân loại:
Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
II. Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta trên cơ sở
vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Song, Hồ Chí Minh không chỉ
quan tâm xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, mà còn đề cập đến một
phương diện khác, đó là xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã mở rộng
nội hàm về công tác xây dựng Đảng bao gồm chính trị, tư tưởng, tổ chức và về đạo
đức, lối sống. Đây là đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận trong công
tác xây dựng Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin.

1


Hồ Chí Minh 1890 – 1969

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Bác đã nêu "Tư cách một người cách mạng" ở
mục đầu tiên. Bác đề cập đạo đức cách mạng trong 3 mối quan hệ: Tự mình, đối với
người, đối với việc.
Tư cách một người kách mệnh:
+ Tự mình phải:
Cần kiệm, hoà mà không tư, cả quyết sửa đổi mình, cẩn thận mà không nhút
nhát, nhẫn nại (chịu khó), hay nghiên cứu, xem xét, vị công, vô tư, không hiếu danh,
không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ nghĩa cho vững, ít lòng tham muốn về vật
chất, bí mật.
+ Đối với người phải:
Với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì nghiêm, có lòng bày vẽ cho
người, trực mà không táo bạo, hay xem xét người.
+ Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể.
Theo Bác, muốn làm cách mạng thắng lợi thì người cán bộ cách mạng phải có
đạo đức. Vì sự nghiệp cách mạng rất to lớn và bao giờ cũng khó khăn, đòi hỏi sự kiên

trì phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân và toàn Đảng. Vì vậy, nếu người cách mạng
không có đạo đức thì khó có sức chịu đựng dẻo dai và không thể hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng.
Bác từng nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự
nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh
phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”. “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần
đạo đức cách mạng hay không”. “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè lùi bước…”, “khi gặp thuận lợi và thành công
nhưng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui
2


sau thiên hạ”, “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ,
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Bác Hồ thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: “Đảng ta là đội tiên phong
của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc”. Bác yêu cầu
người cách mạng phải thấy rõ điều đó và phải phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cao cả
và sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Trong bài viết về đạo đức cách mạng năm 1958, Bác
nêu rõ bản chất và nội dung của đạo đức cách mạng, đồng thời cũng nêu rõ những
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bài viết
này, Bác nêu 5 phẩm chất đạo đức mà cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, gìn
giữ. Đó là:
- Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.
- Là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn
luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.
- Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng
lên trên hết.

- Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần
chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.
Đó là phẩm chất cơ bản mà Bác Hồ đòi hỏi người cách mạng phải để làm nền
tảng.
Tìm hiểu và học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta thấy
Bác có những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ
cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội, cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo,
thanh niên, thiếu niên. Trong đó những chuẩn mực của nền đạo đức cách mạng mà
Bác Hồ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xây dựng đó là:
Trung với nước, hiếu với dân
Xét về mối quan hệ của đạo đức thì Bác Hồ đặt ưu tiên hàng đầu cho mối quan
hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân với tổ quốc. Đây là mối quan hệ chi phối tất cả
các mối quan hệ khác. Chính vì vậy, Bác Hồ đặt phẩm chất trung với nước, hiếu với
dân là phẩm chất hàng đầu của người đảng viên. Trung hiếu là khái niệm thuộc đạo
đức truyền thống nhưng được Bác Hồ vận dụng theo quan điểm mới phù hợp với
hoàn cảnh mới của lịch sử.
Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là
nhân dân là chủ của đất nước. Còn theo quan điểm của đạo đức phong kiến, coi nước
là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân chỉ có nhiệm vụ làm tôi trung theo
quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua xử tôi phải chết thì tôi phải
chết, không tuân theo lệnh vua là tôi không trung thành). Rõ ràng, quan điểm của Bác
hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là
trung với tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao
đẹp thể hiện phẩm chất này. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt
3


thế giới này Bác cũng tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân
đối với việc riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng

chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”.
Còn “hiếu với dân” được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ
là đày tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân
có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác
còn chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống
của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính
phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng ta và Chính
phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức
quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc
của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và, “việc gì có lợi cho dân ta phải
hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Phẩm chất trung với nước,
hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Yêu thương, qúy trọng con người
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nhân
nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ
nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ đã xác định phẩm chất yêu thương, quý
trọng con người là một trong những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng cao
đẹp nhất của người đảng viên.
Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số nhân
dân lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta. Tình yêu
thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương con người đối với đồng bào
mình, Bác Hồ chỉ có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ có một ham muốn duy nhất,
ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đối với Bác
Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì lớn lao và quý báu hơn dân với nước.
Thương yêu dân tộc mình, thương yêu con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có
một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân.
Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm
nghèo, là vì mục đích đó”.
Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan

hệ đồng chí, đồng đội, anh em. Nhưng đối với bản thân mình Bác đòi hỏi phải nghiêm
khắc, nhưng đối với bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả mọi người phải có
sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn nhau. Đối với cán bộ, đảng viên, Bác dạy học
chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn. Bác nói: “Học chủ nghĩa MácLênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Đối với Bác chỉ có nâng con người
lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có khuyết
điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm
tích cực, hạn chế những tiêu cực để mỗi người,ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho
Đảng, cho đất nước. Và, Bác khuyên mọi người trong tự phê bình phải thẳng thắn,
4


chân thành để giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ
xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng,
Bác đòi hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về,
nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.
Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện rõ hơn
trong Di chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ thực hiện
công việc đầu tiên trong hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu tiên là công việc
đối với con người”. Đầu tiên là đối với cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên
xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ, con thương binh, liệt sĩ; với phụ nữ,
nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ…Bác không bỏ xót đối
tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương yêu đối với tất cả mọi người.
Cần kiệm liêm chính
Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” theo Hồ Chí Minh là nền tảng của đời sống
mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Đây là những đức tính mà bản
thân mỗi cán bộ, đảng viên lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt
động. Cần kiệm, liêm, chính - cũng là phẩm chất của đạo đức truyền thống, nhưng
được Bác Hồ đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới, khác cơ bản về đối tượng
thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính,
nhưng họ bắt nhân dân thực hiện để phục vụ cho quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong

kiến không bao giờ thực hiện. Còn đối với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt
buộc cán bộ, đảng viên phải làm gương thực hiện để nhân dân noi theo, đem lợi ích
cho dân, cho nước.
Tháng 3 năm 1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi đua
xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất rõ, dễ hiểu. Tháng
6 năm 1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác viết tác phẩm “Cần, kiệm,
liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức tính của
người cán bộ cách mạng, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời.
Thiếu một phương thì không thành đất.
Thiếu một đức thì không thành người".
Sau đó, Bác còn viết bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc giải thích rõ nội hàm
bốn đức tính này.
Trước hết, nói về cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm.
Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai.
Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta trong những thì
giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân.” Bác yêu cầu mọi người phải cần, cả nước
phải cần, Bác viết:
“Người siêng năng thì mau tiến bộ.
5


Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.”
Tóm lại, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Phải
thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi

chúng ta”. Nhưng không phải quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và sức lực để
làm việc cho lâu dài. Bác cho rằng “lười biếng là kẻ địch của cần”, vì vậy, lười biếng
cũng là kẻ địch của dân tộc.
Nói về Kiệm: Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của
nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to, tới cái nhỏ. Kiệm là không xa xỉ, không
lãng phí, không bừa bãi.
Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống trong công tác.
Cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm “thì làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như cái thùng
không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Bác yêu cầu “phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết
kiệm”. Vì “dân đủ ăn, đủ mặt thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ
đễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng
không thực hiện được”.
Cho nên, Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà
vật gì không tiến tức là thoái.

Bác Hồ trong một bữa cơm cùng đồng bào, chiến sĩ tại chiến khu Việt Bắc những năm kháng chiến chống Pháp

Nhưng tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải “xem đồng tiền bằng cái
nống” gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm
không phải ép bộ đội, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc; nhưng khi không nên tiêu xài thì
một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào,
6


cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là
kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm
phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài hai, ba giờ là xa
xỉ. Cán bộ, đảng viên ăn sang, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn nghèo, thiếu cơm,

thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với tổ quốc, với đồng bào.
Nói về “liêm”, Bác viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chính
phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc khoét đục
của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa đó
cũng không được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”.
“Liêm là trong sạch, không tham lam”, “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của
dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”,
“không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”.
Trong các bài viết khác, Bác viết: “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm, cũng
như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có liệm mới liêm được”. Và, Bác dẫn lời
Khổng Tử nói: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai
cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.
Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần, kiệm, nhưng còn phải chính mới
là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể
chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn
việc, song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà.
Làm việc chính, là người thiện.
Làm việc tà, là người ác.
Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn lười
biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà”.
Bác còn dặn: “Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ
đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải
công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền
dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con,
bầu bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài
hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách
mạng”.
Chính còn có nghĩa là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với
mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá,
lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên

trên lên trước việc tư. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được “việc thiện dù
nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”. Theo Bác Hồ thì, cần,
kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì
“cán bộ các cơ quan, đoàn thể; cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to
hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”.
“Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ
được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần,
7


kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. “Một dân tộc biết
cần, kiệm, liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.
Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính là người chí công, vô tư là chính
tâm, thân dân - là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của tổ
quốc, của Đảng lên trên hết.
III. Với quan hệ giữa đạo đức cách mạng và chủ nghĩa cá nhân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều nhất đến vấn đề
nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đặc biệt, từ khi Đảng cầm
quyền, Bác càng quan tâm đến vấn đề này hơn. Trong di sản mà Bác để lại cho toàn
Đảng, toàn dân, có nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách mạng và
mặt đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Hội nghị phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động:
Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu
(Cuộc vận động ba xây, ba chống), 27-7-1963)

Theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn trái với đạo đức cách mạng. Định
nghĩa về chủ nghĩa cá nhân, Bác Hồ viết: "Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng lo cho
lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể, miễn mình béo, mặc

thiên hạ gầy".
Hay "chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành
người ta đi xuống dốc. Nó là thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: Tham ô,
hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại,
coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh
lệnh, lười biếng v.v…”
Vì vậy, để giữ vững đạo đức cách mạng, thì bất cứ trong điều kiện, hoàn cảnh
nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là
một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa, cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân".
Xét mối quan hệ này, chúng ta cần nhận thức thống nhất giữa lợi ích chung và
lợi riêng. Cần phân biệt đúng đắn giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Như nói
8


ở trên, theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình
trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình". Cho
nên, phải "quét sạch chủ nghĩa cá nhân". "Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
không phải là gây xéo lên lợi ích cá nhân. Vì mỗi người đều có đời sống riêng. Mỗi
người đều có quyền làm giàu cho bản thân và gia đình mình; nhưng những lợi ích đó
không trái với lợi ích của tập thể, lợi ích của Đảng, của tổ quốc, dân tộc".
Nếu để chủ nghĩa cá nhân phát triển thì sẽ ảnh hưởng xấu đến Đảng, dân tộc.
Bác chỉ rõ: "Một dân tộc, một Đảng và một con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức
hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và
ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".
Cho nên, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của đạo đức cách mạng, kẻ thù của chủ
nghĩa xã hội. Người cách mạng, cán bộ, đảng viên phải "quét sạch" nó.
IV. Nguyên tắc xây dựng và tu dưỡng đạo đức cách mạng
Tiếp thu, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng không phải ai cũng thực
hiện được. Theo Bác Hồ, thì chỉ có những người có cái tâm trong sáng mới đủ bản

