Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

KHÓA LUẬN hoạt động đối ngoại nhân dân của liên hiệp các tổ chức hữu nghị việt nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.38 KB, 115 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động đối ngoại nhân dân hiện nay đóng vai trò hết sức quan
trọng trong công tác thông tin đối ngoại quốc gia, là một trong ba kênh ngoại
giao trụ cột bên cạnh đối ngoại Đảng và ngoại giao Nhà nước. Trong thời
chiến, nhà nước thực hiện công tác đối ngoại nhân dân nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình ở tất cả các nước trên thế giới.
Hiện tại, đối ngoại nhân dân lại nhằm giúp các nước đoàn kết, gắp bó và tin
tưởng lẫn nhau hơn thông qua trao đổi thông tin văn hóa, chuyển giao khoa
học kỹ thuật, cùng hợp tác toàn diện vì sự tiến bộ và phát triển của đất nước.
Với vai trò là tổ chức chính trị - xã hội chuyên trách về công tác vận
động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thế giới đoàn kết, hữu nghị với nhân dân
Việt Nam. Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam được thành lập vào tháng
11 năm 1950. Đây là tổ chức đối ngoại nhân dân đa phương đầu tiên được
Đảng ta thành lập để hoạt động chuyên trách trong lĩnh vực hòa bình, góp
phần gắn liền cuộc đấu tranh vì hòa bình của nhân dân ta với sự nghiệp bảo vệ
hòa bình của nhân dân toàn thế giới.
Trong quá trình hoạt động, Liên hiệp cùng các tổ chức nhân dân khác
vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân đấu tranh cho hòa bình và phát triển,
mở rộng quan hệ đoàn kết, hữu nghị, thúc đẩy hợp tác giữ nhân dân Việt Nam
với nhân dân các nước và với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Nhiều
hoạt động thiết thực được tổ chức với các đoàn ra, đoàn vào, các buổi tiếp
xúc, gặp gỡ là cơ hội để bạn bè quốc tế có điệu kiện hiểu hơn về Việt Nam,
qua đó tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với các nước làng giềng, các nước
trong khu vực, các nước có quan hệ truyền thống truyền thống. Thông qua
các hoạt động đó, Liên hiệp còn góp phần vào giải quyết những vấn đề trọng
tâm liên quan tới biên giới, biển đảo và quan hệ hợp tác với các nước.
Trải qua 65 năm thực hiện công tác đối ngoại nhân dân, tổ chức và
lực lượng của Liên hiệp đã không ngừng được củng cố và phát triển; hoạt



động của Liên hiệp và các tổ chức thành viên được triển khai hiệu quả và đổi
mới, đạt nhiều thành quả quan trọng; vai trò của Liên hiệp ngày càng được
nâng cao. Việc đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của các tổ chức thành viên ở
Trung ương và địa phương, bao gồm: Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam,
Ủy ban Công tác về các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, Ban Điều phối
viện trợ nhân dân (PACCOM) và các Hội Hữu nghị với các nước ở từng khu
vực Á – Phi, khu vực châu Mỹ, khu vực châu Âu… đã và đang khẳng định
vai trò quan trọng của Liên hiệp trong công tác đối ngoại nhân dân hiện nay.
Do tính chất quan trọng trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và
toàn diện về “Hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam” có ý nghĩa cấp thiết cả về lí luận và thực tiễn đối với nước ta.
Những kết luận khoa học rút ra từ quá trình nghiên cứu sẽ góp phần thiết thực
vào việc hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại nhân dân của Đảng và
Nhà nước trong thời kỳ mới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoạt động đối ngoại nhân dân và hoạt động của Liên hiệp các tổ chức
hữu nghị Việt Nam là đề tài đang được quan tâm nghiên cứu. Nhiều bài viết,
bài nghiên cứu về đề tài này được đăng tải trên các tạp chí, sách báo khác
nhau như Thông tấn xã Việt Nam, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam, Tạp
chí Thông tin đối ngoại…; cùng với đó, các phóng sự, phim tài liệu về hoạt
động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp được xây dựng và phát sóng trên một
số kênh của Đài truyền hình Việt Nam và lưu trữ làm tư liệu.
Có thể thấy, các công trình, bài viết về chủ đề hoạt động đối ngoại
nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam đã tập trung nghiên
cứu sâu rộng và chi tiết về công tác đối ngoại nhân dân của Liên hiệp nói
chung và các tổ chức, các Hội hữu nghị Trung ương và địa phương nói riêng.
Tuy nhiên, về tổng quan, vẫn còn thiếu những đề tài nghiên cứu vừa mang
tính chuyên sâu lại toàn diện, tiến hành khảo sát những hoạt động cụ thể của
2



Liên hiệp hiện nay để có những đánh giá chính xác và khách quan nhất. Mặt
khác, số chuyên gia, nhà nghiên cứu tham gia vào công tác này còn hạn chế,
chủ yếu là cán bộ là đối ngoại nhân dân và cán bộ của Liên hiệp. Do vậy,
công tác đối ngoại nhân dân và hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp
các tổ chức hữu nghị Việt Nam là một lĩnh vực mới, chưa được khai thác triệt
để.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu cụ thể hoạt động đối ngoại của Liên
hiệp là cần thiết để thấy rõ những thành tựu và hạn chế, từ đó đưa ra những
giải pháp thiết thực cho công tác đối ngoại nhân dân của Liên hiệp và các tổ
chức nhân dân khác. Tuy vậy, tài liệu tham khảo về đề tài này chủ yếu là các
bài nghiên cứu, các thống kê từ các cơ quan liên quan do vậy nó còn rất hạn
chế đối với đọc giả. Thông tin từ nguồn chính thức chưa thể đáp ứng đầy đủ
nhu cầu nghiên cứu và tìm hiểu của những cá nhân, tổ chức có liên quan.
Hiện nay, nghiên cứu về hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp
có cuốn sách “Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam – quá trình hình
thành và phát triển”. Cuốn sách là sự tổng hợp đầy đủ hoạt động của Liên
hiệp từ khi thành lập đến nay, cung cấp cho người đọc thông tin về quá trình
phát triển của Liên hiệp.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu những khái niệm và hoạt động cụ thể của
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, đề tài tập trung làm rõ thực tiễn
hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp từ sau Đại hội IV đến nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của khóa luân gồm
3 phần:

