Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo lớn thông qua các bài thơ trong chương trình phát triển ngôn ngữ (khảo sát tại trường mầm non ngô quyền – thành phố vĩnh yên tỉnh vĩnh phúc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.68 KB, 59 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
======

NGUYỄN THỊ XINH

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
THÔNG QUA CÁC BÀI THƠ TRONG CHƢƠNG
TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ (KHẢO SÁT TẠI
TRƢỜNG MẦM NON NGÔ QUYỀN – THÀNH PHỐ
VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non

HÀ NỘI, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC MẦM NON

======

NGUYỄN THỊ XINH

PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN
THÔNG QUA CÁC BÀI THƠ TRONG CHƢƠNG
TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ (KHẢO SÁT TẠI
TRƢỜNG MẦM NON NGÔ QUYỀN – THÀNH PHỐ
VĨNH YÊN - TỈNH VĨNH PHÚC)


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Giáo dục mầm non

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. LÊ THỊ THÙY VINH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn sự hƣớng dẫn, giúp đỡ của các thầy, cô giáo
trong khoa Giáo dục Mầm non đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá
trình làm khóa luận này. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô
giáo Lê Thị Thùy Vinh – ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, chỉ bảo tận tình để em
có thể hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận, dù đã cố gắng nhƣng do thời
gian và năng lực có hạn, đề tài chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế.
Vì vậy, em mong nhận đƣợc sự tham gia đóng góp ý kiến của các thầy, cô
giáo và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Xinh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi với sự
hƣớng dẫn tận tình của cô giáo TS. Lê Thị Thùy Vinh. Đề tài chƣa đƣợc công

bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.
Hà Nội, tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Xinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................. 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 4
6. Cấu trúc khóa luận.................................................................................... 4
NỘI DUNG .................................................................................................. 6
CHƢƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN..................................... 6
1.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 6
1.1.1. Cơ sở tâm lí ........................................................................................ 6
1.1.2. Cơ sở sinh lí ....................................................................................... 8
1.1.3. Cơ sở nhận thức.................................................................................. 9
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ ................................................................................ 10
1.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................... 22
1.2.1. Vai trò của thơ ca đối với trẻ mầm non ............................................. 22
1.2.2. Chƣơng trình thơ ca của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ............................... 24
1.2.3. Thực trạng vốn từ của trẻ 5 – 6 tuổi tại trƣờng mầm non Ngô Quyền –
thành phố Vĩnh Yên – Tỉnh Vĩnh Phúc....................................................... 26
CHƢƠNG 2 – BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ CHO TRẺ THÔNG
QUA CÁC BÀI THƠ TRONG CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÔN



NGỮ (KHẢO SÁT TẠI TRƢỜNG MẦM NON NGÔ QUYỀN, THÀNH
PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC) ..................................................... 29
2.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp .............................................................. 29
2.1.1. Nguyên tắc đảm bảo tính mục đích ................................................... 29
2.1.2. Nguyên tắc đảm bảo tính tích cực của trẻ ......................................... 31
2.1.3 Nguyên tắc đảm bảo phù hợp với vốn sống và kinh nghiệm của trẻ... 33
2.2. Biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ thông qua các bài thơ trong chƣơng
trình phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại trƣờng mầm non Ngô Quyền, thành phố
Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc .......................................................................... 34
2.2.1. Biện pháp đàm thoại, giảng giải........................................................ 34
2.2.2. Đọc diễn cảm cho trẻ nghe và dạy cho trẻ học thuộc thơ .................. 37
2.2.3. Sƣu tầm các bài thơ theo từng chủ đề dạy học .................................. 39
2.2.4. Biện pháp sử dụng các phƣơng tiện trực quan .................................. 46
2.2.5. Sử dụng từ có cùng trƣờng nghĩa ...................................................... 48
KẾT LUẬN ................................................................................................ 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 52


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một quốc gia hùng mạnh là một quốc gia có nền giáo dục phát triển. Vì
vậy đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho sự phát triển bền vững, đảm bảo đào tạo
một thế hệ kế tiếp có đầy đủ phẩm chất và năng lực phục vụ cho đất nƣớc.
Đại hội Đảng khóa IX đã khẳng định rằng: giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn
lực của con ngƣời. Hiện nay, giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn xã
hội, đặc biệt giáo dục mầm non chiếm một vị trí quan trọng, là khâu đầu tiên
trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học đặt nền móng cho sự phát triển