lĩnh và năng lực lãnh hội được những chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Và, khi đạo
đức cách mạng đã vững rồi thì “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển
lay, uy vũ không khuất phục”. Đây cũng là phẩm chất của người đảng viên cộng sản.
Đức tính trên cũng được coi là khí phách của đấng trượng phu của thời phong kiến.
Nhưng với người cán bộ cách mạng, đạo đức cách mạng dù bất luận hoàn cảnh nào
đều phải giữ mình; trước sự giàu sang không thể làm cho mình thèm muốn, sự nghèo
khó cũng không thể làm cho mình lay chuyển, nao núng; uy quyền, võ lực, hay dù
phải đứng trước cái chết cũng không thể làm cho mình khuất phục, đầu hàng.
Chúng ta biết rằng, học trên sách vở thì rất dễ, nhưng việc lãnh hội, rèn luyện
và thực hành là cực kỳ khó. Cho nên, muốn có được đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ,
đảng viên cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
1. Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt.
Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt làm việc tốt. Đây không chỉ là nguyên tắc rèn
luyện mà còn là sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng và phi đạo đức cách mạng.
Chúng ta biết, nói mà không làm là đặc tính của giai cấp bóc lột, cho nên, lời nói phải
đi đôi với việc làm và phải thực hiện việc làm gương - đó là đạo đức của người cách
mạng. Bác từng nói: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên
truyền", "trước mắt quần chúng, không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta
được họ yêu quý. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức". Muốn
hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào dân
tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã..” Cho nên, đảng viên phải làm gương mọi mặt
cho quần chúng noi theo. Thực hiện đúng lời dạy của Bác “Đảng viên đi trước, làng
nước theo sau”. Việc làm gương phải thực hiện ở mọi nơi, mọi việc, phải quán triệt
trong toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị, từ cán bộ cấp Trung ương đến tận cơ sở.
Bác Hồ kính yêu là tấm gương nói đi đôi với làm. Cho nên, ở Người có sức
thuyết phục lớn, có một sức hút mãnh liệt làm cho cả dân tộc, các giai tầng xã hội, các
9


thế hệ người Việt Nam đều tin tưởng, kính phục, yêu quý và đi theo lời kêu gọi của

Người. Các vị lãnh tụ cộng sản và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới cũng
kính yêu Người.
Trong suốt cuộc đời mình, Người đã thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ
nói đi đôi với làm. Ở Hồ Chí Minh, lời nói đi đôi với hành động, lý luận đi đôi với
thực tiễn, nói là để mà làm, làm phải đúng như điều đã nghĩ, đã nói. Người thường nói
ít nhưng làm nhiều, có những vấn đề đạo đức Người không nói mà chỉ làm. Người
quan niệm: Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt
chước; tự mình phải chính trước, mới giúp người khác chính, mình không chính mà
muốn người khác chính là vô lý. Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có bao
nhiêu câu chuyện cảm động về việc nêu gương, nói đi đôi với làm, tự mình làm trước.
Năm 1945, trước nạn đói trên miền Bắc, Người đề xuất toàn dân tiết kiệm gạo
để giúp đồng bào bị đói và Người kêu gọi: "Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và
tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa, đem gạo
đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”.

Đồng bào cả nước hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh và noi gương người Người, lập các hũ
gạo cứu đói và không dùng gạo, ngô để nấu rượu, tổ chhức ""ngày đồng tâm"" để có thêm gạo cứu đói."

Những năm Hồ Chí Minh sống và làm việc tại Phủ Chủ tịch, khi kinh tế khó
khăn, đời sống nhân dân còn nghèo khó, mọi người ăn cơm độn ngô, khoai, sắn,
Người đề nghị nhà bếp: cán bộ, nhân dân ăn độn bao nhiêu phần trăm, nấu cơm độn
cho Người từng ấy, giống như cán bộ, nhân dân. Trong các chuyến đi thăm các địa
10


phương, nhất là các chuyến đi trong ngày, Người thường mang theo cơm nắm với
muối vừng vì không muốn phiền hà đến cơ sở.
Về chỗ ở, Người khước từ ở ngôi nhà sang trọng của Toàn quyền Ðông Dương
trước đây mà chỉ ở ngôi nhà của người công nhân phục vụ; đi dép lốp, mặc áo vá vai,
dùng chiếc ô tô cũ, mà coi đó là “cái phúc của dân, đừng bỏ cái phúc đó đi”. Mùa hè

nóng bức, Hồ Chí Minh dùng chiếc quạt lá cọ, “để dành điện phục vụ cho sản xuất,
dành điện phục vụ sinh hoạt cho nhân dân”.

Bác Hồ lội suối trong chuyến công tác ở chiến khu Việt Bắc.

Hồ Chí Minh làm những việc như thế để thực hiện điều Người nói: “Cơm
chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của
nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm
được như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”. Người nói:
“Ai chẳng muốn no cơm, ấm áo, nhưng cuộc sống vật chất hết đời người là hết. Còn
tiếng tăm tốt xấu truyền đến ngàn đời sau. Cán bộ, đảng viên nếu làm theo được
những việc như trên sẽ thật sự quan liêm - mà quan liêm thì dân hạnh phúc và sẽ đẩy
thuyền đi; và sẽ chẳng có những loại quan tham - mà quan tham nhiều thì dân khổ,
nước nguy”.
2. Xây đi đôi với chống.
Nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng
phải đi đôi với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức.
Việc xây dựng đạo đức cách mạng không phải dễ dàng, bởi ai lại không thích quyền
lực, ai thấy vàng, tiền bạc, nhà cao cửa rộng lại không ham, cho nên đấu tranh để
thắng những ham muốn của bản thân mình là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp.
Nhưng nếu chúng ta kiên quyết thì sẽ thành công. Hơn nữa, trong Đảng, trong mỗi
11


con người vì những lý do khác nhau, nên không phải mọi người đều tốt. Bác Hồ chỉ
rõ những kẻ địch cần chống trước hết là chống thói quen và truyền thống lạc hậu; và
đặc bịêt là chống chủ nghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều
kiện tác động nó sẽ phát triển. Cho nên, Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết
phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình". Và phải phê phán đấu tranh loại bỏ
hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc

xây dựng đạo đức cách mạng. Cho nên, chúng ta chống là nhằm để xây dựng, đi liền
với xây và lấy xây làm chính, lấy gương tốt để giáo dục và xây dựng đạo đức cách
mạng cho mỗi người và đạo đức trong Đảng.
3. Tu dưỡng bền bỉ suốt đời.
Bác đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do quá
trình đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng
phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và sự đóng
góp xây dựng của tập thể của quần chúng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng
có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Nhưng tốt,
xấu, hiền, dữ, thiện, ác đều lệ thuộc vào sự giáo dục và rèn luyện mà nên. Cho nên,
vấn đề là chúng ta phải biết và dám dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật bản thân con
người mình và dựa vào tập thể để thấy cái tốt, cái hay để phát huy, cái xấu, cái ác để
khắc phục. Đã là con người thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm. Vấn đề
là phải dũng cảm nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Và, việc tu
dưỡng đạo đức cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải bền
bỉ, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Bác đã viết “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá
nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ
dại không cần chăm sóc cũng mọc lên lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện mới
có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ. Vì vậy gột
rửa chủ nghĩa cá nhân ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày". Cho nên, xây dựng,
rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân là phải được tiến
hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt động cách mạng.
Ba nguyên tắc cơ bản rèn luyện đạo đức của cá nhân để trở thành người có đạo
đức cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh mỗi cán bộ, đảng viên đều hoàn toàn
thực hiện. Vì những điều Bác dạy, không phải chỉ có vĩ nhân hay lãnh tụ mới thực
hiện được, mà mọi người đều thực hiện được vì đó là những điều rất bình dị trong
cuộc sống của mỗi người.
V. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng trong thực hiện
công vụ.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đã ghi nhận ý tưởng sâu sắc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về thiết lập một nền công vụ mạnh mẽ, sáng suốt của dân, hoạt
động vì nhân dân và chịu sự kiểm soát, bãi miễn của nhân dân; đó là một nền công vụ
hiện đại, dân chủ, có hiệu lực từ Trung ương đến cơ sở. Tư tưởng đó tiếp tục được thể
12