3



Thứ nhất, khóa luận đưa ra cái nhìn tổng quan về đối ngoại nhân dân,
công tác đối ngoại nhân dân; quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
về đối ngoại nhân dân và quá trình thực hiện công tác này của Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị Việt Nam.
Thứ hai, khóa luận làm rõ thực trạng, thành tựu, hạn chế của các cơ
quan, tổ chức đang thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp từ
sau đại hội IV ( từ năm 2008) đến nay.
Thứ ba, khóa luận nhận định những vấn đề còn tồn tại trong công tác
đối ngoại nhân dân, từ đó đưa ra giải pháp nhằm tăng cường hoạt động đối
ngoại nhân dân của Liên hiệp trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động đối ngoại nhân dân của
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian: khóa luận xác định phạm vi nghiên cứu từ 2008
đến nay (từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
Việt Nam lần thứ IV năm 2008).
- Phạm vi không gian: các cơ quan, tổ chức của Liên hiệp gồm có:
Quỹ Hòa bình và Phát triển Việt Nam, Ủy ban Công tác về các tổ chức phi
chính phủ nước ngoài, Ban Điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM) và các
Hội Hữu nghị với các nước ở Trung ương và các Hội hữu nghị ở địa phương.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, chủ trương, chính sách, đường
lối của Đảng và Nhà nước ta về đối ngoại nhân dân và công tác đối ngoại
nhân dân.
4



Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp duy vật biện chứng.
- Phương pháp lịch sử kết hợp với phươg pháp logic nhằm xâu chuỗi
các sự kiện theo các mốc thời gian cụ thể và khoa học.
- Phương pháp chọn lọc, phân loại, phân tích và xử lý thông tin đã
thu thập được; đảm bảo tạo nên thông tin chính xác, đa dạng.
- Nghiên cứu, tham khảo các nguồn tài liệu, sách báo khác nhau kết
hợp với tổng hợp thông tin.
- Kết hợp giữa phương pháp so sánh, đối chiếu giữa tài liệu, chính
sách, chỉ thị và thực tiễn hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp với các
phương pháp phân tích, tổng hợp để đạt hiệu quả tối đa.
6. Đóng góp của khóa luận
Đề tài cung cấp những số liệu, tình hình mới nhất trong hoạt động đối
ngoại nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam hiện nay, đặc
biệt là từ sau Đại hội IV và phương hướng hoạt động của Liên hiệp trong thời
gian tới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung khóa luận được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động đối ngoại
nhân dân của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đối ngoại nhân dân của Liên hiệp
các tổ chức hữu nghị Việt Nam từ năm 2008 đến nay.
Chương 3: Những vấn đề đặt ra và giải pháp tăng cường hoạt động
đối ngoại nhân dân của LHCTCHNVN hiện nay

5


6



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
CỦA LIÊN HIỆP CÁC TỔ CHỨC HỮU NGHỊ VIỆT NAM

1.1.
Một số khái niệm cơ bản về hoạt động đối ngoại nhân dân
1.1.1. Khái niệm Đối ngoại nhân dân và nội dung công tác đối ngoại nhân

dân.
Đối ngoại, đối ngoại nhân dân và công tác đối ngoại nhân dân hiện
nay là những khái niệm mở, mọi tổ chức và cá nhân đều có thể là chủ thể
trong hoạt động đối ngoại này. Ngày nay, khái niệm “đối ngoại” đã không còn
xa lạ đối với nhiều người, đặc biệt khi quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng và
đi vào chiều sâu, quan hệ chính trị quốc tế ngày càng có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới mọi mặt đời sống.
- Chính sách đối ngoại của một quốc gia bao gồm các mục tiêu, biện
pháp mà quốc gia đó theo đuổi thực hiện trong quá trình quan hệ với các quốc
gia hoặc với chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế, nhằm mục đích thực hiện
lợi ích quốc gia được xác định trong từng thời kỳ lịch sử.
-

Đường lối đối ngoại là phương hướng một quốc gia theo đuổi

mang tính chất chỉ đạo lâu dài trong hoạt động đối ngoại.
- Hoạt động đối ngoại là sự thực hiện chính sách đối ngoại, là quá
trình dể đưa chính sách đối ngoại vào thực tiễn, nói cách khác chính sách đối
ngoại chỉ được thực hiện thông qua các hoạt động đối ngoại.

Có thể thấy, khái niệm “đối ngoại” bao hàm nhiều nội dung, nhiều
lĩnh vực nhưng có chung một mục đích, như Chủ tịch Hồ Chí Minh định
7


nghĩa một cách giản dị: “Làm đối ngoại là làm cho nước mình ít kẻ thù hơn
hết và nhiều đồng minh hơn hết”. Thông thường, hình thức đối ngoại được
thực hiện trên hai kênh chính. Kênh một là thúc đẩy hợp tác giữa các chính
phủ, các nhà nước. Kênh hai là trao đổi dân gian, qua học thuật, các tổ chức
phi chính phủ, các cá nhân. Hai kênh này luôn được thực hiện song song cùng
nhau, có tác động tương dộ, bổ sung lẫn nhau, nhằm phát huy và đem lại hiệu
quả cao nhất.
Thế giới và Việt Nam hiện tại có nhiều nhà ngoại giao đã nghiên cứu
và đưa ra những khái niệm về đối ngoại nhân dân nói chung và công tác đối
ngoại nhân dân của từng nước nói riêng. Hoạt động đối ngoại nhân dân đang
góp phần tích cực vào cải thiện quan hệ quốc tế. Nhiều quốc gia trên thế giới
đã và đang sử dụng một cách linh hoạt, khéo léo cách đối ngoại này bởi hiệu
quả đem lại là vô cùng lớn.
Trong công trình nghiên cứu về đối ngoại và ngoại giao của mình,
Các Mác không đưa ra một định nghĩa cụ thể về đối ngoại nhân dân. Tuy
nhiên, theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác, quần chúng nhân dân làm ra lịch sử. Lịch sử xã hội là lịch sử của con
người do chính con người tạo ra thông qua hoạt động tồn tại và chủ yếu là
hoạt động sáng tạo của mình. Quan hệ giữa các dân tộc, quốc gia bắt đầu từ
sự trao đổi sản phẩm thừa giữa các bộ lạc và trải qua các thời kỳ lịch sử mở
rộng về không gian và lĩnh vực (buôn bán, giao lưu hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau và hòa bình, giao lưu văn hóa…).
Trong một nước dân là gốc. Đường lối chính trị và chính sách đối nội,
đối ngoại của chính phủ nước đó có đáp ứng được nhu cầu, lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân thì mới được nhân dân chấp nhận, thực hiện và mới có

hiệu quả. Thái độ của nhân dân có tác động quyết định đối với sự tồn tại và
khả năng hoạt động của chính phủ.