nhân cách con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa.
Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai, trẻ em là nguồn hạnh phúc của mỗi
gia đình, là tƣơng lai của đất nƣớc, lớp ngƣời sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông
cha để lại, ghánh vác mọi công việc xây dựng Tổ quốc. Mọi trẻ em sinh ra
đều có quyền đƣợc giáo dục chăm sóc, đƣợc tồn tại và phát triển, đƣợc yêu
thƣơng trong gia đình cộng đồng. Khi xã hội càng phát triển thì giá trị con
ngƣời càng đƣợc nhận thức và đánh giá đúng đắn, do vậy việc chăm sóc và
giáo dục trẻ lại càng mang ý nghĩa nhân văn cụ thể và trẻ trở thành đạo lý của
thế giới văn minh.
Việc giáo dục trẻ mầm non phải dựa trên nhu cầu cơ bản, thỏa mãn
những mong muốn tốt đẹp của trẻ, khơi gợi sự phát triển khả năng vốn có của
trẻ. Trong trƣờng mầm non, việc “cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học” và
“phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ” là những môn học trọng tâm có vị trí
quan trọng trong tất cả các môn học. Trong đó mở rộng vốn từ là nền móng
để phát triển ngôn ngữ. Mở rộng vốn từ đƣợc tăng cƣờng thông qua các môn
học và các hoạt động trong trƣờng mầm non của trẻ. Đặc biệt thông qua môn

1


học làm quen với các tác phẩm văn học, cụ thể là qua hoạt động dạy thơ cho
trẻ. Dạy thơ cho trẻ giúp trẻ tiếp cận cái hay, cái đẹp trong tiếng nói của dân
tộc để từ đó làm giàu cảm xúc của trẻ, phát triển trí tƣởng tƣợng, giúp trẻ
khám phá những điều mới lạ của thế giới xung quanh.
Giai đoạn 5 – 6 tuổi của trẻ là giai đoạn then chốt cần trang bị và hình
thành vốn từ phong phú để phát triển ngôn ngữ một cách tối đa. Dạy thơ cho
trẻ 5 – 6 tuổi là biện pháp hiệu quả để nâng cao mở rộng vốn từ ngữ. Chính vì
lý do trên, bằng sự tìm hiểu và tâm huyết của mình, đồng thời dựa trên những
tiếp thu, học hỏi những thành tựu nghiên cứu thành công khác, chúng tôi
mạnh dạn lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển vốn từ cho trẻ mẫu giáo

lớn thông qua các bài thơ trong chương trình phát triển ngôn ngữ (khảo
sát tại trường mầm non Ngô Quyền – thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh
Phúc)”.
2. Lịch sử vấn đề
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là công việc quan trọng và cấp thiết, tạo điều
kiện để trẻ có sự tự tin trong giao tiếp. Vấn đề này đã đƣợc nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong cuốn “Phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo” (2004) đã nghiên cứu rất kĩ sự phát triển ngôn
ngữ của trẻ mẫu giáo. Trên cơ sở những đánh giá chung về đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ ở lứa tuổi này, dựa trên mối quan hệ của bộ môn ngôn ngữ học với
bộ môn khác ông đã đƣa ra một số phƣơng pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mầm non, trong đó bao gồm cả vấn đề phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ.
Nguyễn Xuân Khoa trong: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua thơ,
truyện (1979), cũng đề cập đến nội dung phƣơng pháp nhằm hình thành và
phát triển vốn từ ngữ cho trẻ.
Cùng với Nguyễn Xuân Khoa, Đinh Hồng Thái trong cuốn “giáo trình
phương pháp phát triển lời nói của trẻ” (2007) đã viết rất chi tiết về lời nói

2


mạch lạc và các hình thức, phƣơng pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ
mẫu giáo.
Ngoài ra, vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non cũng đƣợc đề cập
trong những công trình nghiên cứu của các tác giả khác nhƣ:
Nghiên cứu Phạm Thị Phú và Lê Thị Ánh Tuyết: “Phương pháp làm
quen với tác phẩm văn học ở trẻ mẫu giáo; Phương pháp và hình thức cho trẻ
làm quen với các tác phẩm văn học”.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên sâu còn có các khóa luận
nghiên cứu nhƣ: Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Thủy Tiên, Trƣờng

Đại học Kinh Bắc, năm 2003: Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6
tuổi thông qua thơ Phạm Hổ.
Tuy nhiên các nghiên cứu trên chỉ tập trung vào các hình thức, biện pháp
để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chứ chƣa đi sâu vào việc mở rộng vốn từ cho
trẻ. Vì vậy đề tài này đi sâu vào nghiên cứu việc phát triển vốn từ cho trẻ
thông qua các bài thơ trong chƣơng trình phát triển ngôn ngữ của trẻ Mẫu
giáo lớn tại trƣờng Mầm non Ngô Quyền - thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thấy đƣợc vai trò và tác dụng của thơ
ca đối với sự phát triển ngôn ngữ nói chung và phát triển vốn từ nói riêng ở
trẻ em thuộc lứa tuổi mầm non đặc biệt là trẻ 5 đến 6 tuổi.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu đã đặt ra, chúng tôi thực hiện các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:
- Tìm hiểu cơ sở lý luận của việc phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi thông
qua các bài thơ trong chƣơng trình phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn.