hiện nhất quán trong Hiến pháp1959, trong những sắc lệnh và luật được Nhà nước
ban hành.
Ngay từ khi ra đời, nền công vụ Việt Nam do Đảng lãnh đạo đã được xây dựng
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh - một nền công vụ dân chủ, thân dân, trọng
dân, quý dân. Nền công vụ ấy đã quản lý có hiệu quả mọi hoạt động trong vùng tự do
thời chống Pháp, trên phạm vi miền Bắc sau năm 1954, ở vùng kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước và những năm đầu khi cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội. Cho đến hôm nay, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập
quốc tế thì những lời dạy của Hồ Chí Minh về một nền công vụ vì dân vẫn còn
nguyên giá trị. Bất kỳ nhà nước nào cũng có những chuẩn mực đạo đức công vụ.

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, ngày 2-9-1945

Để xây dựng được nền công vụ hiện đại, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cần
có những chuẩn mực đạo đức công vụ. Đạo đức công vụ thể hiện trong các hành vi cụ
thể, qua công việc của mỗi cán bộ, công chức, viên chức. Đạo đức công vụ được bao
hàm trong đạo đức cách mạng. Đạo đức công vụ cần có những quy tắc, chuẩn mực,
nguyên tắc đạo đức bắt buộc mỗi cán bộ, công chức phải tuân thủ. Ở nước ta, theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức công vụ được thể hiện trong những nguyên tắc đạo đức,
chuẩn mực cơ bản sau: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tinh thần trách
nhiệm cao với công việc, chấp hành nghiêm kỷ luật và có tinh thần sáng tạo trong thi
13



hành công vụ, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu trong công việc, có tinh thần
thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong thực hiện công việc.
Để thực hiện tốt các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức công vụ trong thực thi
công vụ, người cán bộ, công chức, viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước, tức
là từ sự đóng góp của nhân dân, phải cố gắng làm để phục vụ ngày càng tốt hơn cho
nhân dân, đúng như Bác căn dặn: “Cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng
ta dùng, đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù
xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành cần,
kiệm, liêm, chính”. Người cán bộ, công chức làm việc công, tiêu tiền công, lại có ít
nhiều quyền hành nếu không có ý thức, tinh thần cao thì rất dễ hủ bại. Nạn tham ô và
lãng phí là do bệnh quan liêu. Vì mắc bệnh quan liêu thành thử có mắt mà không thấy
suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không
nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ mà tham ô, lãng
phí. Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu đi liền với nhau, trong đó quan liêu tạo điều
kiện cho tham ô, lãng phí nảy nở và phát triển. Vì vậy, phải chống quan liêu, phải đặt
lợi ích dân chúng lên trên hết, phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân, phải thực
hành phê bình và tự phê bình, phải làm kiểu mẫu.
Thực hiện nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao, bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm
công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm, khi cấp trên giao
cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng phải đưa cả tinh thần, lực lượng
ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách
cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy… là
không có tinh thần trách nhiệm.
Mỗi cán bộ, công chức, viên chức phải chấp hành nghiêm những quy định của
cơ quan, của tổ chức, khi thi hành công vụ cần phải gương mẫu về đạo đức, tự giác
tuân thủ kỷ luật của cơ quan, giữ vững nề nếp công tác, tránh được những cám dỗ.
Tinh thần sáng tạo trong công việc cũng là một chuẩn mực đạo đức mà người cán bộ
phải phát huy.

Người cán bộ, công chức, viên chức phải luôn có chí tiến thủ, tinh thần cầu tiến
bộ. Tinh thần cầu tiến bộ, học tập không ngừng là một yêu cầu cao đối với mỗi cán
bộ, công chức. Mọi người cần đoàn kết thân mật, hợp tác chặt chẽ hoàn thành công
việc. Bác đã chỉ rõ: “Đối với đồng chí mình phải thế nào? Thân ái với nhau, nhưng
không che đậy những điều dở. Học cái hay sửa chữa cái dở. Không nên tranh giành
ảnh hưởng của nhau. Không nên ghen ghét đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ
lối hiếu danh, hiếu vị”. Nếu trong một tập thể mà các thành viên có thành kiến với
nhau, dè dặt, đối phó với nhau, kèn cựa lẫn nhau thì “nó làm cho trống đánh xuôi kèn
thổi ngược, nó làm cho công tác bị tê liệt, hư hỏng”. Tuy nhiên, thân ái, hợp tác ở đây
không phải là bao che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
và kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi phạm kỷ luật trong thi hành công
vụ và trong cuộc sống.
14