8


V.I. Lênin từ nhận thức về vai trò của nhân dân ngày càng tăng trong
lịch sử đã đi đến kết luận về ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của các dân tộc
đối với chính sách đối ngoại của các quốc gia. Trong quá trình hoạt động cách
mạng, Lênin rất coi trọng công tác vận động quốc tế ủng hộ cách mạng và
nhân dân nước Nga, đặc biệt là vận động nhân dân, các cá nhân và tổ chức
chính trị - xã hội các nước. Sau Cách mạng tháng Mười năm 1917, Lênin đã
cùng với Đảng và Nhà nước Xô viết, các đảng anh em ở các nước vận động
phong trào nhân dân rộng lớn ủng hộ và bảo vệ chính quyền Xô viết. Hoạt
động đối ngoại nhân dân (ngoại giao nhân dân) của nước Nga Xô viết và sau
đó là Liên Xô đã góp phần quan trọng thực hiện các nguyên tắc đối ngoại của
Nhà nước Xô viết, chủ yếu là nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản và nguyên
tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau.
Ở Hoa Kỳ, đối ngoại nhân dân được gọi là “ngoại giao công chúng” –
Public Diplomacy (hoặc “ngoại giao nhân dân”). Ngoại giao nhân dân Hoa
Kỳ là công cụ để giải thích chính sách đối ngoại và khuyên khích nhân dân
các nước khác hiểu hơn về mình thông qua phát thanh truyền hình quốc tế. Nó
bao gồm các phương diện quan hệ quốc tế vượt xa ngoại giao truyền thống;
việc các chính phủ gây dựng dư luận ở nước khác; sự tương tác giữa các
nhóm tư nhân và nhóm lợi ích ở một nước với các nhóm tương tự ở nước
khác và dòng chảy xuyên quốc gia của thông tin và tư tưởng. Qua ngoại giao
nhân dân, Hoa Kỳ có thể trực tiếp nói chuyện với các quốc gia trên thế giới và
tranh thủ sự nỗ lực dài hạn nhằm thúc đẩy tự do, thịnh vượng và ổn định trên
khắp thế giới, xóa bỏ những hiểu lầm về hình ảnh của quốc gia mình.
Ở Anh, khác với Hoa Kỳ, họ không cho rằng “đối ngoại nhân dân” là

“ngoại giao công chúng”. Chuyên gia về đối ngoại nhân dân Mark Leonard
cho rằng: “đối ngoại nhân dân” một phần truyền tải thông tin và truyền bá
những hình ảnh tích cực của quốc gia dân tộc, một phần xây dựng những quan
hệ lâu dài nhằm kiến tạo mối trường khả dĩ cho chính sách của nhà nước.
9


Ở Hàn Quốc, hiện tượng “Làn sóng Hallyu” (Làn sóng Hàn Quốc) có
sức lan tỏa khắp các khu vực. Thông qua phim ảnh, âm nhạc và thời trang,
Hàn Quốc đang dễ dàng đưa văn hóa của mình thâm nhập vào đời sống của
người dân các nước khác. Các quốc gia trên thế giới gọi đây là ngoại giao
nhân dân thông qua văn hóa, gọi tắt là ngoại giao văn hóa. Hàn Quốc là một
trong ít các quốc gia thực hiện hiệu quả phương thức ngoại giao này.
Trung Quốc trong chiến lược “phát triển hòa bình” (năm 2003) đã xác
định ưu tiên phát triển sức mạnh mềm của quốc gia trên phạm vi toàn thế giới,
đặc biệt là đối ngoại nhân dân. Con đường “đối ngoại nhân dân” của Trung
Quốc bao gồm việc thực thi chính sách mở cửa đối ngoại toàn diện, triển khai
giao lưu mậu dịch, hợp tác kinh tế và kỹ thuật cũng như giao lưu khoa học và
văn hóa với các nước và khu vực trên thế giới trên nguyên tắc bình đẳng cùng
có lợi, thúc đẩy phát triển mọi mặt. Hoạt động đối ngoại nhân dân của nước
này được thực hiện bằng việc thu hút sự chú ý và thuyết phục dư luận nước
ngoài thông qua các phương tiện như hình ảnh, uy tín, năng lực giao tiếp, mức
độ cởi mở xã hội, sức hấp dẫn của nền văn hóa.
Trong guồng quay chung của ngoại giao thế giới và sự thay đổi chính
sách đối ngoại nhân dân của các nước, Việt Nam đang có sự vận động nhanh
chóng và được tập trung thực hiện trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Hoạt
động đối ngoại nhân dân đã diễn ra sôi nổi và phong phú với nhiều hình thức
và nội dung khác nhau, cùng phục vụ cho mục đích chung là phát triển và bảo
vệ đất nước. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã đạt được nhiều kết quả to lớn,
góp phần vào thành công chung của đất nước trên nhiều lĩnh vực như chính

trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học công nghệ.
Có thể thấy, hiện nay “đối ngoại nhân dân” được sử dụng với nhiều
tên khác nhau ở nhiều quốc gia như “ngoại giao nhân dân”, “ngoại giao công
chúng”, “ngoại giao văn hóa”. Tuy nhiên, chúng vẫn có những sự khác biệt
nhất định.
10