3


- Tìm hiểu phƣơng pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các
bài thơ trong chƣơng trình phát triển ngôn ngữ (khảo sát tại trƣờng mầm non
Ngô Quyền – thành phố Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc).
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài thơ trong chƣơng
trình là một hình thức để phát triển ngôn ngữ cho trẻ nên đối tƣợng nghiên
cứu của nó cũng không nằm ngoài đối tƣợng nghiên cứu của bộ môn “phƣơng

pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ”, đó là quy luật hoạt động sƣ phạm nhằm
hình thành và phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể ở đây là phƣơng pháp phát
triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua các bài thơ trong chƣơng trình phát
triển ngôn ngữ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ tìm hiểu việc phát triển vốn từ thông qua các bài thơ trong
chƣơng trình phát triển ngôn ngữ trên đối tƣợng trẻ 5-6 tuổi tại trƣờng mầm
non Ngô Quyền – Tp Vĩnh Yên - tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ, yêu cầu của đề tài, chúng tôi sử dụng các
phƣơng pháp nghiên cứu sau:
-Phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu lý luận
-Phƣơng pháp quan sát
-Phƣơng pháp trò chuyện
-Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp…
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
khóa luận gồm 2 chƣơng
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn

4


Chƣơng 2: Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ 5-6 tuổi thông qua
các bài thơ trong chƣơng trình phát triển ngôn ngữ (khảo sát tại trƣờng mầm
non Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc).

5



NỘI DUNG
CHƢƠNG I – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở tâm lí
Quan điểm tâm lí học duy vật biện chứng cho rằng con ngƣời trở thành
ngƣời không bằng cơ chế di truyền sinh học mà bằng cơ chế lĩnh hội nền văn
hóa. Bằng hoạt động, bằng tác động của nền văn hóa xã hội con ngƣời hình
thành, phát triển và hoàn thiện chính mình. Tâm lí ngƣời mang tính quy luật
về sự chuyển đoạn trong tiến trình phát triển. Sự phát triển ngôn ngữ trẻ em
lứa tuổi mầm non cũng không nằm ngoài những quy luật của tâm lí con
ngƣời. Ngôn ngữ không phải là một hiện tƣợng tự nhiên, trẻ em lĩnh hội ngôn
ngữ thông qua giao tiếp hoạt động chứ không phải qua cơ chế di truyền và
ứng với mỗi giai đoạn lứa tuổi lại có những đặc trƣng khác nhau.
Khác với nhà trẻ, lứa tuổi mẫu giáo lớn đã sử dụng thành thạo tiếng mẹ
đẻ trong sinh hoạt hàng ngày. Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ này ở trẻ đƣợc diễn
ra theo các hƣớng:
Hƣớng thứ nhất là: Nắm vững ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng tiếng mẹ
đẻ. Trẻ mẫu giáo lớn đã biết sử dụng ngữ điệu một các phù hợp với nội dung
giao tiếp hay nội dung câu chuyện mà trẻ kể. Trẻ thƣờng dùng ngữ điệu êm ái
để biểu thị tình cảm yêu thƣơng trừu mến. Ngƣợc lại, khi giận dữ, trẻ lại dùng
ngữ điệu thô và mạnh.
Hƣớng thứ hai là: Phát triển vốn từ và cơ cấu ngữ pháp. Vốn từ của trẻ
mẫu giáo lớn tích lũy đƣợc khá phong phú không chỉ về danh từ mà cả về
động từ, tính từ, liên từ, … không chỉ hiểu đƣợc từ ngữ mà trẻ còn nắm vững
ngữ pháp một các vững vàng đủ để diễn đạt các mặt trong đời sống hàng
ngày.