Những chuẩn mực đạo đức công vụ có sự quan hệ, tác động lẫn nhau trong một
hệ thống chuẩn mực thống nhất. Có lòng trung với nước hiếu với dân, có lòng yêu
thương con người thì mới hết lòng, hết sức đem tài đức của mình phục vụ nhân dân.
Có như vậy mới thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, tận tụy vì công
việc chung. Nhờ vậy mới giữ được kỷ luật của cơ quan, tổ chức, mới rèn được tinh
thần trách nhiệm cao với công việc và ý chí phấn đấu vươn lên không ngừng. Khi giữ
được phẩm chất trong sạch, không tham địa vị, danh vọng, tiền tài, có lòng chính trực
thì chắc chắn sẽ có tình thân ái, hợp tác với đồng nghiệp trong công việc.
Tình hình thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy những lời dạy của Người hết sức
sáng suốt, có giá trị thực tiễn sâu sắc. Kinh tế thị trường bên cạnh những mặt mạnh,
có nhiều tác động có hại: Đó là khát vọng làm giàu bằng mọi cách, tâm lý chạy theo
lợi nhuận tối đa, coi trọng giá trị đồng tiền một cách mù quáng. Nó kích thích thói ích
kỷ, tự tư, tự lợi, đặt lợi ích cá nhân và gia đình lên trên lợi ích của tập thể và xã hội.
Nó sinh ra thói dối trá, gian xảo, lừa lọc, thực dụng, lối sống coi trọng vật chất của xã
hội tiêu thụ… Những tệ nạn này là nguy cơ “tự diễn biến” từ bên trong, không thể coi

thường. Nguyên nhân chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân; do cán bộ, đảng viên thiếu tu
dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, đạo đức; tự phê bình, phê bình và sửa chữa khuyết
điểm chưa nghiêm túc; đấu tranh chống các tệ nạn xã hội chưa quyết liệt; nói chưa đi
đôi với làm. Những tệ nạn này tạo điều kiện cho các thế lực thù địch công kích, lợi
dụng để gây sức ép, chống phá Đảng và công cuộc xây dựng đất nước.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập quốc tế đòi hỏi năng lực công tác, tiếp cận,
nhạy bén trong công việc và từng cán bộ, công chức, viên chức phải luôn được bồi
dưỡng, đào tạo phù hợp với thực tiễn, vị trí công tác được phân công. Đối với số cán
bộ, công chức, viên chức thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, vấn
đề nâng cao năng lực công tác, trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và siết chặt
việc quản lý đối với cấp dưới sẽ là "biện pháp" hữu hiệu nhất nhằm đẩy mạnh công
tác phòng chống tham nhũng để nâng cao niềm tin của người dân đối với Đảng và
Nhà nước. Bên cạnh đó, yêu cầu của công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức là
phải xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cấp, các ngành "vừa
hồng, vừa chuyên". Phải nêu cao tác phong, vai trò đạo đức, gương mẫu trong công
tác, tiếp xúc, giải quyết công việc của công dân có chất lượng, đúng thời gian theo
luật định và có văn hóa. Đạo đức công vụ không phải tự thân mà có. Mỗi cán bộ,
công chức, viên chức phải tích cực tu dưỡng, rèn luyện theo các chuẩn mực đạo đức
công vụ, chắc chắn chúng ta sẽ có một đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên” theo
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VI. Kết luận
Hồ Chí Minh đi vào cõi vĩnh hằng, trở về với thế giới Người Hiền. Sự nghiệp
đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã hơn
20 năm, tính từ Đại hội VI ( l2 /l986 ) đến nay. Khoảng thời gian đó đã đủ để sinh
thành một thế hệ. Người đã đi xa nhưng ai cũng cảm thấy như Người vẫn ở bên cạnh
15


chúng ta, cổ vũ khuyến khích những việc làm tốt, nhắc nhở giúp đỡ chúng ta những
yếu kém, hạn chế, sửa chữa những khuyết điểm sai lầm để tiến bộ trưởng thành.

Trong thời kỳ phát triển mới hiện nay của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác
định: Phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội. Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một hoạt
động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trò quan trọng
của nó.
Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người không có nhân tính đầy đủ,
không phát triển được nhân tính để thành người và làm người. Suy thoái đạo đức, xã
hội không thể phát triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn
hoá và xã hội.
Trong hệ thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh
thần không thể thiếu. Chúng ta đang đấu tranh quyết liệt chống quan liêu tham nhũng
như một trọng bệnh, như một quốc nạn để đảm bảo môi trường xã hội - nhân văn lành
mạnh cho sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Tình hình đó
đòi hỏi phải chú trọng xây dựng đạo đức xã hội và giáo dục tu dưỡng đạo đức cá
nhân. Vào lúc này, thực hành đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, noi theo
tấm gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh trở nên vô cùng cấp thiết, bức xúc. Đó còn là
vấn đề cơ bản, lâu dài dối với sự phát triển, hiện đại hoá xã hội ở nước ta.
Trước hết đó là thực hành đạo đức cách mạng trong Đảng, từ cán bộ đảng viên
đến các tổ chức. Vấn đề suy thoái về đạo đức cách mạng đã được nêu rõ các biểu hiện
trong Nghị quyết của Hội nghị thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
nhằm nhận biết và đấu tranh với vấn đề suy thoái đạo đức ở một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên trong tổ chức đảng.
.Đó còn là giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng trong đội ngũ công chức
của Nhà nước. Càng đi vào xây dựng Nhà nước pháp quyền càng phải chú trọng tới
đạo đức công chức, đạo đức công dân. Đó là đảm bảo cho đạo đức xã hội và tăng
cường tính nhân văn của pháp quyền dân chủ. Giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ
trẻ, cho thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên cũng như giới trí thức, văn nghệ sĩ cũng
là một đối tượng xã hội cần đặc biệt quan tâm. Đi vào kinh tế thị trường, xây dựng
đạo đức của tầng lớp doanh nhân, của người sản xuất kinh doanh cùng với pháp luật

sẽ đảm bảo cho văn hoá kinh doanh định hình và phát triển. Việc thực hành đạo đức
cách mạng theo gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh như vậy sẽ bao quát toàn diện các
đối tượng xã hội, từ trong Đảng, trong Nhà nước tới các cộng đồng dân cư. Nói đi đôi
với làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thống nhất nhận thức với hành động hướng tới
cơ sở, tới dân chúng là mục đích và thước đo tính trung thực đạo đức mà chúng ta cần
đạt tới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, ngày
càng phồn vinh, hạnh phúc.