“Ngoại giao nhân dân” là sự trao đổi, quan hệ ngoại giao giữa các
quốc gia, chính phủ một cách chính thức và có tính hình thức. Ngày nay, mọi
hoạt động của các nguyên thủ quốc gia, các nhà ngoại giao đều được công
khai trước báo chí, truyền hình. Sự minh bạch hóa này đi liền với việc dân
chủ hóa trong quan hệ quốc tế, tức là người dân có quyền và cơ hội can thiệp
mạnh mẽ, sâu rộng vào các hoạt động ngoại giao của quốc gia mình. Trong
bối cảnh mới, các nhà ngoại giao chính thống không thể toàn quyền quyết
định và thực thi chính sách đối ngoại. Nguyên Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc
Kofi Annan từng phát biểu rằng: “Nếu tôi không nhận được sự ủng hộ của các
chính phủ, tôi sẽ tìm kiếm sự ủng hộ của người dân. Người dân sẽ lay chuyển
chính phủ”.
“Ngoại giao công chúng” là hoạt động ngoại giao bên cạnh ngoại giao
chính phủ, vượt qua tầm tác động lẫn nhau của chính phủ, nhằm vào công
chúng nước khác. “Ngoại giao công chúng” nhằm xử lý thái độ của công
chúng một nước đối với những ảnh hưởng do việc hình thành và thực thi
chính sách ngoại giao của chính phủ một nước khác. Hình thức ngoại giao
này đang vượt khỏi phạm vi ngoại giao truyền thống, bao gồm sự khám phá
và tận dụng của chính phủ một nước đối với dư luận của các nước khác, sự
tác động lẫn nhau giữa tập đoàn lợi ích của một nước đối với dư luận nước
khác, sự tác động lẫn nhau giữa tập đoàn lợi ích của một nước với tập đoàn
lợi ích nước khác ngoài chính phủ.
“Ngoại giao văn hóa” là “sức mạnh mềm” phục vụ cho lợi ích quốc

gia. Vị thế của văn hóa trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia được xác nhận
và coi trọng, văn hóa được coi là một “thủ đoạn” của ngoại giao. Ngoại giao
văn hóa rất đa dạng, là lĩnh vực đặc biệt của hoạt động ngoại giao liên quan
đến việc sử dụng văn hóa như là đối tượng và phương tiện nhằm đạt được
những mục tiêu cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt
đẹp của đất nước, quảng bá văn hóa và ngôn ngữ quốc gia trên thế giới. Ngoại
giao văn hóa đồng thời là một lĩnh vực liên quan đến việc thiết lập, phát triển
11


và duy trì quan hệ với nước ngoài bằng công vụ văn hóa, nghệ thuật và giáo
dục. Ngoại giao văn hóa có thể được hiểu là lĩnh vực ngoại giao liên quan đến
việc thiết lập, phát triển và duy trì mối quan hệ với nước ngoài bằng công cụ
văn hóa, nghệ thuật và giáo dục. Đây cũng là quá trình hướng ra bên ngoài
một cách chủ động mà ở đó, các thể chế quốc gia, các hệ tư tưởng, đặc trưng
văn hóa được quảng bá trên diện song phương cũng như đa phương.
“Đối ngoại nhân dân” là một hình thức thực hiện quan hệ đối ngoại
do các tổ chức hoặc cá nhân (thuộc nhiều lĩnh vực) tiến hành, không mang
tính chất chính thức của chính phủ các nước.
Như vậy, “đối ngoại nhân dân” có thể hiểu là sự trao đổi, giao lưu
giữa các tổ chức, cá nhân, theo một cách chính thức hoặc không chính thức.
“Đối ngoại nhân dân có thể được thực hiện bởi nhà nước và các tổ chức phi
chính phủ, các cá nhân. Hiện nay, đối ngoại nhân dân là hoạt động không thể
thiếu đối với quốc gia, nó đang dân khẳng định sức mạnh và tầm quan trọng
của mình. Chính vì vậy, với nước ta, đây là một trong ba chiếc chân kiềng đối
ngoại vững chắc (cùng đối ngoại Đảng và đối ngoại Nhà nước).

1.1.2. Mục đích, nhiệm vụ của hoạt động đối ngoại nhân dân trong công

tác đối ngoại hiện nay.

• Mục đích
Mọi hoạt động đối ngoại đều nhằm mục đích chung là bảo vệ Tổ
quốc, duy trì hòa bình, giúp cho bạn bè thế giới hiểu hơn về mình. Hoạt động
đối ngoại nhân cũng không ngoại lệ. Đối ngoại nhân dân giúp nhà nước thiết
lập và khôi phục quan hệ song phương, đa phương, nó bổ sung cho ngoại giao
chính thức của nhà nước để phục vụ lợi ích của quốc gia.
Làm đối ngoại nhân dân là làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ đất
nước, con người Việt Nam, chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà
nước ta, tranh thủ thiện cảm, sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân các nước
12


đối với công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân
dân ta. Đồng thời, tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân các nước trên thế giới,
các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế về vốn, chuyển giao công nghệ,
kinh nghiệm quản lý kinh tế và quản lý xã hội, đào tạo cán bộ…
Bên cạnh đó, còn làm cho nhân dân ta hiểu rõ đất nước và con người
các nước khác, tăng cường tình hữu nghị, mở rộng quan hệ hợp tác với nhân
dân các nước trên thế giới.
Bày tỏ sự đoàn kết, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của các dân
tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và giải quyết những vấn đề có
tính toàn cầu như loại trừ vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt khác,
phòng chống bệnh AIDS, bệnh hiểm nghèo, bảo vệ môi trường… Đấu tranh
chống những quan điểm, ý đồ và hành động xấu của một số người và tổ chức
nước ngoài đối với nước ta.
Tham gia tích cực góp phần duy trì và đổi mới hoạt động của các tổ
chức quốc tế mà nước ta là thành viên phù hợp với tình hình mới của thế giới.
Ngoại giao nhân dân cũng nhằm hỗ trợ các lĩnh vực khác như khoa
học giáo dục, văn hóa, kinh tế cùng phát triển chứ ko riêng mục đích chính trị
căn bản. Đối ngoại nhân dân cũng có khi bao gồm cả ngoại giao kinh tế, ngoại

giao văn hóa. Thông qua các hoạt động giao lưu; hội thảo; những cuộc gặp gỡ
song phương, đa phương; những chuyến viếng thăm của các đoàn nhân dân
giữa các dân tộc. Các nước có thể trao đổi tri thức, khoa học công nghệ, tăng
cường tình hữu nghị. Việc phát triển quan hệ với các cá nhân, nhân sĩ nước
ngoài, các tổ chức chính trị - xã hội, phi chính phủ, hội nghề nghiệp, quốc gia,
khu vực và quốc tế phải có lợi cho các mục đích nói trên.


