Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Lich su dang bo huyen me linh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.42 KB, 57 trang )

Chương III
ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH
MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHÔNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC
(1945-1954)
I. XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN,
CHUẨN BỊ TINH THẦN VÀ LỰC LƯỢNG, KHÁNG CHIẾN (1945-1946)
1. Bảo vệ và củng cố chính quyền dân chủ nhân dân, bước đầu xây dựng
chế độ mới
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt.
Cuối tháng 8-1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam
(Posdam), gần 20 vạn quân của chính phủ Tưởng Giới Thạch ồ ạt kéo vào nước ta
từ vĩ tuyến 16 trở ra làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Theo chúng là lực
lượng tay sai phản động trong hai tổ chức "Việt quốc" (Việt Nam quốc dân Đảng)
và "Việt cách" (Việt Nam cách mạng đồng minh hội). Vào Việt Nam, quân Tưởng
Giới Thạch còn ráo riết thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh,
đánh đổ chính quyền cách mạng, lập chính quyền phản động tay sai của chúng.
Đằng sau quân Tưởng là đế quốc Mỹ đang nuôi dã tâm đặt Đông Dương dưới chế
độ "uỷ trị", một trá hình của chế độ thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Phía Nam vĩ tuyến 16, quân đội Anh với danh nghĩa quân Đồng minh giải
giáp quân đội Nhật đã đồng loã và tiếp tay cho thực dân Pháp quay lại Đông
Dương. Ngày 23-9-1945, được quân Anh giúp sức, thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai.
Trên đất nước ta lúc đó còn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp.
Một số quân Nhật đã thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh
dọn đường cho quân Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam.

1



Lúc này, các tổ chức phản động "Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết
hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng. Chúng quấy
nhiễu, phá rối, cướp của, giết người, tuyên truyền, kích động một số người đi theo
chúng chống lại chính quyền cách mạng và đòi cải tổ Chính phủ lâm thời và các bộ
trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở
Móng Cái, Yên Bái, Vĩnh Yên. Chưa bao giờ trên đất nước ta có mặt nhiều thù
trong, giặc ngoài như lúc này.
Trong lúc đó, ta còn phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về kinh
tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục. Ruộng
đất bị bỏ hoang. Công nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại
thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng,
trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản
Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị trường. Hơn 90%
số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết sức nặng nề.
Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà chưa có nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta.
Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc". Tổ
quốc lâm nguy!
Trước tình hình đó, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tỉnh táo
và sáng suốt phân tích tình thế, chiều hướng phát triển của các trào lưu cách mạng
trên thế giới và sức mạnh mới của dân tộc làm cơ sở để vạch ra chủ trương và giải
pháp đấu tranh giữ vững chính quyền, bảo vệ nền độc lập tự do.
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, nhân dân Mê Linh từ thân phận
người dân mất nước, nô lệ trở thành người làm chủ quê hương đất nước. Tuy nhiên
cũng như nhiều nơi trong cả nước, nhân dân Mê Linh bắt tay xây dựng chế độ mới
trước những khó khăn và thách thức hết sức nặng nề. Đê sông Hồng ở bầu Sao
(Vĩnh Tường) và Diệm Xuân bị vỡ ngày 19 và ngày 20-8 đã gây ra nạn ngập lụt
chưa từng có, hàng ngàn héc ta ruộng ngô, lúa, khoai, sắn, nhiều làng mạc kể cả thị
2



xã Phúc Yên bị ngập chìm trong nước kéo dài suốt 10 ngày. Sau lũ lụt lại đến hạn
hán kéo dài, nguy cơ một nạn đói đã đe dọa vì hoa màu, lúa đều thất thu, thêm nữa
bệnh dịch phát triển và lan tràn khắp nơi cướp đi hàng trăm mạng người và hàng
ngàn trâu bò, gia súc. Di sản văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại
rất nặng nề, hơn 90% nhân dân mù chữ. Kèm theo đó là những hủ tục xã hội như
ma chay, cưới xin, hội hè, đình đám, cờ bạc…
Cùng với thiên tai, nạn dốt, nguồn tài chính khô kiệt là sự phản ứng đến cùng
của bọn địa chủ phong kiến. Thêm vào nữa, bọn phản động Tưởng Giới Thạch núp
dưới danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân đội Nhật lần lượt vào chiếm
đóng Việt Trì, Bạch Hạc, Vĩnh Yên, Phúc Yên hòng “tiêu diệt Đảng ta, phá tan
Việt Minh, giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập
một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng” (1).
Trước tình hình diễn biến ngày càng phức tạp, ngày 3-9-1945 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân,
sau này được Người khái quát thành 3 nhiệm vụ lớn: Diệt giặc dốt, diệt giặc đói,
diệt giặc ngoại xâm.
Ngày 25-11-1945, Trung ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”,
đồng thời xác định nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân ta lúc này là: “Củng cố chính
quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho
nhân dân”.
Phong trào dân chủ và hòa bình cũng đang vươn lên mạnh mẽ. Ở trong
nước, chính quyền nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã được kiến
lập có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Nhân dân lao động đã làm chủ vận
mệnh của dân tộc. Lực lượng vũ trang nhân dân đang phát triển. Toàn dân tin
tưởng và ủng hộ Việt Minh, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Dưới sự lãnh đạo
khéo léo của Đảng, của Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, toàn dân,

1()


Hồ Chí Minh: “Báo cáo chính trị” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tháng 2/1951, Tuyển tập, tập
I Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội 1980, tr. 471.

3


toàn quân đoàn kết một lòng trong mặt trận dân tộc thống nhất, quyết tâm giữ
vững nền độc lập tự do của dân tộc.
Sau ngày tuyên bố độc lập, Chính phủ lâm thời đã nêu ra những việc cấp
bách nhằm thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại
xâm. Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc. Chỉ thị nhận định tình hình thế giới và trong nước, chỉ rõ những thuận lợi
cơ bản và những thử thách lớn lao của cách mạng nước ta. Trung ương Đảng xác
định: Tính chất của "cuộc cách mạng Đông Dương lúc này vẫn là cuộc cách mạng
dân tộc giải phóng". Cuộc cách mạng ấy chưa hoàn thành vì nước ta chưa hoàn
toàn độc lập. Khẩu hiệu của ta lúc này vẫn là "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết".
Phân tích âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương nêu rõ "kẻ
thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu
tranh vào chúng". Vì vậy phải "lập Mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân
Pháp xâm lược"; mở rộng Mặt trận Việt Minh nhằm thu hút mọi tầng lớp nhân
dân; thống nhất Mặt trận Việt - Miên - Lào; kiên quyết giành độc lập - tự do hạnh phúc cho dân tộc.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chủ yếu của nhân dân cả
nước ta lúc nay là "củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ
nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân". Để thực hiện các nhiệm vụ đó Trung
ương đề ra các công tác cụ thể:
Về nội chính: xúc tiến việc bầu cử Quốc hội, thành lập chính phủ chính thức,
lập Hiến pháp, củng cố chính quyền nhân dân.
Về quân sự: động viên lực lượng toàn dân, kiên trì kháng chiến, tổ chức và
lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài.
Về ngoại giao: kiên trì nguyên tắc "bình đẳng tương trợ", thêm bạn bớt thù,

thực hiện khẩu hiệu "Hoa - Việt thân thiện" đối với quân đội Tưởng Giới Thạch và
chủ trương "độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế" đối với Pháp.