6



Hƣớng thứ ba là: Sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Trẻ mẫu giáo lớn đã
có khả năng nắm đƣợc ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát
âm của ngƣời lớn, biết dùng ngữ điệu phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp, và đặc
biệt là nói đúng hệ thống ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn
ngữ tinh vi nhất về phƣơng diện cú pháp và về phƣơng diện tu từ, nói năng
mạch lạc thoải mái. Tóm lại, trẻ đã nắm vững tiếng mẹ đẻ.
Hƣớng thứ tƣ là: Sự xác định ý thức bản ngã và tính chủ định trong hoạt
động tâm lý. Tuổi mẫu giáo lớn, trẻ có thể biểu hiện ý chí tƣơng đối lâu.
Trong sự phát triển các hành động ý chí của trẻ có thể thấy đƣợc sự liên kết
giữa ba mặt: thứ nhất là sự phát triển tính mục đích của hành động, thứ hai là
sự xác lặp quan hệ giữa mục đích của hành động với động cơ, thứ ba là tăng
vai trò điều chỉnh của ngôn ngữ trong việc thực hiện các hành động.
Hƣớng thứ năm là: Xuất hiện kiểu tƣ duy trực quan hình tƣợng mới – tƣ
duy trực quan sơ đồ và những yếu tố của kiểu tƣ duy lôgic. Trẻ mẫu giáo lớn
có khả năng hiểu một cách dễ dàng và nhanh chóng về cách biểu diễn sơ đồ
và sử dụng có hiệu quả những sơ đồ đó để tìm hiểu sự vật.
Ở tuổi mẫu giáo, trẻ đã bắt đầu hình thành sự chú ý, ghi nhớ có chủ định:
trẻ học suy ghĩ về đối tƣợng thật khi tham gia trò chơi nghĩa là trò chơi đã góp
phần vào việc chuyển từ tƣ duy trực quan – hành động sang tƣ duy trực quan
– hình tƣợng.
Tiến vào bƣớc ngoặt 6 tuổi (tuổi mẫu giáo lớn), là thời kì trẻ đang tiến
vào bƣớc ngoặt 6 tuổi với sự biến đổi của hoạt động chủ đạo. Hoạt động vui
chơi vẫn giữ vai trò chủ đạo trong suốt thời kì mẫu giáo, nay những yếu tố
của hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh để tiến tới giữ vị trí chủ đạo ở giai
đoạn sau bƣớc ngoặt 6 tuổi. Do đó, bƣớc ngoặt 6 tuổi là sự kiện quan trọng
khiến các nhà giáo dục cần phải quan tâm, một mặt là để giúp trẻ hoàn thiện
những thành tựu phát triển tâm lý trong suốt thời kì mẫu giáo, mặt khác là tích

7



cực chuẩn bị cho trẻ đủ điều kiện để làm quen dần với hoạt động học tập và
cuộc sống ở trƣờng phổ thông.
1.1.2. Cơ sở sinh lí
Ở trẻ mẫu giáo lớn, sự phát triển diễn ra chậm hơn so với giai đoạn
trƣớc.
Về số lƣợng: chiều cao trung bình tăng từ 4 – 6 cm, đạt 105,5 –
125,5cm; cân nặng tăng khoảng 1 – 2,5kg, đạt khoảng 15,7kg, có sự thay đổi
rõ rệt về chất lƣợng.
Về hệ thần kinh, trẻ 5 – 6 tuổi cƣờng độ và tính linh hoạt của các quá
trình thần kinh tăng lên rõ rệt. Trẻ có thể tập trung chú ý vào một đối tƣợng
nhất định trong thời gian 25 – 30 phút. Đồng thời, ở lứa tuổi này, vai trò của
hệ thống tín hiệu thứ hai tăng lên. Tƣ duy bằng từ ngày càng tăng, ngôn ngữ
bên trong xuất hiện. Chức năng khái quát hóa của từ đã có bƣớc nhảy vọt gần
nhƣ ở ngƣời lớn ở chỗ, sự khái quát hóa đƣợc thể hiện theo hoạt động với đồ
vật, vì thế tƣ duy bằng hành động vẫn giữ vai trò quan trọng trong thần kinh
cấp cao của trẻ. Ở lứa tuổi này trẻ có thể học đọc và học viết. Ngoài ra, do sự
phát triển của hệ thần kinh nên số lần ngủ trong ngày và thời gian ngủ của trẻ
cũng giảm xuống còn 11 giờ trên ngày.
Về hệ vận động, trẻ 5 – 6 tuổi có sự phối hợp vận đọng của nhiều nhóm
cơ nhƣ ở ngƣời lớn. Còn việc tiếp thu những thói quen và vận động còn phụ
thuộc vào đặc điểm của từng cơ thể trẻ, nhất là sự luyện tập phù hợp.
Về hệ tuần hoàn, thành phần máu của trẻ cũng tăng lên và biến đổi về
chất: Huyết sắc tố 80 – 90%; hồng cầu 4,5 – 5 triệu đơn vị; bạch cầu 7 – 10
nghìn; tiểu cầu 200 – 300 nghìn. Ngoài ra, tần số co bóp của tim cũng tăng lên
từ 80 – 110 lần /phút.
Về hệ hô hấp, nhịp thở của trẻ giảm dần, cơ quan phát âm của trẻ cũng
phát triển và hoàn thiện làm cho ngôn ngữ của trẻ cũng phát triển.