Nhiệm vụ
Để đạt được các mục đích nêu trên, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị

Việt Nam và các tổ chức thành viên ở Trung ương và địa phương đã đề ra

13


những nhiệm vụ chính trong hoạt động đối ngoại nhân dân của mình trong
thời gian tới, cụ thể:
Tiếp tục duy trì, củng cố các đối tác truyền thống; chủ động thiết lập
và phát triển quan hệ với các đối tác mới phù hợp nhằm phát huy tinh thần
đoàn kết quốc tế, quan hệ hữu nghị và hợp tác, ủng hộ Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc; tham gia và đóng góp tích cực
trong các phong trào nhân dân khu vực và thế giới.
Cải tiến phương thức tổ chức và nội dung nhằm nâng cao hiệu quả
thiết thực của các hoạt động đối ngoại.
Chú trọng nâng cao hiệu quả chính trị, đẩy mạnh các hoạt động thúc
đẩy hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục…; tăng
cường các hoạt động hữu nghị, chủ động làm tốt công tác vận động các nguồn
lực và nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức
PCPNN; phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế,

bảo đảm kết hợp hài hòa giữa lợi ích của tổ chức và lợi ích quốc gia, dân tộc.
Phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức thành viên
và lợi thế của công tác đối ngoại nhân dân trong quan hệ và hoạt động đối
ngoại; chú trọng công tác đền ơn đáp nghĩa đối với các bạn bè quốc tế có
công với Việt Nam.
Phối hợp với các tổ chức nhân dân Việt nam trong các hoạt động đối
ngoại nhân dân; tăng cường huy động các nguồn lực về trí tuệ và vật chất
trong xã hội để đẩy mạnh các mặt của công tác đối ngoại nhân dân. Huy động
sự tham gia của các tổ chức và tầng lớp nhân dân vào các hoạt động đấu tranh
chống lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, chống
“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Củng cố và phát triển tổ chức của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam; đảm bảo các chế độ, chính sách; tăng cường sự gắn kết giữa Liên hiệp
14


với các tổ chức thành viên ở Trung ương và địa phương, và giữa các tổ chức
thành viên; nâng cao năng lực của cán bộ chuyên trách và các lực lượng tham
gia công tác đối ngoại nhân dân.
Làm tốt công tác quản lý PCPNN thông qua việc hướng dẫn và triển
khai thực hiện các văn bản pháp quy liên quan hoạt động của các tổ chức
PCPNN; tích cực, chủ động vận động viện trợ PCPNN phục vụ các mục tiêu
xây dựng và phát triển đất nước.
Củng cố, tăng cường và nâng cao chất lượng công tác thông tin đối
ngoại; tuyên truyền có chiều rộng và chiều sâu về hoạt động đối ngoại nhân
dân nói chung, về hoạt động của Liên hiệp và các tổ chức thành viên nói riêng
đến các tầng lớp nhân dân ở trong và ngoài nước.
Phát huy vai trò của Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các phong trào
nhân dân thế giới, nhằm góp phần tích cực vào việc giải quyết các vấn đề toàn

cầu, vào cuộc đấu tranh chung cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ
xã hội, phù hợp với khả năng, điều kiện và lợi ích dân tộc.
Thời gian tới sẽ có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội cho
công tác đối ngoại nhân dân. Với niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng và sự lãnh
đạo của Đảng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc, vào các giá trị chính nghĩa
và tiến bộ của nhân loại, vào sức mạnh đoàn kết của toàn dân, Liên hiệp và
các tổ chức thành viên sẽ tiếp tục phát huy truyền thống và bài học kinh
nghiệm của các thế hệ đi trước, nỗ lực khắc phục khó khăn, vượt qua thách
thức, tiếp tục củng cố, xây dựng tổ chức vững mạnh, đổi mới và nâng cao
hiệu quả hoạt động để hoàn thành những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp phát triển mặt trận đối ngoại nhân dân, đóng
góp có hiệu quả cho công tác đối ngoại chung và sự nghiệp phát triển đất
nước, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về đối ngoại nhân
dân.

15


Đối ngoại nhân dân của ta trong thế kỷ XX có cội nguồn từ những
năm 20, thời kỳ Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Pháp hoạt động chính trị đối ngoại,
lúc đó vận động quốc tế là hoạt động đối ngoại nhân dân. Chính người đã
nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của công tác quan trọng này và đặt công
tác này vào mặt bằng mới về cả lý luận lẫn thực tiễn nhờ đó đã vận động được
nhân dân thế giới ủng hộ đoàn kết với nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm
lược, đặc biệt là hình thành mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ đoàn
kết với nhân dân ta chống Mỹ cứu nước. Đối ngoại nhân dân cũng tạo điều
kiện mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại, tranh thủ sự

hợp tác quốc tế, tạo thế đứng quốc tế vững chắc, không lệ thuộc bên ngoài tạo
môi trường bên ngoài thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
hiện nay.
1.2.1. Công tác đối ngoại nhân dân dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại nhân dân thực chất là công tác
dân vận, vận động các đối tượng quần chúng nhân dân trong và ngoài nước
đồng tình, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác đối ngoại
nhân dân là một bộ phận hợp thành của công tác đối ngoại chung, phối hợp và
phục vụ công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao Nhà nước cùng thực hiện
nhiệm vụ, đường lối và chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước.
Lực lượng đối ngoại nhân dân bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội,
các tổ chức nhân dân, các hội nghề nghiệp rộng ra là nhân dân, mà các tổ
chức của Đảng, cơ quan của Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân (tiến
hành đối tượng và hình thức thích hợp); đồng thời có những tổ chức chính trị
- xã hội chuyên trách đối ngoại nhân dân là các tổ chức hòa bình, đoàn kết
hữu nghị hợp thành Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân dựa trên ba
nguồn gốc chủ yếu:

16


-

Bản sắc và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, truyền

thống ngoại giao của ông cha ta. Đó là nền văn hóa, nền ngoại giao yêu nước
và vì dân, vì chính nghĩa và hòa bình, hòa hiếu và nhân đạo, giữ nguyên tắc
độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân đồng thời lại linh hoạt, khôn khéo,