4


Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan
trọng về chỉ đạo chiến lược và sách lược cách mạng khôn khéo trong tình thế vô
cùng hiểm nghèo của nước nhà.
Như vậy cũng trên phạm vi cả nước, sau cách mạng tháng Tám hàng loạt khó
khăn thử thách nặng nề đã đặt ra trước chính quyền non trẻ, trước những cán bộ
đảng viên mới bước đầu tham gia quản lý và xây dựng chế độ mới. Bên cạnh
những khó khăn và thử thách, Đảng bộ và chính quyền các cấp ở Mê Linh cũng có
những thuận lợi. Thuận lợi cơ bản là có sự lãnh đạo của Đảng, bao gồm những
đảng viên trung kiên, dày dạn kinh nghiệm, qua thử thách, gian khổ vẫn một lòng,
một dạ kiên định đi theo lý tưởng của Đảng. Nhân dân địa phương vốn cần cù lao
động, giàu lòng yêu nước đã tham gia hầu hết các phong trào khởi nghĩa, từ khi có
Đảng, tuyệt đối tin tưởng vào con đường mà Đảng đã vạch ra.
Những khó khăn và thử thách nêu trên đã đặt ra nhiệm vụ quan trọng và cấp
bách đầu tiên là phải củng cố vững chắc tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể
quần chúng. Trước hết là việc xây dựng tổ chức Đảng. Tháng 9-1945 theo quyết
định của Tỉnh ủy Phúc Yên, ở mỗi huyện Yên Lãng và Kim Anh đều thành lập một
Ban Huyện ủy lâm thời, Huyện ủy Yên Lãng do đồng chí Đào Văn Mỹ, Huyện ủy
Kim Anh do đồng chí Vũ Ngọc Linh làm Bí thư. Tham gia Huyện ủy lâm thời
huyện Yên Lãng còn có đồng chí Hoàng Lương (tức Nguyễn Lương Hoàng) Chủ
tịch Ủy ban cách mạng lâm thời huyện, đồng chí Nguyễn Văn Thuận (tức Tâm
Xồm) Bí thư Ban chấp hành Việt Minh huyện. Việc thành lập Ban Huyện ủy đánh
dấu bước trưởng thành của Đảng bộ huyện Yên Lãng(1).
Tại thị xã Phúc Yên, nhìn chung công tác phát triển Đảng chưa được chú
trọng. Ngoài hai đồng chí Vương Văn Huống và Nguyễn Trọng Duệ được kết nạp

Đảng trong cao trào của Mặt trận Việt Minh, số đông anh chị em tuy hoạt động
năng nổ, tích cực nhưng vẫn chưa được bồi dưỡng, kết nạp, ở Phúc yên vì vậy đến
tháng 9-1945 vẫn chưa có chi bộ Đảng độc lập.
1()

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mê Linh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Mê Linh, thời kỳ 1945-1954. Vĩnh Phú
1992, tr. 7-8.

5


Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót, sau cách mạng tháng Tám, Ban Tỉnh
ủy lâm thời Phúc Yên chủ trương đẩy nhanh công tác phát triển Đảng, hướng vào
những đồng chí đã trải qua thử thách, rèn luyện, đặc biệt chú trọng kết nạp đảng
viên ở những địa bàn xung yếu. Riêng thị xã Phúc Yên là trung tâm của tỉnh, nơi
tập trung nhiều cơ quan, ban ngành của tỉnh nên được tỉnh ủy quan tâm hơn cả.
Tháng 10-1945, trong buổi lễ kết nạp Đảng đầu tiên được tổ chức tại gia đình
anh Nguyễn Bá Lô (đồng chí Vũ Thúy Châu), có đồng chí Trần Thị Sinh đại diện
tỉnh ủy Phúc Yên tham dự. Đồng chí Sinh tuyên bố kết nạp ba đồng chí Ngọc
Minh, Vũ Thúy Châu, Nguyễn Văn Hải vào Đảng và đọc quyết định thành lập chi
bộ thị xã Phúc Yên gồm ba người do đồng chí Vũ Thúy Châu làm Bí thư. Nhưng
chi bộ chỉ tồn tại một thời gian ngắn vì sau đó một đảng viên đi bộ đội (đồng chí
Ngọc Minh) một đảng viên khác (Nguyễn Văn Hải) bỏ chạy theo Quốc dân Đảng,
chỉ còn đồng chí Châu phải sinh hoạt với chi bộ cơ quan Tỉnh(1).
Cũng trong thời gian này các chi bộ Đảng ở các xã được củng cố lại. Lực
lượng công an, đội tự vệ bổ sung và hoàn chỉnh thêm một bước.
Trên đà phát triển đó, các chi bộ đảng tiến hành chấn chỉnh hệ thống tổ chức
chính quyền cách mạng. Đại biểu các đoàn thể cứu quốc, những thân hào, nhân sỹ
được cử thêm vào trong bộ máy chính quyền Nhà nước.
Những chủ trương, biện pháp trên đây của Ban Huyện ủy lâm thời và Ủy ban

nhân dân huyện đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, động viên kịp thời
mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần làm chủ đất nước, hăng hái tham gia vào
công cuộc bảo vệ chính quyền cách mạng và xây dựng chế độ mới.
Công việc đầu tiên của chính quyền cách mạng là đối phó với âm mưu và
hành động của quân Tưởng và Quốc dân Đảng.
Cuối tháng 9-1945, quân đội Tưởng lũ lượt kéo vào Mê Linh. Ở Phúc Yên có
5.000 tên, ngoài ra chúng còn đóng quân tại Hạ Lôi, Nại Châu, Thạch Đà. Đây là
một đội quân ô hợp, đi tới đâu quấy nhiễu, dọa nạt và cướp bóc tài sản của nhân
1()

Ban chấp hành Đảng bộ huyện Mê Linh: Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Mê Linh, thời kỳ 1945-1954, Vĩnh Phú
1992, tr. 7-8.

6


dân tới đó. Trên địa bàn Phúc Yên, chúng mua vét hàng hóa, lương thực, thực
phẩm, gây ra nhiều vụ rắc rối, chúng còn tiếp tay cho bọn phản động ở một số nơi,
chia rẽ khối đoàn kết dân tộc... Những hành động đó của quân Tưởng và tay sai đã
làm cho đông đảo nhân dân hết sức bất bình và căm phẫn.
Vận dụng chủ trương của Trung ương Đảng và chỉ dẫn của Hồ Chủ tịch,
Huyện ủy, chính quyền các cấp đã thực hiện sách lược vừa cứng rắn, vừa mềm dẻo
với quân Tưởng trên nguyên tắc giữ vững chủ quyền độc lập, bảo vệ chính quyền
cách mạng, tránh xung đột.
Thực hiện sách lược đó, Tỉnh ủy và Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh Phúc
Yên quyết định di chuyển tất cả các cơ quan tỉnh, kho tàng về thôn Đạm Xuyên
(xã Tiền Châu - Yên Lãng). Lực lượng vũ trang bí mật bám sát theo dõi mọi hành
động của quân Tưởng. Ta nhường các công sở, kể cả dinh Tuần phủ và quán chợ
cho chúng đóng quân, riêng trụ sở Ủy ban nhân dân lâm thời ta giữ lại. Những
việc làm trên tỏ rõ thiện chí của ta là hòa bình thân thiện, không muốn gây căng

thẳng. Mặc dù vậy bọn chúng vẫn đưa ra nhiều yêu sách vô lý như đòi sử dụng trụ
sở Ủy ban nhân dân tỉnh, khiêu khích, bắn súng vào tự vệ ở phố Ga làm 1 chiến sĩ
của ta bị thương.
Để hạn chế sự phá phách của quân Tưởng, Đảng bộ Phúc Yên dưới sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy đã khôn khéo lãnh đạo nhân dân khước từ mọi yêu sách của địch,
đồng thời tổ chức bao vây về kinh tế, vận động nhân dân không đem hàng hóa,
lương thực vào các chợ thị xã bán cho chúng, ngăn trở giao thông… làm cho quân
Tưởng hết sức lúng túng về hậu cần, về giao thông liên lạc. Chính vì thế chúng
buộc phải thường xuyên giao thiệp với chính quyền ta qua ban liên kiểm và bớt thói
hung hăng phá phách(1).
Cũng trong thời gian này dưới sự chỉ đạo của đồng chí Trần Đăng Ninh (Ủy
viên Trung ương Đảng), Phúc Yên đã phá được khá nhiều vụ chuyển vũ khí, tiền

1()

Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Vĩnh Phú tập 1, xuất bản 1982, trang 125-126.