8



1.1.3. Cơ sở nhận thức
Trẻ 5 – 6 tuổi, các hiện tƣợng tâm lý nhƣ tri giác, trí nhớ, tƣởng tƣợng về
cơ bản là sự nối tiếp sự phát triển ở lứa tuổi từ 4 – 5 tuổi nhƣng chất lƣợng
mới hơn. Thể hiện ở:
- Mức độ phong phú của các kiểu loại
- Mức độ chủ định của các quá trình tâm lý rõ ràng hơn, có ý thức hơn.
- Tính mục đích hình thành và phát tiển ở mức độ cao hơn.
- Độ nhạy cảm của các giác quan đƣợc tinh nhạy hơn.
- Khả năng kiềm chế các phản ứng tâm lý đƣợc phát triển.
Ở đây chúng ta chỉ đề cập tới quá trình tâm lý phát triển mạnh mẽ và đặc
trƣng nhất, đó là tƣ duy.
Sự phát triển tƣ duy ở độ tuổi này mạnh mẽ về kiểu loại, các thao tác và
thiết lập nhanh chóng các mối quan hệ giữa các sự kiện, hiện tƣợng, thông tin
giữa mới và cũ, gần và xa.
Đặc tính chung của sự phát triển tƣ duy:
Trẻ đã biết phân tích tổng hợp không chỉ dừng lại ở đồ vật, hình ảnh mà
ngay cả từ ngữ.
Tƣ duy của trẻ dần dần mất đi tính duy trì, tiến dần đến khách quan, hiện
thực hơn.
Dần dần trẻ phân biệt đƣợc thực và hƣ.
Đã có tƣ duy trừu tƣợng với các con số, không gian, thời gian, quan hệ
xã hội, …
Ý thức rõ về những ý nghĩ, tình cảm của mình, trách nhiệm đối với hành
vi.
Các phẩm chất của tƣ duy đã bộc lộ đủ về cấu tạo và chức năng hoạt
động của nó nhƣ tính mục đích, độc lập sáng tạo, tính linh hoạt, độ mềm dẻo,



9


Ở trẻ 5 – 6 tuổi phát triển cả ba loại tƣ duy, tƣ duy hành động trực quan
vẫn chiếm ƣu thế. Tuy nhiên nhiệm vụ hoạt động mà cả loại tƣ duy hình ảnh
trực quan, tƣ duy trừu tƣợng đƣợc phát triển ở trẻ. Loại tƣ duy này giúp trẻ
đến gần với hiện thực khách quan.
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ
1.1.4.1. Những vấn đề chung về ngôn ngữ
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phƣơng tiện giao tiếp cơ bản
và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng ngƣời. Ngôn ngữ
đồng thời cũng là phƣơng tiện phát triển tƣ duy, truyền đạt truyền thống văn
hóa- lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lênin từng khẳng định: Con
ngƣời ngƣời muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng đồng. Giao tiếp là một
hoạt động đặc trƣng của con ngƣời. Ngôn ngữ là phƣơng tiện giao tiếp quan
trọng nhất. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong cuộc sống của con ngƣời,
nhờ có ngôn ngữ mà con ngƣời có thể trao đổi với nhau những hiểu biết,
truyền cho nhau những kinh nghiệm, tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm
kín. Không có ngôn ngữ con ngƣời không thể giao tiếp đƣợc, thậm chí không
thể tồn tại đƣợc, nhất là trẻ em, một sinh thể yếu ớt rất cần sự chăm sóc và
bảo vệ của ngƣời lớn.
Ngôn ngữ là một trong những phƣơng tiện thúc đẩy trẻ trở thành thành
viên của xã hội loài ngƣời. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ học tập, vui chơi.
Ngôn ngữ là công cụ hữu hiệu để trẻ thực hiện nguyện vọng của mình từ khi
còn rất nhỏ để ngƣời lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ là một điều
kiện quan trọng để trẻ tham gia mọi hoạt động và hình thành nhân cách trẻ.
Ngôn ngữ cần cho tất cảcác hoạt động của trẻ và ngƣợc lại mọi hoạt động tạo
điều kiện thúc đẩy ngôn ngữ của trẻ phát triển.
Sự phát triển ngôn ngữ hay vốn từ của trẻ bị ảnh hƣởng nhiều bởi tác
phẩm văn học đặc biệt là thơ ca. Trong hoạt động học tập khi mà trẻ đƣợc