“dĩ bất biến ứng vạn biến”.
- Tinh hoa văn hóa, văn minh của phương Đông, phương Tây và của
toàn thể nhân loại. Đặc biệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin. Người coi vai trò của nhân dân làm ra lịch
sử các dân tộc và lịch sử thế giới, là động lực của các quá trình chính trị - xã
hội của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Người
cũng coi trọng vai trò của nhân dân trong quan hệ quốc tế, trong hoạt động
ngoại giao vì độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, vì hòa bình,
hữu nghị, đoàn kết, hợp tác và phát triển giữa các dân tộc trên thế giới.
-

Kinh nghiệm chỉ đạo và hoạt động thực tiễn trong công tác đối

ngoại của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã làm công tác đối ngoại
nhân dân từ khi ra đi tìm đường cứu nước đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam
được thành lập. Người cũng chỉ đạo và trực tiếp tiến hành đồng thời công tác
ngoại giao của Nhà nước, công tác đối ngoại của Đảng và công tác đối ngoại
nhân dân khi làm Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Tư tưởng và hoạt động thực tiễn đối ngoại của người
đã trở thành khoa học và nghệ thuật cho hoạt động ngoại giao của Việt Nam
từ đó đến nay.
Nội dung tư tưởng về đối ngoại nhân dân của Hồ Chí Minh
1- Thêm bạn bớt thù, đoàn kết nhân dân trong nước gắn liền với đoàn
kết nhân dân thế giới vì lợi ích chân chính của nhân dân Việt Nam và nhân
dân thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phải “làm cho nước mình ít kẻ thù hơn
hết và nhiều bạn đồng minh hơn hết”. Trong từng giai đoạn cách mạng, Chủ
17



tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đều phân rõ bạn, thù, bạn gần, bạn xa, bạn lâu
dài, bạn nhất thời, tìm cách giảm bớt kẻ thù, tránh đối phó với hai kẻ thù cùng
một lúc, xác định kẻ thù chính để tập trung mũi nhọn đấu tranh vào chúng.
Người giáo dục nhân dân ta phân biệt rõ bạn, thù, phân biệt bọn thực
dân Pháp và bọn Mỹ xâm lược với nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ để tranh
thủ sự ủng hộ và đoàn kết của nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ, cô lập và chĩa
mũi nhọn đấu tranh vào chính quyền của thực dân Pháp và chính quyền của
đế quốc xâm lược Mỹ. Người khẳng định với nhân dân Pháp: “Chúng tôi
muốn hòa bình ngay để máu người Pháp và người Việt ngừng chảy. Những
dòng máu đỏ chúng tôi đều quý như nhau”. Người đã nói với những người
bạn Mỹ vào đầu năm 1964: “Chẳng những chúng tôi đau xót vì đồng bào
chúng tôi phải gian khổ hy sinh, mà chúng tôi cũng thương xót cho các bà mẹ
và người vợ Mỹ đã mất con, mất chồng trong cuộc chiến tranh phi nghĩa ở
miền Nam Việt Nam do bọn quân phiệt Mỹ tiến hành”.
Gắn liền đoàn kết nhân dân trong nước với đoàn kết quốc tế chính là
kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế
cao cả, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ dân tộc với nghĩa vụ quốc tế. Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn giải thích và thực hiện mối quan hệ thân thiện hữu nghị, bầu
bạn với nhân dân các nước, "bốn phương vô sản đều là anh em". Khi tìm
đường cứu nước và cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính
quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định và thực hiện quan điểm đoàn kết
cách mạng, kêu gọi vận động thực hiện đoàn kết nhân dân thông qua Mặt trận
Dân tộc thống nhất. Người tham gia sáng lập Hội Liên hiệp thuộc địa và ra tờ
báo “Người cùng khổ” (1921 - 1926) để thực hiện sự đoàn kết giữa những
người yêu nước Việt Nam và những người yêu nước ở các thuộc địa. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến chống đế quốc Mỹ, Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công chủ trương "ba tầng mặt
trận": Mặt trận đoàn kết nhân dân trong nước, Mặt trận đoàn kết nhân dân
Việt – Lào - Campuchia và Mặt trận đoàn kết nhân dân thế giới nhằm tạo ra
18



sức mạnh vô cùng to lớn của nhân dân ta để kháng chiến thắng lợi và góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về thêm bạn bớt thù và đoàn kết quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chủ trương mở
cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thắt chặt quan hệ với các bạn bè
truyền thống, nối dài vòng tay với các bạn bè, đối tác mới, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại theo tinh thần "Việt Nam sẵn sàng là bạn và
đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển", chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
bảo vệ đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2- Kết hợp ngoại giao Nhà nước với công tác đối ngoại của Đảng và
đối ngoại nhân dân, tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, công tác
đối ngoại của Đảng và công tác đối ngoại nhân dân được kết hợp chặt chẽ với
nhau. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vận dụng đối ngoại nhân dân để gây dựng
phong trào, tuyên truyền cho cách mạng, hỗ trợ cho đối ngoại của Đảng trong
thời kỳ trứng nước. Từ khi có chính quyền, ba "binh chủng" đối ngoại chính
thức được xây dựng và củng cố. Mỗi binh chủng này có đặc thù, thế mạnh và
mũi tiến công riêng, nhưng kết hợp với nhau và hỗ trợ cho nhau một cách chặt
chẽ, hài hòa theo đó tùy hoàn cảnh, tình hình và đối tượng thích hợp mà công
tác đối ngoại sẽ được tiến hành qua kênh nhà nước, Đảng hay nhân dân. Nhờ
đó, công tác đối ngoại được thực hiện hiệu quả, đồng bộ và uyển chuyển
nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Để tạo ra và phát triển sức mạnh tổng hợp của công tác đối ngoại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn luôn coi trọng thực hiện thống nhất sự