7


bạc, hàng hóa của quân Tưởng từ Vĩnh Yên đi Hà Nội và ngược lại, đồng thời bắt
một số tên đầu sỏ.
Đối với bọn tay sai của Quốc dân Đảng phản động ta dùng lực lượng vũ
trang, quần chúng nhân dân giám sát, kiềm chế không cho chúng phát triển gây cơ
sở phá hoại. Lực lượng dân quân phối hợp với công an ở các xã tiến hành tuần tra
canh gác, bắt đưa đi cải tạo hai tên tiên chỉ hàng Nại Châu và Hạ Lôi.
Để ngăn đe giáo dục bọn phản động, huyện Yên Lãng còn lập tòa án lưu
động, đã tử hình tại chỗ ba tên đầu sỏ, trộm cướp.
Ở thị xã Phúc Yên đã thành lập đội công tác dưới danh nghĩa làm nhiệm vụ
chống buôn lậu. Đội này được phép kiểm soát các chuyến xe lửa từ Phúc yên đến

ga Thạch Lỗi, thực chất là lùng bắt bọn quốc dân Đảng về Hà Nội hoạt động và đã
phát hiện nhiều vụ vận chuyển vũ khí trái phép.
Trước thái độ cương quyết bảo vệ chính quyền cách mạng của nhân dân
cũng như sự trưởng thành lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng, những ý đồ
đen tối của bọn tay sai phản động Quốc dân Đảng và quân đội Tưởng đều bị thất
bại. Vừa bị cô lập, vừa sợ bị tiêu diệt, chúng buộc phải lặng lẽ rút khỏi Phúc Yên
và các địa bàn khác ở huyện Yên Lãng.
Nhờ đó, tình hính chính trị, xã hội trên địa bàn huyện dần dần ổn định, tạo
điều kiện thuận lợi để Đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương tiếp tục thực
hiện những nhiệm vụ cấp bách mà Trung ương Đảng, Hồ Chủ tịch đề ra. Để khắc
phục nạn đói và nhanh chóng ổn định đời sống cho nhân dân, thực hiện chương
trình Việt Minh, chính quyền cách mạng đã bãi bỏ thuế thân và những thứ thuế vô
lý khác do chế độ cũ để lại, trước mắt là giảm thuế ruộng đất, thuế môn bài, vận
động giảm tô, giảm tức, xóa nợ công, tịch thu ruộng đất của Pháp và Việt gian chia
cho dân nghèo. Mặt khác từ tỉnh đến huyện, xã đều thành lập ủy ban cứu tế, đồng
thời tổ chức các cuộc lạc quyên và những “ngày đồng tâm” lập “hũ gạo cứu đói”, tự
nguyện nhịn bữa, bớt ăn, san sẻ lúa gạo, hoa màu cho bà con bị thiếu đói. Phong
trào tiết kiệm lương thực và đoàn kết tương trợ lẫn nhau được thực hiện ở nhiều
8


nơi. Nhiều nhà giàu đã xuất thóc cho các gia đình nghèo vay không lấy lãi, có
người cho vay tới 1 tấn thóc như gia đình ông Khuyến ở thôn Văn Quán (Văn
Khê), tá điền ở ấp Quang Minh tuy nghèo khó cũng dành hơn 1 tạ gạo để giúp
những người nghèo đói hơn mình; nhân dân xã Liên Minh (nay là Thanh Lâm) còn
trích 10 tạ gạo trong quỹ cứu tế của xã để giúp các xã bạn trong nạn đói.
Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản
xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa”, chi bộ Đảng và chính quyền các xã khẩn trương
lãnh đạo toàn dân tiến quân vào mặt trận sản xuất nông nghiệp. Khẩu hiệu “tấc đất
tấc vàng” được thực hiện triệt để.

Phong trào khai hoang phục hóa, mở rộng diện tích canh tác phát triển ở
khắp nơi. Những bãi hoang, bãi sậy ven sông đều được khai phá để trồng trọt. Sản
xuất nông nghiệp được phục hồi nhanh chóng, vụ đông xuân 1945-1946 giành
thắng lợi.
Nhờ những biện pháp nhạy bén và thiết thực, tình trạng thiếu đói từng bước
được khắc phục, đời sống nhân dân tuy còn vất vả nhưng dần dần ổn định.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, hưởng ứng cuộc vận động “Quỹ độc lập” và
“Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động (9-1945), bằng biện pháp tuyên truyền, cổ
động đến từng gia đình lời kêu gọi của Trung ương Đảng, Chính phủ, nhân dân
khắp các thôn xã đã tự nguyện đóng góp cho Nhà nước, không riêng những gia
đình giàu có, mà cả những gia đình nghèo cũng góp từng đồng, từng xu. Vì vậy chỉ
trong một thời gian ngắn, ngoài tiền mặt còn có hàng trăm mâm thau, nồi đồng, cả
những kỷ vật quý giá như xuyến, nhẫn, hoa tai vàng, vòng bạc. Xã Liên Mạc đã
đóng góp 62.000đ, 2.159kg gạo, 2 chuông đồng, 1 khánh đồng; xã Tiến Thịnh:
2.112đ, 197kg đồng, 2kg bạc; xã Tiền Phong: 40 đồng cân vàng, 20 đôi xà tích bạc,
40 mâm thau, nồi đồng; xã Tự Lập: 800kg đồng, 20kg bạc. ở thị xã Phúc Yên nhiều
người ủng hộ vàng với số lượng dẫn đầu toàn tỉnh như ông Lý Bang Hồi, bà Vương
Thị Thục, bà xếp Nguyên, ông Đức Thịnh(1).
1()

Những sự kiện lịch sử Đảng bộ Mê Linh thời kỳ 1945-1954. Vĩnh Phú, 1992, trang 9.

9


Những đóng góp trên đây tuy không nhiều, song thể hiện tấm lòng của người
dân làm chủ, cùng Nhà nước giải quyết những khó khăn về mặt tài chính.
Cùng với cuộc vận động phát triển kinh tế, ổn định đời sống cho nhân dân,
khắc phục khó khăn về tài chính, cuộc vận động xây dựng văn hóa mới, đời sống
mới cũng được tiến hành sôi nổi. Sau khi Chính phủ ban hành sắc lệnh Nha bình