10


nghe những bài thơ hay và học những bài thơ đó sẽ giúp trẻ mở rộng vốn từ
một cách dễ dàng và hiệu quả. Vì trẻ mầm non rất dễ bắt nhịp với vần điệu,
nhịp điệu dễ nhớ, dễ thuộc của thơ ca. Qua đó làm giàu vốn từ cho trẻ bằng
những từ mới, giải nghĩa từ khó cho trẻ hiểu, đào sâu phân tích, chính xác hóa
vốn từ để trẻ hiểu chính xác nghĩa của từ, tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Bằng
vốn từ ngôn ngữ của mình trẻ có thể biểu đạt sự hiểu biết của mình để ngƣời
khác hiểu cũng nhƣ hiểu lời nói của ngƣời khác. Trong giáo dục mầm non,
giáo viên cần chú ý rèn luyện phát triển ngôn ngữ đặc biệt là phát triển vốn từ
cho trẻ để trẻ có thể áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
1.1.4.2. Vai trò của ngôn ngữ
Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp. Bản chất con ngƣời là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội (C. Mác). Con ngƣời muốn tồn tại thì phải gắn bó với
cộng đồng. Giao tiếp là một đặc trƣng quan trọng của ngƣời. “Ngôn ngữ là
phƣơng tiện giao tiếp quan trọng nhất của con ngƣời” (V.I. Lênin). Nhờ có
ngôn ngữ mà con ngƣời có thể hiểu nhau, cùng nhau hành động vì những mục
đích chung: lao động, đấu tranh, xây dựng và phát triển xã hội.
Không có ngôn ngữ, không thể giao tiếp đƣợc, thậm chí không thể tồn
tại đƣợc, nhất là đứa trẻ, một sinh thể yếu ớt rất cần đến sự chăm sóc, bảo vệ
của ngƣời lớn.
Ngôn ngữ làm cho đứa trẻ trở thành một thành viên của xã hội loài
ngƣời. Ngôn ngữ là một công cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện
vọng của mình từ khi còn rất nhỏ để ngƣời lớn có thể chăm sóc, điều khiển,
giáo dục trẻ, là một điều kiện quan trọng để trẻ tham gia vào mọi hoạt động và
trong hoạt động hình thành nhân các của trẻ.
Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tƣ duy, nhận thức. Quá trình trƣởng
thành của một đứa trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát triển tƣ

duy, trí tuệ chính là ngôn ngữ. Ngôn ngữ chính là hiện thực (sự hiện hữu) của

11


tƣ duy. Tƣ duy của con ngƣời có thể hoạt động đƣợc (nhất là tƣ duy trừu
tƣợng) cũng chính là nhờ có phƣơng tiện ngôn ngữ. Tƣ duy và ngôn ngữ có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu không có ngôn ngữ thì tƣ duy của con
ngƣời không diễn ra đƣợc. Ngôn ngữ làm cho các kết quả của tƣ duy đƣợc cố
định lại, do đó có thể khách quan hóa nó cho ngƣời khác và cho bản thân chủ
thể tƣ duy. Ngƣợc lại, nếu không có tƣ duy với các sản phẩm của nó thì ngôn
ngữ chỉ là những âm thanh vô nghĩa.
Phát triển ngôn ngữ của trẻ không chỉ có mục đích tự thân. Có ngôn ngữ,
tƣ duy của trẻ đƣợc phát triển. Đây là hai mặt của một quá trình biện chứng có
tác động qua lại ảnh hƣởng mạnh mẽ đến nhau (Galperin: ngôn ngữ giữ vai
trò quyết định sự phát triển của tâm lí trẻ em). Ngôn ngữ phát triển làm cho tƣ
duy phát triển. Ngƣợc lại, tƣ duy phát triển càng đẩy nhanh sự phát triển của
ngôn ngữ. Mối quan hệ đó có thể sơ đồ hóa nhƣ sau:
Tƣ duy

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi – những hoạt động chủ yếu
của trƣờng mầm non. Giống nhƣ việc dạy trẻ tiếng mẹ đẻ ở các cấp học khác,
phát triển lời nói cho trẻ ở trƣờng mầm non thực hiện mục tiêu “kép”. Đó là,
trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ, đồng thời sử dụng nó nhƣ một công cụ để vui
chơi, học tập. Ngôn ngữ đƣợc tích hợp trong tất cả các loại hình hoạt động
giáo dục, ở mọi nơi, mọi lúc. Nhƣ vậy, ngôn ngữ cần cho tất cả các hoạt động
và ngƣợc lại, mọi hoạt động tạo cơ hội cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
Ngôn ngữ là phƣơng tiện để giáo dục trẻ một cách hoàn thiện. Sự phát

triển toàn diện của đứa trẻ bao gồm cả sự phát triển về đạo đức, chuẩn mực
hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu.? cần phải giao tiếp ứng xử nhƣ thế
nào cho phù hợp?... không chỉ là sự bắt chƣớc máy móc. Ngôn ngữ phát triển
sẽ giúp cho trẻ mở rộng giao tiếp. Điều này làm cho trẻ có điều kiện học hỏi
những gì tốt đẹp xung quanh trẻ. Cô giáo bằng lời cũng sẽ dễ dàng hơn trong