16


Phần 2
Lịch sử Đảng bộ huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai
I. Khái quát chung về Chư Prông.
Huyện Chư Prông ở về phía tây nam của tỉnh Gia Lai, phía bắc giáp thành phố
Pleiku và huyện Ia Grai; phía đông, đông nam giáp huyện Chư Sê; phía nam giáp tỉnh
Đăk Lăk; phía tây nam giáp huyện Đức Cơ và tỉnh Ratanakiri (Campuchia). Có đường
biên giới chung với nước bạn Campuchia với chiều dài là 42 km. Chư Prông có diện
tích tự nhiên là 169.551,56 ha. Dân số của huyện là 110.430 người, trong đó, dân tộc
Jrai: chiếm 33%; dân tộc khác: chiếm 14% dân sô" toàn huyện.
Là một trong ba huyện biên giới của tỉnh, Chư Prông có vị trí chiến lược quan
trọng về chính trị, kinh tế và quốc phòng - an ninh, địa bàn này là một trong những
cửa ngõ giữa Việt Nam - Campuchia được ví như một tiền đồn án ngữ vùng biên giới
của tỉnh Gia Lai. Trung tâm huyện lỵ là thị trấn Chư Prông. Tên huyện được đặt theo
tên ngọn núi cao nhất vùng “Chư Prông” và là nơi diễn ra trận đánh vang dội năm
1965: Chiến dịch Plei Me, thung lũng Ia Drăng dưới chân núi Chư Prông nằm về phía
tây huyện.
Địa bàn huyện Chư Prông có các trục đường chiến lược 14, 19 chạy qua. Quốc
lộ 19 chạy theo hướng đông tây từ cảng Quy Nhơn ngang qua địa phận huyện Chư
Prông - Bàu Cạn lên đến cửa khẩu Lệ Thanh (huyện Đức Cơ).

Hai tuyến tỉnh lộ chạy qua địa bàn huyện: Tỉnh lộ 663 nối từ Bàu Cạn, chạy qua
địa phận xã Ia Phìn, thị trấn, xã Ia Drăng, Ia Bòng, Ia Púch nối vào quốc lộ 14 tại Phú
Mỹ (huyện Chư Sê) có chiều dài khoảng 23 km.
Tỉnh lộ 665 (trước là tỉnh lộ 675) từ ngã ba Phú Mỹ (huyện Chư Sê - Quốc lộ
14) qua xã Ia Tôr, Ia Pia, Ia Ga, Ia Mơr tiếp giáp với Quốc lộ 14C chạy dọc biên giới,
có chiều dài khoảng 60 km.
Ngoài ra, huyện có hệ thông đường giao thông liên xã đến tận trung tâm các xã
với 15 tuyến có chiều dài khoảng 250 km.
Vùng đất Chư Prông ngày nay đã trải qua nhiều thay đổi về địa giới hành
chính.
Thời kỳ trước 1945, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định (ngày 24-5- 1932)
thành lập tỉnh Pleiku bao gồm phần đất phía nam tỉnh Kon Tum. Vùng đất Chư Prông
thuộc tỉnh Pleiku, gồm hai huyện Chư Ti và Pleikli.
Thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đến năm 1954: Huyện Chư Ti và
Pleikli (thuộc địa bàn huyện Chư Prông, huyện Đức Cơ ngày nay) được chính quyền
thực dân thành lập. Ranh giới huyện Chư Ti bao gồm vùng dất từ Đức Cơ xuống đến
phía tây Plei Me. Ranh giới huyện Pleikli từ Plei Me kéo dài sang đông đường 14.
Từ 1954 - 1975: Chính quyền Sài Gòn vẫn lấy tên tỉnh là Pleiku. Ngày 22-121959, tỉnh Pleiku chia thành 3 quận: Lệ Trung, Lệ Thanh và Phú Nhơn. Địa bàn huyện
Chư Ti dưới thời Pháp thuộc được đổi thành quận Lệ Thanh, gồm 3 tổng, 24 xã, trong
17


đó có 4 xã người Kinh và 20 xã người dân tộc Jrai. Huyện Pleikli thuộc quận Phú
Nhơn, gồm 4 tổng và 9 xã người dân tộc Jrai.
Về phía ta, sau Hiệp định Giơnevơ 1954, tỉnh Gia Lai chia thành 9 khu (tương
đương huyện, thị). Các khu từ khu 1 đến khu 7 là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Khu 8 là vùng Kinh ở An Khê. Khu 9 là thị xã Pleiku và các đồn điền, vùng phụ cận.
Khu 5 là vùng đồng bào dân tộc phía tây đường 14 (thuộc địa bàn huyện Chư Prông,
một phần huyện Đức Cơ và tây huyện Chư Sê ngày nay) và phía nam đường 19 kéo
dài.

Tháng 7-1960, do yêu cầu của công tác lãnh đạo phong trào, khu 4 và khu 5
phía tây đường 14 được sáp nhập thành khu 45. Đến giữa năm 1961, khu 45 được giải
thể, tách ra thành hai khu 4 và 5 như cũ.
Năm 1975 sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết số 245-NQ/TVV ngày 20-9-1975, hợp nhất hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum thành
tỉnh Gia Lai - Kon Tum, sáp nhập các khu trước giải phóng thành huyện lớn. Khu 5
được đổi thành huyện Chư Prông.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển, địa giới hành chính của tỉnh và các huyện
tiếp tục có sự thay đổi do tách nhập và thành lập huyện mới.
Ngày 17-8-1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 34-HĐBT tách 7
xã của huyện Chư Prông là Ia Giai, Ia H'lốp, Ia Blang, Ia H'rú, Ia Ko, Ia Le, Nhơn
Hòa và 5 xã của huyện Mang Yang là Ia Tiêm, Bơ Ngong, Albă, Dun và Hơ Bông để
thành lập huyện Chư Sê.
Ngày 12-8-1991, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa VIII ra Nghị quyết tách tỉnh Gia
Lai - Kon Tum thành hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum. Sau khi tách tỉnh, huyện Chư
Prông là 1 trong 10 đơn vị hành chính của Gia Lai.
Ngày 15-10-1991, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 315-HĐBT,
tách diện tích đất đai và dân số 4 xã Ia Pnôn, Ia Nan, Ia Lang, Ia Kriêng của huyện
Chư Prông và 4 xã Ia Krêl, Ia Dơk, Ia Kla và Ia Dom của huyện Chư Pah, thành lập
huyện Đức Cơ. Huyện Chư Prông lúc này còn lại 15 xã, thị trấn.
Ngày 13-5-2002, theo Nghị định số 54/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc
điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Chư Prông được thành lập thêm xã mới Ia Ga,
Ia Piơr, Ia Drăng, trên cơ sở điều chỉnh diện tích và nhân khẩu của xã Ia Pia và Ia Lâu,
Thăng Hưng, Bình Giáo và Ia Bòng.
Ngày 17-4-2008, theo Nghị định số 46/2008/NĐ-CP của Chính phủ, xã Ia Kly
và Ia Bang được thành lập trên cơ sở điều chỉnh diện tích tự nhiên và nhân khẩu của
thị trấn Chư Prông, xã Ia Tôr và xã Ia Vê.
Đến nay, toàn huyện Chư Prông có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm:
thị trấn Chư Prông và các xã Ia Drăng, Bàu Cạn, Thăng Hưng, Bình Giáo, Ia Ga, Ia
Lâu, Ia Piơr, Ia Me, Ia Bòong, Ia Mơr, Ia O, Ia Púch, Ia Phìn, Ia Băng, Ia Vê, Ia Tôr,