dân học vụ, tỉnh Phúc Yên quyết định thành lập Ban bình dân học vụ các cấp từ
tỉnh xuống cơ sở để chăm lo việc xóa nạn mù chữ trong nhân dân. Lời kêu gọi
chống thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã động viên trẻ già, trai gái nô nức thi
đua học tập. Từ thành thị đến nông thôn, khắp các ngả đường đều chăng khẩu
hiệu “Đi học là yêu nước”, “Đi học là kháng chiến và diệt ngoại xâm”, hoặc “Tền
tuyến diệt xâm lăng, hậu phương diệt giặc dốt”, “Mỗi gia đình là một lớp học, mỗi
người biết chữ là một giáo viên, mỗi công dân là một học sinh”. Cuộc vận động
bài trừ giặc dốt được phát động sôi nổi, rộng khắp, trai gái, trẻ, già đều hăng hái
cắp sách đến lớp học. Công tác tuyên truyền vận động người đi học được lực
lượng thanh, thiếu niên cứu cuốc tích cực thực hiện bằng nhiều hình thức, như đốt
lửa trại, diễn kịch, dựng cổng chào ở trục đường chính. Lớp học mở khắp nơi,
trong đình, trong các nhà tư, dưới các bóng cây. Hình thức học cũng rất đa dạng,
học bất kể lúc nào, người biết dạy người chưa biết, biết đến đâu dạy đến đó. Nhân
dân đã tận dụng mọi phương tiện để học, thậm chí nong, nia, cánh cửa, bức tường
cũng thành bảng. Bằng biện pháp vừa tự giác, vừa bắc buộc, người chăm học
được biểu dương, khen thưởng kịp thời, người mù chữ, lười học bị dư luận chê
trách. Ở các xã như Văn Khê, Thanh Lâm, Tiền Phong… còn dán các khẩu hiệu
thơ ca, hò vè khích lệ việc học tập.
Nhờ có những biện pháp tích cực đó, chỉ trong một thời gian ngắn, phong
trào Bình dân học vụ đã phát triển đều khắp từ thành thị đến nông thôn. Tính đến
cuối năm 1948 trên địa bàn tỉnh Phúc Yên đã xóa xong nạn mù chữ ở hai huyện
Kim Anh, Yên Lãng. Đầu năm 1949 thị xã Phúc Yên được tỉnh công nhận là hoàn
thành nhiệm vụ xóa mù chữ.
10


Đồng thời với cuộc vận động diệt giặc đói và diệt giặc dốt, Đảng và chính
quyền các xã còn phát động quần chúng thực hiện đời sống mới, các tệ nạn nghiện
rượu, hút thuốc phiện, cờ bạc được bài trừ, các hủ tục trong tang ma, cưới xin đều
được giảm bớt.

Trong lúc chính quyền cách mạng non trẻ đang tập trung giải quyết những
khó khăn nảy sinh thì ngày 23-9-1945 thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn.
Cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ bắt đầu. Trong ương Đảng và Hồ Chủ
tịch kêu gọi đồng bào cả nước ra sức ủng hộ, chi viện cho cuộc kháng chiến Nam
Bộ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, Ủy ban nhân dân, các đoàn thể
cứu quốc tỉnh Phúc Yên phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến. Khắp
nơi từ thành thị đến làng quê tổ chức mít tinh, biểu tình phản đối hành động xâm
lược của thực dân Pháp. Mỗi cuộc biểu tình có hàng ngàn người tham gia. Đặc biệt
ở thị xã Phúc Yên, số đông tiểu thương, tiểu chủ còn tổ chức nửa ngày bãi công,
bãi thị. Nhân dân nô nức ghi tên xung phong, thanh niên tình nguyện vào bộ đội, nữ
thanh niên xung phong làm cứu thương. Một số cụ già cũng làm đơn xin được vào
Nam chiến đấu, hoặc hứa sẽ động viên con cháu tòng quân đánh giặc. Chỉ sau mấy
ngày phát động đã có hàng chục chiến sỹ gia nhập đoàn quân Nam tiến(1).
Vừa động viên người thân gia nhập đội quân Nam Tiến, nhân dân còn đóng
góp tiền bạc, thuốc men, chăn màn, quần áo gửi vào Nam bộ kháng chiến. Thông
qua cuộc vận động này, Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc đã
lấy tình “Tổ quốc, nghĩa đồng bào” để thắt chặt tình ruột thịt Bắc - Nam. Những
hành động đó chứng tỏ sức mạnh vĩ đại, quyết tâm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân Mê Linh.
Ngày 23-12-1954, trong không khí phấn khởi vì những thắng lợi vừa mới
giành được, hơn 90% cử tri ở Phúc Yên, Yên Lãng, Kim Anh đã nô nức tham

1()

Số liệu thanh niên Nam tiến ở một số xã: Liên Mạc 5; Thanh Lâm 4; Mê Linh 4; Kim Hoa 4; Tự Lập 2; Chu
Phan 1; thị xã Phúc Yên 4.

11



gia bỏ phiếu để bầu cử Quốc hội và thành lập chính phủ chính thức của nước
Việt Nam mới(2).
Tiếp đến tháng 3-1946 nhân dân Phúc yên, Yên Lãng, Kim Anh lại hân hoan
đi bỏ phiếu bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh. Kết quả các cử tri đã lựa chọn được 21
đại biểu vào Hội đồng Nhân dân tỉnh, trong đó huyện Yên Lãng 5, Kim Anh 5,
Đông Anh 5, Đa Phúc 4 và thị xã Phúc Yên 2 đại biểu.
Ngay sau đó, cuộc bầu cử Hội đồng Nhân dân xã cũng được tiến hành (41946), kể từ đây cơ quan quyền lực cao nhất cấp xã ra đời ở tất cả các xã trong
tỉnh. Sau khi kiện toàn xong Hội đồng Nhân dân xã, các xã đã họp bầu ra Ủy ban
Hành chính huyện thay thế cho Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời ra đời lúc
khởi nghĩa.
Ủy ban Hành chính huyện Yên Lãng do ông Hoàng Lương (tức Nguyễn
Lương Hoàng) làm Chủ tịch.
Ủy ban Hành chính huyện Kim Anh do ông Lê Tư Thục làm Chủ tịch, ông
Nguyễn Văn Y và Nguyễn Viết Quế làm Phó Chủ tịch.
Ủy ban Hành chính thị xã Phúc Yên do ông Hoàng Lý Chỉ làm Chủ tịch.
Cũng trong thời gian ngày công tác xây dựng Đảng cũng được củng cố thêm
một bước. Với mục tiêu phấn đấu “mỗi xã một chi bộ, mỗi thôn một tiểu tổ”, nhiều
quần chúng ưu tú được thử thách qua phong trào cách mạng đã được kết nạp vào
Đảng. Giữa năm 1947, do đã có đủ những điều kiện cần thiết và nhằm tăng cường
hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng trước tình hình mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ
huyện Yên Lãng và huyện Kim Anh lần thứ nhất được triệu tập (1). Đại hội của hai
huyện đã kiểm điểm tình hình công tác từ sau khởi nghĩa giành chính quyền tháng
Tám năm 1945, đánh giá kết quả các mặt hoạt động, đồng thời biểu dương những
thành tích mà Đảng bộ và nhân dân đã giành được trong cuộc đấu tranh giữ vững
2(2)

Phúc Yên và Vĩnh Yên tổ chức bầu cử ngày 23-12-1945 vì nhận được chậm lệnh hoãn ngày Tổng tuyển cử (lúc
đầu cuộc Tổng tuyển cử định ngày 23-12-1945 nhưng để chuẩn bị chu đáo hơn, Chính phủ ra lệnh hoãn đến ngày 61-1946).
1()
Đại hội Đảng bộ Yên Lãng họp tại làng Hàn, xã Thanh Lâm, Đại hội Đảng bộ Kim Anh họp ở làng Thanh Nhàn

nay là xã Thanh Nhàn, huyện Sóc Sơn (Hà Nội)