12


việc giải thích, nêu gƣơng, thuyết phục trẻ, giáo dục những hành vi đạo đức
cho trẻ.
Ngôn ngữ phát triển giúp trẻ sớm phát triển sớm tiếp thu những giá trị
thẩm mĩ trong thơ ca, truyện kể - những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ đầu tiên
ngƣời lớn có thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Đó là sự tác động của
lời nói nghệ thuật nhƣ một phƣơng tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.
Ý nghĩa của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ sơ sinh đến 6 tuổi. Giai
đoạn từ sơ sinh đến 6 tuổi, nhất là từ 3 đến 6 tuổi, là giai đoạn “siêu tốc” phát
triển ngôn ngữ. Thành tựu phát triển tối ƣu nhất thiết đòi hỏi phải có sự giáo
dục ngôn ngữ “kịp thời”, “đúng lúc” (khái niệm của các nhà giáo dục Nga
“vovremia”). Những thành tựu phát triển lời nói ở lứa tuổi này là rất to lớn.
Chẳng hạn, đây là giai đoạn hoàn thiện cơ quan phát âm. Đến 6 tuổi về cơ bản
trẻ đã phát âm chính xác tất cả các âm vị, thanh điệu của tiếng mẹ đẻ. Trẻ đã
nói năng tƣơng đối lƣu loát, biểu cảm. Về mặt ngữ pháp, hầu hết các mẫu câu
tiếng việt trẻ cũng đã sử dụng vào lúc 6 tuổi. Sự thực là những giờ học ngôn
ngữ đầu tiên đối với mỗi con ngƣời là ngay từ khi lọt lòng mẹ. Trƣờng mầm
non là trƣờng học đầu tiên. Ở đây, có điều kiện, có cơ hội lớn hơn để giáo dục
ngôn ngữ cho trẻ. Có thể khẳng định rằng: Học tiếng mẹ đẻ là sự học tập quan
trọng nhất, cần thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần đƣợc quan tâm nhất.
1.1.4.3. Một số vấn đề về từ
a. Khái niệm và phân loại từ

 Khái niệm từ
Từ là vấn đề đƣợc nhiều nhà Việt ngữ học quan tâm tìm hiểu. Cho đến
nay đã có khoảng 300 định nghĩa về từ. Ở đây chúng tôi dựa trên quan điểm
về từ tiếng Việt của Đỗ Hữu Châu trong “Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt”
Từ tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang theo
những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất

13


định. Tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong hệ thống và
nhỏ nhất để tạo câu.
Định nghĩa này cho thấy từ là một đơn vị bao gồm 2 bộ phận: hình thức
của từ (thành phần ngữ âm, thành phần ngữ pháp, thành phần cấu tạo) và ý
nghĩa của từ. Những thành phần này có sự quy định lẫn nhau, thống nhất với
nhau thành một hợp thể là từ.


Phân loại từ
 Phân loại theo cấu tạo từ
Từ đơn: là từ do một tiếng có nghĩa tạo nên.
Đại bộ phận các từ đơn là một âm tiết, chúng mang những đặc trƣng ngữ

nghĩa chủ yếu của từ vựng Tiếng Việt. Ví dụ: Nƣớc, cơm, cây, … có một số ít
từ đơn đa âm tiết nhƣ: bù nhìn, mồ hôi, bò hóng. Có một số từ đơn đa âm tiết
là từ vay mƣợn của các ngôn ngữ ẩn ấu nhƣ: cà phê, ô tô, …
Từ phức: Từ láy và từ ghép
Từ láy là từ trong đó các âm tiết có quan hệ với nhau về ngữ âm (bàn
bạc, làm lụng, chắc chắn, …) hoặc giống nhau ở vần (bối rối, lộp bộp, lì xì,
…) hoặc có những âm tiết khác nhau (chuồn chuồn, xanh xanh, …). Từ láy

bao gồm láy đôi (bối rối, tôn tốt, …), láy ba (dửng dừng dung, khít khìn khịt,
...) và láy bốn (lơ thơ lẩn thẩn, …).
Từ ghép là từ trong đó các thành tố có ý nghĩa đƣợc kết hợp với nhau,
các thành tố này có thể độc lập hoặc không độc lập. Từ ghép bao gồm từ ghép
đẳng lập (nhà cửa, to lớn, đẹp tƣơi, …) và từ ghép chính phụ (áo dài, nhà ăn,
sân bay, …).
 Phân loại theo đặc điểm ngữ pháp
Căn cứ vào tiêu chí phân định từ loại và ý nghĩa của từ loại, từ đƣợc
chia thành ba nhóm:

14


a. Nhóm 1: Thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng chân thực và có thể
làm thành phần câu gọi là thực từ. Nhóm từ này gồm: danh từ, động từ, tính
từ.
Danh từ: là từ loại bao gồm những từ có ý nghĩa khái quát sự vật. Đó là
những thực từ chỉ vật thể - ngƣời, động vật, thực vật, đồ vật, những hiện
tƣợng tự nhiên, hiện tƣợng xã hội và những khái niệm trừu tƣợng, … đƣợc
con ngƣời nhận thức và phản ánh nhƣ các vật thể tồn tại trong hiện thực.
Danh từ bao gồm: Danh từ riêng và danh từ chung.
- Danh từ riêng: là danh từ gọi tên sự vật, hiện tƣợng cụ thể riêng biệt,
thƣờng đứng sau danh từ chung làm định ngữ cho danh từ chung.
Danh từ riêng bao gồm: tên riêng chỉ ngƣời, tên địa danh, tên con vật,
tên sự vật.
VD: Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Lê Thị Thùy Vinh, …
- Danh từ chung: là những từ biểu thị tên gọi cho hàng loạt các sự vật,
hiện tƣợng không phải cho các sự vật, hiện tƣợng đơn lẻ.
VD: ngôi nhà, học sinh, cô giáo, …
Động từ: là những từ có ý nghĩa khái quát chỉ hoạt động, trạng thái nhất