Ia Kly, Ia Bang và Ia Pia, với 180 thôn, làng, tổ dân phố, trong đó có 117 thôn, làng
đồng bào dân tộc thiểu số. Thị trấn Chư Prông là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa
của huyện.
18


II. Lịch sử ra đời và phát triển của Đảng bộ huyện Chư Prông.
Trải qua hơn 64 năm xây dựng và trưởng thành, 16 kỳ Đại hội, với mỗi chặng
đường cách mạng, Đảng bộ huyện Chư Prông đã đề ra nhiều Nghị quyết sát, đúng với
tình hình thực tế của địa phương. Công tác xây dựng và củng cố hệ thống chính trị,
nhất là ở cơ sở được chú trọng. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức
Đảng không ngừng được nâng lên.
Ban cán sự Đảng khu 5 tiền thân của Đảng bộ huyện Chư Prông tỉnh quyết
định thành lập ngày 15-9-1954 gồm các đổng chí Siu Năng (Siu Tám), Tỉnh ủy viên
làm Bí thư, Trịnh Quang Ngọc (Tường), Ngô Thành (Chinh) làm ủy viên. Đến tháng
9-1955, đổng chí Síu Năng chuyển công tác khác, đồng chí Trịnh Quang Ngọc
(Tường) được cử làm Bí thư. Cuối năm 1955, Tỉnh ủy bổ sung ủy viên cho Ban cán
sự các khu đợt 2, các đồng chí Nguyễn Thành (Ui), Huỳnh Thăng (Hưnh, Hinh) được
bổ sung vào Ban cán sự Đảng khu 5.Sự ra đời của ban cán sự Đảng khu 5 là kết quả
của các cuộc đấu tranh trước đó mà nòng cốt lãnh đạo các đảng viên đảng công sản
như dồng chí Hà Phú Hương trong phong trào Công hội đỏ ở đồn điền Bàu Cạn năm
1930, đồng chí Trần Ren với Hội Cứu tế đỏ 1940, các đội vũ trang tuyên truyền tây
đường 14 và nam đường 19…
Chiến dịch Điên Biên Phủ thắng lợi đã buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định
Giơnevơ chấm dút chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Cuộc kháng chiến
chống thực dân pháp của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Những tưởng đất nước sẽ
được hòa bình, nhưng kẻ thù bất chấp quy định, ráo riết phá hoại Hiệp định. Đế quốc
Mỹ âm mưu thay chân Pháp nhảy vào miền nam Việt Nam thực hiện chính sách thực
dân kiểu mới. Tháng 6 năm 1954 Mỹ đưa Ngô ĐÌnh Diệm về thành lập chính phủ bù
nhìn thân Mỹ, tăng cường các hoạt động nhằm xóa bỏ vai trò của Đảng ta. Nhân dân

cả nước và nhân dân các dân tộc tây nguyên nói chung, nhân dân huyện Chư Prông
nói riêng lại bước vào cuộc đấu tranh mới gian khổ, ác liệt để chống lại kẻ thù Đế
quốc Mỹ.
Tháng 7 năm 1960, Tỉnh ủy Gia Lai quyết định sáp nhập khu 4 và khu 5 thành
khu 45 và thành lập Ban cán sự khu 45. Tuy nhiên, do yêu cầu của tình hình cuộc
kháng chiến chống Mỹ và đảm bảo hoạt động của tổ chức Đảng, tháng 6 năm 1961,
khu 45 lại được tách thành hai khu 4 và khu 5 và thành lập đơn vị hành chính cấp
huyện gọi là huyện 5. Đến tháng 3-1962 Đại hội Đảng bộ Khu 5 (huyện 5) lần thứ
nhất được tổ chức tại làng Gông Kreh, xã E6 (la Púch). Đại hội được tổ chức trong
tình hình phong trào cách mạng toàn tỉnh và ở địa phương đang trên đà phát triển sau
thời kỳ đồng khởi, quân dân huyện 5 tập trung vào nhiệm vụ đấu tranh chính trị kết
hợp với vũ trang chống phá ầm mưu dồn dân lập ấp chiến lược của địch. Đại hội đã
đánh giá sự lãnh đạo Đảng bộ đối với phong trào địa phương từ sau hòa bình lập lại
và đề ra nhiệm vụ trong giai đoạn mới: Tiếp tục lãnh đạo phong trào quần chúng đấu
tranh chống âm mưu dồn dân lập ấp chiến lược của địch; đẩy mạnh đấu tranh chính
trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, binh vận tấn công tiêu diệt địch, phá kìm kẹp, giải
phóng dân, phá banh các ấp chiến lược, khu dồn, mở rộng vùng giải phóng, giữ vững
19


vùng căn cứ; phát triển chiến tranh du kích. Đẩy mạnh phát động quần chúng tích
cực tham gia sản xuất, tự túc lương thực. Tăng cường công tác xây dựng tổ chức cơ
sở đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 12 đồng chí, đồng chí Nguyễn Văn (Cang)
được bầu làm Bí thư, đồng chí Huỳnh Thăng (Hình) làm Phó bí thư.
Cuối tháng 3 năm 1965, Quân khu 5 triệu tập hội nghị du kích chiến tranh để
bàn kế hoạch xây dựng củng cố dân quân du kích, xây dựng “làng chiến đấu”, “vành
đai diệt Mỹ” và phát động phong trào “thiện xạdiệt Mỹ”. Trong những ngày này,
Đảng bộ huyện 5 chủ động kiểm điểm những thuận lợi và khó khăn để tìm cách khắc
phục qua đó xác định khó khăn của huyện là hoạt động ráo riết của địch đã đẩy cuộc