12


và củng cố chính quyền cách mạng, khẳng định những cố gắng của cán bộ, đảng
viên trong việc lãnh đạo quần chúng thực hiện tốt các chỉ thị, nghị quyết, đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm thiếu sót của
công tác phát triển Đảng.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Huyện ủy. Tại Yên Lãng, Ban chấp hành
Huyện ủy gồm 5 người do đồng chí Hồ Ngọc Thu làm Bí thư.
Tại Kim Anh, Ban chấp hành Huyện ủy 5 người do đồng chí Đào Duy Tùng
làm Bí thư.
Sau đại hội Đảng bộ hai huyện, tình hình tiếp tục có những chuyển biến mới.
Về xây dựng Đảng, mỗi huyện đã kết nạp trên 200 đảng viên mới, hầu hết các xã
đã có chi bộ, các thôn có tổ Đảng.
Giữa năm 1948, Đại hội Đảng bộ Yên Lãng, Kim Anh lần thứ hai lại được
triệu tập. Lúc này ở Yên Lãng có 14 chi bộ xã, 4 chi bộ cơ quan, 1 chi bộ dân quân
với 330 đảng viên. Kim Anh có 16 chi bộ xã, 2 chi bộ cơ quan, 1 chi bộ dân quân
với 142 đảng viên chính thức và 243 đảng viên dự bị.
Tại thị xã Phúc Yên, theo quyết định của Tỉnh ủy Phúc Yên, tháng 8-1947
chi bộ xã Phúc Yên được thành lập do đồng chí Hoàng Lý Chỉ làm Bí thư.
Như vậy cho đến cuối năm 1948 tổ chức Đảng đã được củng cố và kiện toàn
trên cả ba mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức trên địa bàn của các huyện Yên Lãng,
Kim Anh, Phúc Yên.
Cùng với việc củng cố hệ thống tổ chức Đảng, xây dựng các cấp chính quyền
cơ sở. Đảng bộ các huyện còn chú trọng công tác xây dựng lực lượng vũ trang, bảo
vệ an ninh xóm làng. Các xã đều có đội dân quân du kích, lực lượng này ngày đêm
tổ chức tuần phòng, bảo vệ làng xóm, mùa màng. Một số hào lý trong chính quyền
cũ chống lại cách mạng đã bị bắt.

Trong hoàn cảnh khó khăn và đầy thiếu thốn sau cách mạng nhân dân khắp
nơi vẫn tích cực hưởng ứng phong trào may áo trấn thủ tặng các chiến sĩ Vệ quốc
đoàn do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động. Tại Phúc Yên, Mặt trận Liên Việt tỉnh
13


đã tổ chức tuần lễ “mùa đông binh sĩ” vào đầu tháng 12-1946. Kết quả sau một
tuần lễ vận động, nhân dân thị xã Phúc Yên ủng hộ tiền và hiện vật trị giá
12.514,54 đồng. Nhân dân xã Kim Hoa ủng hộ 3.640 đồng, hai xã Chu Phan và
Thanh Lâm ủng hộ 80 áo trấn thủ. Món quà ủng hộ tuy nhỏ, nhưng phần nào thể
hiện tấm lòng của người dân với Đảng và Chính phủ.
2. Chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Để sự nghiệp kháng chiến kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung
tâm là củng cố chính quyền nhân dân. Ngay từ những ngày đầu, Đảng đã chú trọng
lãnh đạo, xây dựng nền móng của chế độ dân chủ mới, xóa bỏ toàn bộ tổ chức bộ
máy chính quyền thuộc địa, giải tán các đảng phái phản động...
Cùng với việc tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng chế độ mới
và tổ chức kháng chiến ở miền Nam, Đảng ta đã thực hiện sách lược lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ kẻ thù để phân hoá chúng, tránh tình thế đương đầu cùng một
lúc với nhiều kẻ thù.
Trên cơ sở phân tích âm mưu thủ đoạn của các kẻ thù đối với cách mạng
Việt Nam, Đảng ta xác định: quân Tưởng tìm mọi cách để tiêu diệt Đảng ta, phá
tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng, song kẻ thù chính của nhân dân ta
lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng. Vì
vậy, Đảng và Chính phủ ta đã thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với quân
đội Tưởng và tay sai của chúng ở miền Bắc để tập trung chống Pháp ở miền Nam.
Để gạt mũi nhọn tiến công của kẻ thù vào Đảng, ngày 11-11-1945, Đảng ta
tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò
lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Để phối hợp hoạt động bí mật với công khai,
Đảng để một bộ phận công khai dưới danh hiệu Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở

Đông Dương.
Chúng ta đã hết sức kiềm chế trước những hành động khiêu khích của quân
đội Tưởng và tay sai, tránh để xảy ra xung đột về quân sự, đã ép cung cấp lương
thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng trong khi nhân dân ta đang bị đói, mở
14


rộng Quốc hội thêm 70 ghế cho Việt quốc, Việt cách không qua bầu cử, đưa một số
đại diện của các đảng đối lập này làm thành viên của Chính phủ liên hiệp do Chủ
tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mềm dẻo về thực hiện sách lược nhân
nhượng trên nguyên tắc: nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính
quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập thống nhất, dựa chắc vào khối đại
đoàn kết dân tộc, vạch trần những hành động phản dân hại nước của bọn tay sai
của Tưởng và nghiêm trị theo pháp luật những tên tay sai gây tội ác khi có đủ
bằng chứng.
Những chủ trương sách lược và biện pháp trên đây đã vô hiệu hoá các hoạt
động phá hoại, đẩy lùi từng bước và làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách
mạng của chúng, bảo đảm cho nhân dân ta tập trung lực lượng kháng chiến chống
thực dân Pháp ở miền Nam. Chính quyền nhân dân không những được giữ vững
mà còn được củng cố về mọi mặt.
Đầu năm 1946, các nước đế quốc dàn xếp, mua bán quyền lợi với nhau để
cho thực dân Pháp đưa quân ra miền Bắc Việt Nam thay quân đội của Tưởng. Ngày
28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết ở Trùng Khánh. Theo đó, Pháp nhân
nhượng một số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để
Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Tưởng nhân nhượng với Pháp để rút
quân về nước đối phó với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Việc dàn xếp
giữa hai kẻ thù Pháp và Tưởng được Đảng dự đoán sớm. Chỉ thị "Kháng chiến kiến
quốc" (ngày 25-11-1945) vạch rõ: "trước sau, Trùng Khánh sẽ bằng lòng cho Đông
Dương trở về tay Pháp, miễn là Pháp nhượng cho Tàu nhiều quyền lợi quan trọng".

Tình hình đó đặt Đảng ta trước một sự lựa chọn giải pháp đánh hay hoà.
Phân tích tình thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã
quyết định chọn giải pháp hoà hoãn, dàn xếp với Pháp, vì "vấn đề lúc này, không
phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận định một

15


cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương
cho đúng".
Chọn giải pháp thương lượng với Pháp, Đảng ta nhằm mục đích: buộc quân
Tưởng rút ngay về nước, tránh tình trạng một lúc phải đối đầu với nhiều kẻ thù, bảo
toàn thực lực, tranh thủ thời gian hoà hoãn để chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu
mới, tiến lên giành thắng lợi. Lập trường của ta trong cuộc đàm phán với Pháp
được Ban Thường vụ Trung ương xác định là: độc lập nhưng liên minh với Pháp.
Pháp phải thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của ta: chính phủ, quân đội, nghị viện,
tài chính, ngoại giao và sự thống nhất quốc gia của ta. Đảng ta đã nhấn mạnh, trong
khi mở cuộc đàm phán ta phải "không những không ngừng một phút công việc sửa
soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn phải hết sức xúc tiến
việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp làm nhụt tinh
thần quyết chiến của dân tộc ta".
Thực hiện chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ ta ký
với đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định quy định:
Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính
phủ, quân đội và tài chính riêng nằm trong Liên bang Đông Dương và trong Khối
liên hiệp Pháp. Việc thống nhất ba kỳ của nước ta do nhân dân ta quyết định.. Việt
Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sau 5 năm
phải rút hết về nước; hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam và mở cuộc đàm phán
để đi đến ký hiệp định chính thức.
Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị

Hoà để tiến (ngày 9-3-1946), nêu rõ ý nghĩa quan trọng của việc ký hiệp định với
Pháp nhằm thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng, ngăn ngừa các khuynh hướng sai
lầm "tả" và hữu có thể xảy ra trong đảng viên, cán bộ và nhân dân làm ảnh hưởng
đến việc chấp hành chủ trương của Đảng, đồng thời nhấn mạnh đến việc phải cảnh
giác đề phòng, tỉnh táo chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu nếu Pháp bội ước.