19


lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước đối với công tác đối
ngoại. Riêng công tác đối ngoại nhân dân phải tranh thủ được sự hỗ trợ của
công tác đối ngoại của Đảng và ngoại giao của Nhà nước để tăng thêm sức
mạnh cho mình và sức mạnh của công tác đối ngoại nói chung, góp phần thực
hiện kết hợp chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, đối ngoại với an ninh,
quốc phòng. Cần tranh thủ triệt để sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ của chính
quyền, đồng thời mở rộng và tăng cường liên kết, phối hợp giữa các ngành,
các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội; tranh thủ sự tham gia, đóng góp của
các tổ chức, cá nhân và mọi tầng lớp nhân dân để mở rộng và nâng cao hiệu
quả hoạt động đối ngoại nhân dân. Ngày nay, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về sức mạnh tổng hợp của dân tộc và sức mạnh tổng hợp của ngoại giao,
Đảng ta lãnh đạo về tổ chức kết hợp chặt chẽ ngoại giao với quốc phòng và an
ninh với phát triển kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật và văn hóa, chính trị đối
ngoại với kinh tế đối ngoại, văn hóa đối ngoại; kết hợp chặt chẽ ba bộ phân
hợp thành công tác đối ngoại chung.
3- Coi trọng, phát huy vai trò và lợi thế của công tác đối ngoại nhân
dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu hoạt động đối ngoại bằng hoạt động
đối ngoại nhân dân khi Người tìm đường cứu nước, chỉ đạo và vẫn trực tiếp
tham gia công tác đối ngoại nhân dân từ khi có Đảng và Nhà nước độc lập.
Người cho rằng, quan hệ nhân dân với nhân dân luôn là cơ sở cho mối quan
hệ giữa nước ta với các nước, là mối quan hệ bền vững và lâu dài, dù thái độ
của chính phủ nước ta có quan hệ thay đổi thế nào thì quan hệ nhân dân ta với
nhân dân nước đó vẫn không phai mờ hoặc mất đi.
Công tác đối ngoại nhân dân có sức mạnh của nhân dân làm hậu
thuẫn cho nên có lợi thế đặc thù. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, ngoại giao phải
có thực lực và phải biểu dương lực lượng, chính là nói đến sức mạnh của

nhân dân trong công tác đối ngoại. Lợi thế của đối ngoại nhân dân còn ở chỗ
20


có thể sử dụng cả lý lẽ và tình cảm để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ quốc
tế; vận động dư luận nhân dân ta và nhân dân các nước lên tiếng phản đối các
âm mưu hành động thù địch của các thế lực thù địch bên ngoài. Sử dụng sức
mạnh của nhân dân, công tác đối ngoại nhân dân có tiếng nói và hành động
mà công tác đối ngoại Đảng và nhất là ngoại giao nhà nước không có điều
kiện làm và nếu làm thì không có thuận lợi hoặc lại bất lợi, như khi bày tỏ sự
đồng tình và ủng hộ đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân một số
nước, phản đối lên án những hành động thù địch hoặc không thân thiện đối
với nhân dân ta và nhân dân một số nước khác. Tiếng nói của nhân dân ta và
nhân dân các nước trong đấu tranh dư luận có sức mạnh và tác động to lớn.
Công tác đối ngoại nhân dân thể hiện được rõ và đầy đủ tính chất
ngoại giao hòa bình, hữu nghị, hợp tác, chính nghĩa chống phi nghĩa, nhân
nghĩa chống bạo tàn, dùng tiếng nói có lý có tình, phong cách giản dị và lịch
thiệp dễ đi vào lòng người để thuyết phục, tranh thủ sự ủng hộ và đồng tình
của nhân dân các nước đối với nhân dân ta, giới thiệu và vận động làm cho
nhân dân ta và nhân dân các nước hiểu biết lẫn nhau, xây dựng và phát triển
quan hệ hữu nghị, hợp tác.
4- Nội dung, hình thức hoạt động phong phú, linh hoạt đồng thời đa
dạng hóa quan hệ trong công tác đối ngoại nhân dân
Công tác đối ngoại nhân dân và vận động quốc tế do Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ đạo trực tiếp có nội dung đặc biệt phong phú, có sức thuyết phục
mạnh mẽ: làm rõ chính nghĩa, chống phi nghĩa, lấy nhân nghĩa chống bạo tàn,
kêu gọi hòa bình, hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau...
Hình thức hoạt động đối ngoại nhân dân cũng rất đa dạng: nói
chuyện, viết báo, viết sách, tiếp xúc vận động cá nhân và tổ chức, nói chuyện
ở các diễn đàn của nước đối tác và diễn đàn quốc tế, họp mặt, liên hoan hữu

nghị, hội thảo, giao lưu văn hóa, văn nghệ, thể thao, trao đổi khoa học - kỹ
thuật, viện trợ nhân dân, hợp tác về giáo dục…
21


Công tác đối ngoại nhân dân luôn mở rộng đối tác vận động và quan
hệ từ các cá nhân thuộc các tầng lớp, nghề nghiệp, khuynh hướng chính trị
khác nhau đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức quần chúng, tổ chức phi
chính phủ…; đồng thời duy trì, củng cố quan hệ với các bầu bạn cũ, tìm kiếm
quan hệ với các bầu bạn mới.
Trong tình hình mới, các hình thức hoạt động đối ngoại nhân dân cần
có sự đổi mới, không nên quá lễ nghi, khô cứng, rập khuôn mà phải linh hoạt
đa dạng, phi hình thức tùy vào hoàn cảnh và đối tượng cụ thể. Phương pháp
phải mềm dẻo, nhẫn nại lấy thuyết phục là chính. Cần phát huy được phẩm
chất tốt đẹp và bản sắc văn hóa của người vn, cần chú ý đến quan hệ giữa con
người và con người trong quá trình giao tiếp và hợp tác, phải chân thành cởi
mở và thẳng thắn trong thái độ và nghiêm túc trong công việc mới xây dựng
được thiện cảm và tạo được niềm tin. Cần đa phương hóa quan hệ đối ngoại
nhân dân theo mục tiêu nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong từng
thời kỳ, tập trung hoạt động vào các địa bàn trọng điểm đồng thời mở rộng
hoạt động ở các địa bàn khác. Đa dạng hóa quan hệ nhân dân về nội dung là
hoạt động vì hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và hợp tác phải thông qua và bao
gồm nhiều mặt: ủng hộ lẫn nhau về chính trị, giao lưu văn hóa, nghệ thuật, thể
thao, du lịch hữu nghị; giúp đỡ nhau về vật chất (viện trợ nhân dân), trao đổi
khoa học công nghệ, giúp đỡ nhau về kinh nghiệm quản lý kinh tế, quản lý xã
hội, đào tạo cán bộ…Công tác đối ngoại nhân dân cần gắn các nội dung hoạt
động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và vận động viện trợ phi chính phủ với
nhau để nâng cao hiệu quả của từng hoạt động và của hoạt động chung.
5- Tập hợp lực lượng rộng rãi tham gia hoạt động đối ngoại nhân
dân

Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, công tác đối ngoại nhân dân do nhiều
lực lượng tham gia, bao gồm không chỉ các đoàn thể nhân dân, các tổ chức
chính trị xã hội, các tổ chức văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật, các hội
22


nghề nghiệp và rộng ra là nhân dân, mà các tổ chức của Đảng và các cơ quan
nhà nước các cấp ngành, các lực lượng vũ trang (tiến hành với đối tượng và
hình thức thích hợp). Đồng thời, có những tổ chức chính trị - xã hội được
thành lập để chuyên hoạt động đối ngoại nhân dân trong các lĩnh vự hòa bình,
đoàn kết, hữu nghị, viện trợ nhân dân như Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt
Nam.1
Ngay khi cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thành
lập Hội Việt - Hoa thân hữu, và đề cử hai đồng chí Tạ Quang Bửu và Võ
Nguyên Giáp lấy danh nghĩa Hội Việt - Mỹ thân hữu ngày 31/8/1945 tiếp
đoàn của Cục phụ vụ chiến lược của Mỹ ở Côn Minh đáp máy bay xuống Hà
Nội. Trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng ta đã cho thành lập Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của
Việt Nam, Ủy ban đoàn kết nhân dân Á-Phi, Hội quốc tế ngữ bảo vệ hòa binh,
các hội hữu nghị và Ủy ban đoàn kết song phương với nhân dân nhiều nước
để tập hợp đông đảo quàn chúng tham gia công tác đối ngoại nhân dân.
Khẳng định đối ngoại nhân dân là phương tiện chủ yếu và vô cùng
quan trọng để tiếp cận thế giới nên Hồ Chí Minh đã căn dặn đồng bào mình
bằng những hoạt động khôn khéo để chinh phục nhân dân các nước, trước hết
là đối xử văn minh với công dân của các nước đế quốc đang sống và làm việc
ở nước ta, để nhờ đó là nhân dân nước họ và nhân dân thế giới hiểu rõ Việt
Nam, có tình cảm với Việt Nam. Không chỉ quan tâm định hướng cho đồng
bào ở trong nước mà cho cả đồng bào ở nước ngoài để tạo ra phong trào nhân
dân làm đối ngoại, để mọi người Việt Nam dù ở đâu cũng tham gia mặt trận
đối ngoại với mục đích nâng cao vị thế của dân tộc mình. Hồ Chí Minh căn

dặn: “Kiều bào ở nước ngoài phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, luôn luôm
một lòng ủng hộ tổ quốc, mở rộng tình thân thiện giữa nhân dân ta và nhân
dân các nước”. Phải chan hòa gắn bó với họ theo tinh thần “bán bà con xa
mua láng giềng gần” để thuyết phục họ, cảm hóa họ.
23


Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng công tác đối
ngoại nhân dân cần chú ý thu hút, huy động quần chúng tham gi, đảm bảo tính
quần chúng trong các hoạt động, tránh câu nệ hình thức quan liêu, hành chính.
Muốn vậy, các hoạt động đối ngoại nhân dân cần tăng cường triển khai tại cấp
cơ sở, địa phương, nơi tập hợp đông đảo nhân dân – đối tượng và cũng là chủ
thể của công tác này. Và một điều quan trọng là các hoạt động đối ngoại nhân
dân phải có những hình thức hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của quần
chúng để cuốn hút quần chúng tham gia.
Có thể nói, đối ngoại nhân dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện là
một hoạt động cách mạng có sự thống nhất với mọi hoạt động cách mạng
khác ở tư tưởng chủ đạo nhất quán của Người là chủ nghĩa yêu nước,có mục
tiêu bất di bất dịch là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, với tinh
thần lấy dân làm gốc, mọi xuất phát đều bắt đầu từ dân, do dân, vì dân. Như
vậy, thấy được rằng cả về lý luận và thực tiễn, đối ngoại nhân dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm rất sáng rõ bản chất
cách mạng và khoa học. Đó chính là nền tảng tư tưởng của đối ngoại nhân
dân mà Đảng và Chính phủ cùng nhân dân Việt Nam thường xuyên tiếp cận,
tiếp thu và phát triển sáng tạo trong hành động.
1.2.2. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại nhân dân

Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930), Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất chú trọng đẩy mạnh công tác đối ngoại, vận động quốc tế, trên
cơ sở kiên trì và phát triển hai quan điểm cơ bản: một là, đoàn kết với giai cấp

vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới; hai là, gắn cách mạng ở thuộc
địa với cách mạng ở chính quốc, gắn cách mạng của nhân dân Việt Nam với
cách mạng của nhân dân lao động Pháp. Cho đến khi Cách mạng tháng Tám
thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (1945), hoạt
động đối ngoại, vận động quốc tế của Đảng và nhân dân Việt Nam là hoạt
động đối ngoại nhân dân.
24


Với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nền ngoại giao
hiện đại của Việt Nam từng bước hình thành một cách hoàn chỉnh, bao gồm
công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của một mặt trận đối ngoại đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng. Các văn kiện của Đảng về đường lối, chính sách đối ngoại
được vận dụng chung cho cả đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối
ngoại nhân dân.
Ngày 07/3/1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 106NQ/TW về việc thành lập Ban Công tác đối ngoại của Trung ương, gọi tắt là
Ban Đối ngoại, và giao cho Ban Đối ngoại chỉ đạo công tác đối ngoại của các
tổ chức nhân dân.
Tháng 12/1986, Đại hội lần thứ VI của Đảng đề ra mục tiêu đối ngoại
là giữ vững hòa bình, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để thực hiện
công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước, góp phần
tích cực vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Tháng 8-1988, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Khoá VI ra
Nghị quyết số 13, đánh dấu việc đổi mới tư duy đối ngoại theo hướng đa dạng
hoá, đa phương hóa quan hệ đối ngoại.
Đầu thập niên 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ. Tháng 6/1991, Đại hội lần thứ VII của Đảng (trong Báo cáo chính trị
của Ban Chấp hành Trung ương) khẳng định lại mục tiêu do Đại hội VI đề ra,

và nêu rõ: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh
quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”. Đại hội cũng nhấn mạnh chủ
trương “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt
chế độ chính trị - xã hội khác nhau, trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa
25


×