chiến tranh lên mức khốc liệt làm ảnh hưởng tới tinh thần của cán bộ, chiến sỹ, ảnh
hưởng đến sản xuất của nhân dân, gây trở ngại cho hoạt đọng của cán bộ, bộ đội và du
kích. Trước tình hình trên, để củng cố sức mạnh, tạo đã tiến công địch trong tình hình
mới, Bna Chấp hành Đảng bộ huyện 5 quyết định tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II
vào tháng 8 năm 1965 tại làng Griêng, E7(E7 nay là xã Ia Bòng, huyện Chư Prông)
với 50 đại biểu tham dự và bầu Ban chấp hành gồm 15 đồng chí, tại Đại hội bầu đồng
chí Lê Tam làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thành (Ui) làm Phó Bí thư. Sau khi đánh
giá tình hình chiến trường và phong trào chiến tranh du kích ở địa phương, Đại hội đã
thông qua nghị quyết:
- Kiên quyết “diệt ác”, “phá kìm”, không cho chúng dồn dân, lập vành đai
trắng, “tát nước bắt cá”
- Đoàn kết toàn dân, tăng cường sản xuất, tự túc lương thực tại chỗ, ổn định
đời sống nhân dân.
Cuộc tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã làm thất bại Chiến lược chiến
tranh cục bộ của Mỹ, địch buộc phải thay đổi chiến lược, thực hiện chính sách Việt
“Nam hóa chiến tranh”, rút dần quân Mỹ khỏi miền nam Viêt Nam. Việc Mỹ rút bớt
quân khỏi miền nam đã tạo thuận lợi về so sánh tương quan lực lượng giữa ta và địch,
tạo biến chuyển mới cho cuộc kháng chiến, chủ chương của địch bây giờ chủ yếu là
càn quét, bình định, lấn chiếm.
Tháng 8 năm 1969, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện 5 lần thứ III đã diễn ra tại
làng Tu, E4 (E4 nay là xã Ia Mơ, huyện Chư Prông), bầu Ban Chấp hành gồm 25
đồng chí, tại Đại hội bầu đồng chí Đặng Ngọc Bân (Bo) làm Bí Thư, đồng chí Kpuih
Phâk làm phó Bí Thư. Đại hội đã đề ra nghị quyết tuyên truyền, vân động quần chúng
về âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh, thành lập đội công tác vùng dân tộc thiểu số,
thành lập các đội công tác xã, xây dựng lực lượng trong lòng địch, đâyỷ mạnh sản
xuất, củng cố xây dựng và phát triển Đảng ở các ấp chiến lược.
Tháng 11 năm 1971, Đại hội đại biểu huyện 5 lần thứ IV đã diễn ra tại làng
Gông Kreh, E6 (E6 nay là xã Ia Púch huyện Chư Prông) Ban Chấp hành Đảng bộ
gồm 25 đồng chí, tại Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Thứ làm Bí Thư, đồng chí Kpuih
Phâk làm phó Bí Thư. Đại hội diễn ra trong bối cảnh phong trào cách mạng của quần

chúng huyện 5 lên cao. Đai hội đã xác định phát huy ưu điểm, khắc phục khó khăn,
20


khuyết điểm,phấn đấu thực hiện các nhiệm vụ tromg tâm: chống bình định, giành và
giữ dân vùng nông thôn, củng cố và mở rộng vùng giải phóng, phát triển lực lượng
cách mạng nhằm đánh bại căn bản kế hoạch bình định của địch trên địa bàn huyện,
góp phần làm thất bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
Ngày 28/01/1973, Hiệp định Pari được ký kết, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa III khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta đã giành được
thắng lợi vẻ vang, nhiệm vụ trước mắt là hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ ở miền
nam, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà. Trong khí thế của cả nước, Đại hội đại
biểu Đảng bộ huyện 5 lần thứ V đã diễn ra tại làng Sơ, E7 (E7 nay là xã Ia Bòng,
huyện Chư Prông), bầu ban chấp hành gồm 18 đồng chí, tại Đại hội bầu đồng chí
Nguyễn Long (Thứ) làm Bí thư , Kpuih Phâk làm phó Bí Thư. Ban Chấp hành Đảng
bộ khóa V đã lãnh đạo nhân dân huyện nhà đến ngày toàn thắng.
Để đảm bảo nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong thời ký mới, các Đại hội
VI tháng 10/1076, Đại hội VII tháng 5/1979, Đại hội VIII tháng 11/1982, Đại hội Ĩ
tháng 8/1986, Đại hội X tháng 4/1989, Đại hội XI tháng 12/1991, Đại hội XII tháng
12/1995, Đại hội XIII năm 2000, Đại hội XIV tháng 9/2005, Đại hội XV năm 2010 đã
được tiến hành và đưa ra những Nghị quyết cụ thể xây dựng và phát triển huyện Chư
Prông giàu đẹp, phồn vinh.
Tháng 7/2015 Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Chư Prông đã diễn ra tại Hội
trường 19/5. Đại hội đã bỏ phiếu trực tiếp bầu đồng chí Bùi Viết Hội – Bí thư huyện
ủy nhiệm kỳ 2010-2015 tiếp tục giữ chức bí thư huyện ủy nhiệm kỳ 2015-2020, bầu
ban chấp hành Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 41 đồng chí và bầu ban
thường vụ huyện ủy gồm 11 đồng chí.
Trải qua 64 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ huyện đến nay có 26 tổ
chức cơ sơ đảng, 305 chi bộ, với 3.788 đồng chí đảng viên. Với mỗi chặng đường
cách mạng, Đảng bộ đã đề ra nhiều Nghị quyết sát, đúng với tình hình thực tế của địa

phương. Xây dựng huyện Chư Prông từ một huyện khó khăn đã có những bước phát
triển vượt bộc. Về Chư Prông hôm nay, ngọn núi Chư Prông vẫn hiên ngang như một
bằng chứng sống của cuộc đâus tranh kiên cường của đồng bào các dân tộc của huyện
nay đã được phủ xanh bởi những đồi cà phê, cao su bạt ngàn và một cuộc sống ấm no
hạnh phúc của nhân dân ở một vùng đất đã dần thay da đổi thịt.

21



×