16


Sự thật sau khi đã ký Hiệp định sơ bộ, thực dân Pháp cố tìm cách trì hoãn
cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Pháp để đi đến ký Hiệp định chính thức và sớm
vi phạm Hiệp định. Đảng đã lãnh đạo Chính phủ đấu tranh buộc Pháp phải mở cuộc
đàm phán chính thức với ta ở Pháp.
Để chuẩn bị cho cuộc đàm phán đó, ngày 19-4-1946, một cuộc hội nghị trù
bị ở Đà Lạt, song do Pháp thiếu thiện chí nên hội nghị không đạt được sự thoả
thuận nào.
Với thiện chí và sự kiên trì đấu tranh của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, cuộc hội nghị chính thức giữa ta và Pháp đã họp ở Phôngtennơblô từ
ngày 6-7-1946 đến ngày 10-9-1946. Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là thượng
khách theo lời mời của Chính phủ Pháp cũng đã đến Pari thăm Pháp trong thời gian
này. Cuộc đàm phán chính thức ở Phôngtennơblô cũng không thành do phía Pháp
cố bám giữ lập trường thực dân và trong khi đang đàm phán đã ráo riết thực hiện
âm mưu mở rộng lấn chiếm trên đất nước ta.
Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với các đảng
phái chính trị, các tổ chức quần chúng ở Pháp và đại diện nhiều tổ chức quốc tế.
Người đã nói rõ lập trường hòa bình hữu nghị và nguyện vọng thiết tha độc lập
tự do của nhân dân và Chính phủ Việt Nam. Để tỏ rõ thiện chí và giành thêm
thời gian hòa bình, trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với
Chính phủ Pháp bản Tạm ước (ngày 14-9-1946), thoả thuận một số điều về quan
hệ kinh tế, văn hóa giữa hai nước, đình chỉ xung đột ở miền Nam và sẽ tiếp tục

đàm phán vào tháng 1-1947.
Thiện chí và những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn đàm
phán của Chính phủ ta tuy không đạt mục đích ký hiệp định chính thức, nhưng đã
làm cho nhân dân Pháp hiểu và ủng hộ ta, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến Việt
Nam và hiểu nguyện vọng tha thiết hòa bình của dân tộc Việt Nam. Cũng nhờ đó,
chúng ta đã duy trì một khoảng thời gian hòa bình hiếm có để tiếp tục xây dựng và
phát triển lực lượng về mọi mặt.
17


Theo quy định của Hiệp ước Hoa - Pháp, quân đội Tưởng Giới Thạch phải
rút khỏi miền Bắc Đông Dương ngày 31-3-1946. Trên thực tế, ta phải đấu tranh
kiên quyết; đến cuối tháng 9-1946 chúng mới rút hết. Bọn Việt quốc, Việt cách
hoặc tan rã hoặc bỏ chạy ra nước ngoài. Việc đưa ra ánh sáng vụ Ôn Như Hầu và
làm thất bại âm mưu đảo chính của bọn phản cách mạng tay sai của Pháp tháng 71946 đánh dấu sự phá sản của chúng.
Sau khi ký Tạm ước 14-9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và khủng
bố nhân dân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm ở
miền Bắc nước ta. Đảng nhận định: "Tạm ước 14-9 là nhân nhượng cuối cùng của
Đảng và Chính phủ ta, nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại
đến quyền lợi cao trọng của dân tộc". Mặc dù thực dân Pháp bội ước, nhưng thực tế
lịch sử đã chứng minh tính đúng đắn và cần thiết của các hiệp định này. Chúng ta
hoà để từng bước củng cố nền độc lập vừa mới giành được.
Tranh thủ thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tích cực đẩy mạnh
sản xuất, ổn định đời sống, tích trữ lương thực, phát triển lực lượng vũ trang, xây
dựng các chiến khu, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, chính quyền nhân dân
được củng cố vững chắc hơn, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
được Quốc hội thông qua; tích cực tuyên truyền trong nước và quốc tế về cuộc đấu
tranh chính nghĩa của dân tộc ta. Qua lãnh đạo đấu tranh và xây dựng, Đảng đã lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng. Từ 5.000 đảng viên khi Đảng lãnh đạo Cách
mạng Tháng Tám, đến tháng 12-1946, Đảng ta có trên 20.000 đảng viên. Nội bộ

của Đảng được củng cố, thống nhất, đội ngũ cán bộ của Đảng được đào tạo và phát
triển. Cuộc kháng chiến của quân và dân ta ở miền Nam có điều kiện phát triển
thuận lợi hơn.
Đánh giá về chủ trương đàm phán, nhân nhượng của Đảng và Nhà nước ta
lúc bấy giờ, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ hai của Đảng tháng 2-1951,
Hồ Chí Minh viết: "Việc này cũng làm cho nhiều người thắc mắc và cho đó là
chính sách quá hữu. Nhưng các đồng chí và đồng bào Nam thì lại cho là đúng. Mà
18


đúng thật. Vì đồng bào và đồng chí ở Nam đã khéo lợi dụng dịp đó để xây dựng và
phát triển lực lượng của mình...
Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng
mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân Pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh,
nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời giờ để xây dựng lực lượng
căn bản.
Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc
kháng chiến toàn quốc bắt đầu".
Đối với việc củng cố và phát triển lực lượng, quân và dân ta đã tích cực sẵn
sàng về quân sự và chính trị để đối phó với những bất trắc có thể xảy ra, vì bản chất
của thực dân Pháp không thể thay đổi. Phân tích âm mưu và hành động vi phạm các
Hiệp định đã được ký kết của thực dân Pháp, Đảng đã thấy rõ: "Nhất định không
sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp". Đầu
tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra những công việc khẩn cấp bấy giờ
để chỉ đạo toàn Đảng, toàn dân ta gấp rút thực hiện, nhằm đối phó với cuộc chiến
tranh "chớp nhoáng" của thực dân Pháp.
Lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân, vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc (từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946), Đảng ta đã đưa đất
nước vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát huy thành quả Cách
mạng Tháng Tám, chuẩn bị thực lực cho cuộc kháng chiến chống Pháp.

Thực tiễn lịch sử của thời kỳ này đã đem lại cho Đảng ta nhiều kinh nghiệm
quý báu: Thứ nhất, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng. Mặc dù Đảng rút vào hoạt động
bí mật, nhưng vẫn không ngừng củng cố và phát triển. Trong điều kiện có nhiều
đảng phái tham gia chính quyền, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo nhà nước một cách
khéo léo. Vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định bảo đảm việc giữ vững
bản chất cách mạng của chính quyền nhân dân. Thứ hai, xây dựng khối đoàn kết
toàn dân, dựa vào dân. Phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân ta trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ chính quyền. Chính quyền được xây dựng sau Cách mạng
19


Tháng Tám thực sự của dân, do dân và vì dân. Chính phủ đã thực hiện những chính
sách thiết thực như: bầu cử dân chủ, chính sách ruộng đất, xoá nạn mù chữ... để
nhân dân có thể hưởng những quyền lợi do chế độ mới đem lại, từ đó ủng hộ, tin
tưởng tuyệt đối vào chính quyền, vào Đảng. Thứ ba, lợi dụng triệt để mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù, tập trung mũi nhọn vào kẻ thù chính, nguy hiểm nhất. Giai
đoạn này, chúng ta đã lợi dụng mâu thuẫn (Anh - Pháp, Mỹ -Tưởng, mâu thuẫn
giữa các nhóm trong chính quyền và quân đội Tưởng, mâu thuẫn trong nội bộ thực
dân Pháp) để phân hoá, làm suy yếu các kẻ thù, tranh thủ xây dựng lực lượng và
bảo vệ được chính quyền nhân dân.
Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, bọn đế quốc phản động ra sức ngăn trở,
quấy phá, Đảng kiên quyết lãnh đạo, tổ chức cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 để
nhân dân tự mình chọn lựa bầu những đại biểu chân chính của mình vào Quốc hội,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày
2-3-1946, Quốc hội họp kỳ thứ nhất đã bầu Hồ Chí Minh giữ chức Chủ tịch Chính
phủ và trao quyền cho Người lập chính phủ chính thức - Chính phủ liên hiệp kháng
chiến. Tại kỳ họp thứ hai (tháng 11-1946), Quốc hội đã thông qua Hiến pháp của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ
của mọi công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Nhân dân cũng đã khẩn trương
bầu Hội đồng nhân dân và Hội đồng nhân dân đã bầu Uỷ ban hành chính các cấp.

Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể yêu nước. Mặt trận dân tộc
thống nhất được mở rộng, đưa đến sự ra đời của Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam
(tháng 5-1946) gọi tắt là Liên Việt. Các tổ chức quần chúng được củng cố, mở rộng
thêm: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam... lần
lượt ra đời. Đảng Xã hội Việt Nam được thành lập nhằm đoàn kết những trí thức
yêu nước Việt Nam.
Đảng ta coi trọng việc xây dựng và phát triển công cụ bảo vệ chính quyền
cách mạng như quân đội, công an. Lực lượng vũ trang tập trung được phát triển về
mọi mặt. Cuối năm 1946, lực lượng quân đội thường trực mang tên Quân đội quốc
20


gia Việt Nam có 8 vạn người. Việc vũ trang quần chúng cách mạng, quân sự hoá
toàn dân được thực hiện rộng khắp.
Cùng với việc xây dựng chính quyền nhân dân, Đảng và Chính phủ phát
động thi đua sản xuất; động viên nhân dân tiết kiệm giúp nhau chống giặc đói; thực
hiện bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác của chế độ thực dân; tiến hành tịch
thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất
công một cách công bằng, hợp lý; giảm tô 25%, giảm thuế, miễn thuế cho nông dân
vùng bị thiên tai; chủ trương cho mở lại các nhà máy do Nhật để lại, tiến hành khai
thác mỏ, khuyến khích kinh doanh... Đảng đã động viên nhân dân tự nguyện đóng
góp cho công quỹ hàng chục triệu đồng và hàng trăm kilôgam vàng, nền tài chính
độc lập từng bước được xây dựng.
Đảng đã vận động toàn dân xây dựng nền văn hóa mới, xóa bỏ mọi tệ nạn
văn hóa nô dịch của thực dân, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, phát triển phong trào bình
dân học vụ để chống nạn mù chữ, diệt "giặc dốt". Một năm sau Cách mạng Tháng
Tám đã có 2,5 triệu người biết đọc, biết viết.
Các trường học từ cấp tiểu học trở lên lần lượt được khai giảng. Đảng và
Chính phủ rất coi trọng khai giảng các trường đại học đã có mở thêm trường đại
học mới. "Ngày 10-10-1945 Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 45/SL thành lập một ban

Đại học Văn khoa tại Hà Nội"1 nhằm đào tạo giáo viên văn khoa trung học, và để
nâng cao nền văn học Việt Nam cho xứng đáng một nước độc lập và theo kịp các
nước tiên tiến trên thế giới.
Thắng lợi bước đầu trong cuộc đấu tranh xây dựng nền móng chế độ mới, ổn
định và cải thiện đời sống nhân dân có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nêu rõ rằng, nếu "nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Nhân dân được hưởng quyền tự do dân chủ,
dân sinh càng thêm tin tưởng, gắn bó và quyết tâm bảo vệ chế độ mới. Đó là sức
mạnh để bảo vệ chính quyền cách mạng, giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng, là sức
mạnh để chiến đấu và chiến thắng thù trong giặc ngoài.
21


Đêm 19-12-1946 tiếng súng kháng chiến nổ ra ở thủ đô Hà Nội. Cùng với cả
nước quân và dân Phúc Yên, Yên Lãng, Kim Anh nhất tề đứng lên chiến đấu theo
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện lâu dài và dựa vào sức mình là chính, do Trung ương
Đảng đề ra.
Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình trong nước, chính quyền cách
mạng Phúc Yên đã khẩn trương chỉ đạo quân dân các xã thực hiện ngay một số
nhiệm vụ do Trung ương Đảng, Tỉnh ủy giao cho. Đó là tổ chức đón tiếp, giúp đỡ
đồng bào tản cư các cơ quan về sơ tán. Tính đến cuối năm 1947, tỉnh Phúc Yên đã
đón tiếp 14.185 người sơ tán từ Hà Nội và các tỉnh có chiến sự, trong đó huyện
Kim Anh đón được 6.030 người, Yên Lãng 5.000 người. Hai xã có nhiều thành tích
đón tiếp đồng bào tản cư là Tiền Phong, Cao Minh. Xã Tiền Phong còn giúp đồng
bào tản cư 15 tấn gạo, 80 mẫu ruộng, vinh dự được nhận bằng khen của UB KCHC
Bắc Bộ. Hai xã Đồng Tâm và Hiệp Lực (huyện Yên Lãng) có vùng bãi sông Hồng
dài, rộng, cây sậy mọc um tumg đã trở thành cơ sở an toàn vững chắc cho cán bộ,
du kích các địa phương trong vùng địch tạm chiếm, bên tả ngạn sông Hồng trú
chân đi về hoạt động, vùng bãi ven sông Hồng của hai xã còn thường xuyên được

chọn là điểm tập kết của các đơn vị bộ đội. Bất cứ lúc nào lòng dân nơi đây cũng
sẵn sàng ủng hộ bộ đội đánh giặc. Nhiều khi chỉ trong một giờ đồng hồ từ bờ tre
Hiệp lực, Đồng Tâm hàng trăm thuyền nan tách bến chở bộ đội qua sông.
Một nhiệm vụ cần kíp nữa trong năm 1947 cũng được triển khai là phong
trào tiêu thổ kháng chiến ở vùng thị xã Phúc Yên và trên các con đường giao thông
lớn. Theo kế hoạch chung, với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, nhân dân Phúc Yên, Yên Lãng, Kim Anh
tiến hành cuộc tiêu thổ kháng chiến một cách kiên quyết, rộng rãi, phá sập một số
cầu cống trên đường quốc lộ 2, phá đường sắt Hà Nội - Yên Bái, đắp ụ đất trên đê
sông Hồng, sông Cà Lồ, dựng chướng ngại vật ở các bến bãi lớn để đối phó với âm
mưu, hành động của địch định đổ bộ bằng đường sông. Các nhà lớn ở thị xã, thị
22


trấn, các nhà giàu có quê ở nông thôn… đều bị phá sập hoặc hạ cấp. Tính đến tháng
4-1948 ta đã phá hủy gần 100 nhà công, trên 300 nhà tư, đào đắp hàng chục km
cũng như hàng trăm ụ đất lớn nhỏ trên các tuyến đường chính(1).
Điều đáng ghi nhận là trong việc thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến,
nhiều cán bộ đảng viên đã gương mẫu dỡ nhà mình trước, chính việc làm đó làm
gương cho nhiều quần chúng, nhà giàu noi theo, biểu lộ tinh thần hăng hái kháng
chiến và lòng hy sinh cao cả vì nền độc lập của dân tộc.
Cùng với nhiệm vụ tiêu thổ kháng chiến, cuộc vận động xây dựng làng chiến
đấu đánh giặc cũng được nhân dân các xã hưởng ứng sôi nổi. Cuộc vận động này
bắt đầu từ tháng 3-1947. Lúc đầu chủ trương của tỉnh Phúc Yên đề ra là mỗi huyện
xây dựng từ 1 đến 2 làng mẫu. Các làng Yên Nhân (Tiền Phong), Thạch Đà (xã
Thạch Đà) huyện Yên Lãng, Đại Đồng (Kim Anh) được chọn làm trước. Ngoài
việc rào kín, còn đào hào xung quanh làng; các ngả đường trong làng đều có hào
chữ chi chạy liên hoàn, có hầm bí mật, hầm cất giấu tài sản, hầm tránh máy bay…
Các đường ngang ngõ hẻm đều được làm cổng vững chắc. Sang năm 1948 làng
chiến đấu được nhân rộng nhiều hơn, trong cuộc vận động này nhân dân các xã đã

đóng góp hàng chục vạn ngày công. Riêng Yên Nhân (xã Tiền Phong) là một trong
hai làng chiến đấu kiểu mẫu của toàn tỉnh, được cá huyện, xã bạn lần lượt đến tham
quan học kinh nghiệm(2).
Cuộc vận động tiêu thổ kháng chiến cũng như xây dựng làng chiến đấu đã
trở thành cuộc vận động chính trị to lớn và sâu rộng trong nhân dân, thể hiện tinh
thần quyết tâm kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân tỉnh Phúc Yên.
Vừa đẩy mạnh công tác chuẩn bị kháng chiến, các Đảng bộ và chính quyền
huyện, thị xã vừa tập trung vào nhiệm vụ xây dựng dân quân du kích. Thực hiện
thông tri của Bộ Quốc phòng, tháng 2-1947, Ủy ban hành chính các cấp quy định
nhiệm vụ cụ thể cho du kích thoát ly sản xuất và dân quân tự vệ không thoát ly sản
1()

Những sự kiện… TL đã dẫn, trang 19.
Trong cuộc vận động này làng Yên Nhân đã huy động 12.216 công, đào đắp 18.843 m 3 đất, 43 đường giao
thông ngầm, 22 hầm bí mật, 52 hố chông lớn, 130 cổng rong tre, 193 ụ chiến đấu.
2()

23


xuất. Tháng 3-1947, tỉnh Phúc Yên thống nhất tổ chức tự vệ chiến đấu thành dân
quân du kích, đồng thời thành lập các cơ quan quân sự từ tỉnh đến cơ sở (tỉnh đội,
huyện đội, xã đội).
Tháng 5-1947, Hội nghị dân quân toàn quốc lần thứ nhất họp, nhằm thống
nhất việc tổ chức dân quân tự vệ trên cả nước. Hồ Chủ tịch đã gửi thư khẳng định:
“Dân quân, tự vệ và du kích là lực lượng của toàn dân, là một lực lượng vô địch, là
một bức tường sắt của Tổ quốc. Vô luận kẻ thù hung bạo như thế nào, hễ đụng vào
lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng tan rã”.
Nhờ có chủ trương và biện pháp tích cực xây dựng lực lượng vũ trang, số
lượng dân quân, tự vệ và du kích ngày càng phát triển. Năm 1948, mỗi xã có một

trung đội du kích, quân số du kích toàn tỉnh là 3.573 người thì đầu năm 1949 nhiều
xã có một đại đội, quân số toàn tỉnh 5.000 người.
Đến đây, dân quân tự vệ và du kích đã được xây dựng rộng khắp, có tổ chức
chỉ huy chặt chẽ, trở thành một bộ phận trong lực lượng vũ trang do cơ quan quân
sự chỉ huy, dưới sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của cấp ủy Đảng địa phương.
Cùng với việc xây dựng tổ chức dân quân, Tỉnh ủy và các Đảng bộ huyện,
chi bộ thị xã Phúc Yên đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố các đơn vị bộ đội địa
phương. Tháng giêng 1947, các trung đội Quyết tử quân lần lượt ra đời ở các
huyện, sớm nhất là Trung đội huyện Đông Anh. Tháng 2-1947 trên cơ sở các trung
đội Quyết tử quân và Tự vệ chiến đấu thị xã, Phúc Yên tổ chức hai đại đội tập
trung: đại đội Hoàng Văn Thụ và đại đội Lý Chính Thắng và trung đội vệ binh Lý
Thường Kiệt làm nhiệm vụ bảo vệ các cơ quan tỉnh. Tháng 3-1947, do hoàn cảnh
khách quan, trung đội Lý Thường Kiệt và đại đội Lý Chính Thắng phải giải thể.
Một số cán bộ chiến sĩ bổ sung vào đại đội Hoàng Văn Thụ, số khác tăng cường về
xã làm nhiệm vụ xây dựng dân quân du kích. Cuối năm 1948, để chủ động đề
phòng cuộc tấn công thu đông của địch, Phúc Yên khắc phục khó khăn xây dựng
thêm đại đội Trần Quốc Tuấn.

24


Tháng 8-1949, quán triệt chủ trương “xây dựng bộ đội địa phương, phát triển
dân quân du kích” của Trung ương, Phúc Yên xây dựng, củng cố 3 đại đội bộ đội
địa phương tỉnh: đại đội Trần Quốc Tuấn, đại đội Quang Trung, đại đội Địa Lôi và
một trung đội dự bị. Ở cấp huyện, cũng thành lập một trung đội bộ đội có nhiệm vụ
làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh du kích ở địa bàn huyện.
Về trang bị vũ khí, ngoài những loại súng trường kiểu cũ thu của địch, tháng
9-1947 UBKCHC Phúc Yên đã xây dựng xưởng quân giới tỉnh vừa sửa chữa vũ khí
vừa sản xuất thêm vũ khí mới như lựu đạn, địa lôi, súng kíp trang bị cho lực lượng
vũ trang địa phương.

Việc cung cấp cho bộ đội lúc này chủ yếu do nhân dân địa phương đảm
nhiệm. Bộ đội đóng quân ở đâu được nhân dân ở đó cung cấp lương thực, thực
phẩm, áo quần cũng chủ yếu do nhân dân đóng góp. Để giảm một phần đóng góp
của nhân dân, các đơn vị đều tổ chức những trại nông binh cho bộ đội khai phá đất
hoang tăng gia sản xuất tự túc một phần lương thực, thực phẩm. Tính đến tháng 81948 toàn tỉnh có 5 trại tăng gia, với 836 mẫu ruộng, 794 trâu bò và hơn 500 cây ăn
quả. Bên cạnh đó nhiệm vụ huấn luyện cho bộ đội cũng được chú trọng. Các khoa
mục huấn luyện đều sát với trình độ của bộ đội, nhất là các động tác cơ bản cá nhân
chiến đấu. Giữa các đợt luyện quân, để phát huy kết quả học tập, tỉnh còn tổ chức
đưa bộ đội, du kích đến những địa bàn có chiến sự như Hạ Trì (Sơn Tây) để các
chiến sĩ làm quen với hoàn cảnh chiến đấu.
Trong điều kiện khó khăn gian khổ các đơn vị bộ đội địa phương và dân
quân du kích đã được xây dựng và đứng vững trên địa bàn, làm nòng cốt trong
nhiệm vụ củng cố hậu phương chiến lược, góp phần cùng quân dân cả nước làm
thất bại bước đầu chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp.
Thu đông năm 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công lớn lên Việt Bắc, địa
bàn tỉnh Phúc Yên là nơi địch sẽ hành quân qua. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy
phối hợp chiến đấu với quân dân Việt Bắc, quân dân Phúc Yên đã anh dũng chặn

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×