định của sự vật, hiện tƣợng.
Động từ bao gồm: Động từ độc lập và động từ không độc lập.
- Động từ độc lập: là những động từ tự thân đã có nghĩa. Chúng có thể
đứng độc lập, không cần một động từ khác đi kèm, và có thể giữ chức vụ làm
thành phần chính của câu.
VD: đi, chạy, nhảy, ném, chém, tặng, …
- Động từ không độc lập: là những động từ thƣờng không đứng một
mình, đảm nhiệm vai trò ngữ pháp trong câu, mà phải cùng với một động từ
khác hoặc cụm từ đi sau làm thành tố phụ.
VD: cần, nên, định, nỡ, có thể, …

15


Tính từ: là những thực từ biểu thị tính chất, đặc trƣng của sự vật, hiện
tƣợng về các phƣơng diện nhƣ hình thể, màu sắc, kích thƣớc, …
- Tính từ không xác định theo thang độ: chúng không có khả năng kết
hợp với các phụ từ chỉ mức độ. Bản thân chúng đã hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối
về đặc trƣng, tính chất hoặc là đặc trƣng ấy không có gì để so sánh.
VD: Trên, dƣới, trái, phải, đen xì, trắng toát, …
- Tính từ chỉ tính chất đặc trƣng theo thang độ: chúng có khả năng kết
hợp với các phụ từ chỉ mức độ bao gồm:
+ Tính từ chỉ màu sắc: xanh, đỏ, tím, vàng, lục, lam, …
+ Tính từ chỉ kích thƣớc: dài, ngắn, …
+ Tính từ chỉ hình dáng: cao, thấp, gầy, béo, …
+ Tính từ chỉ mùi vị: ngọt, thơm, chua, cay, …
+ Tính từ chỉ tính chất vật lí: lỏng, rắn, mềm, …
+ Tính từ chỉ phẩm chất: tốt, xấu, …
+ Tính từ chỉ đặc điểm tâm lí: hiền, dữ, lành, ác, …
+ Tính từ chỉ trí tuệ: thông minh, đần, ngu, khôn, …

b. Nhóm 2: Hƣ từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, mà
chỉ có tác dụng làm công cụ ngữ pháp để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau
của từ. Nhóm này gồm: phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ.
Phụ từ: Là những từ hƣ không dùng để gọi tên các sự vật, hiện tƣợng
trong thực tế khách quan mà chỉ có chức năng dẫn xuất hoặc biểu niệm về
tình thái.
- Phân loại: căn cứ vào bản chất ngữ pháp của các hƣ từ và phụ từ
thƣờng đi kèm, có thể chia phụ từ thành hai nhóm:
+ Phụ từ chuyên phụ cho danh từ: là những hƣ từ mà ý nghĩa chỉ số. Bổ
sung ý nghĩa về mặt số lƣợng cho danh từ.
VD: các, những, mọi, …

16


+ Phụ từ đi kèm với động từ và tính từ: các phụ từ này làm thành tố phụ
trƣớc hoặc thành tố phụ sau, bổ sung ý nghĩa ngữ pháp cho động từ, tính từ.
VD: đang, hơi, rất, lắm, …
Quan hệ từ: Là những hƣ từ không dùng để gọi tên các sự vật, hiện
tƣợng trong thế giới khách quan mà chỉ để liên kết, để nối từ và các từ, cụm
từ với cụm từ, câu với câu.
Phân loại:
+ Quan hệ từ dùng biểu thị quan hệ đẳng cấp: dùng để nối kết các thành
phần có quan hệ đẳng cấp
VD: cùng, và, với, hoặc, …
+ Quan hệ từ dùng biểu thị quan hệ chính phụ: dùng để kết nối các thành
tố phụ với thành tố chính.
VD: từ, tới, tuy, đủ, để, … thì, …
Tình thái từ: Là những từ chỉ thái độ, tình cảm của ngƣời nói đối với nội
dung của câu nói hoặc đối với ngƣời cùng tham gia hoạt động giao tiếp.

Phân loại:
+ Tình thái từ nghi vấn: hà, không, à, ƣ, …
+ Tình thái từ cầu khiến: nhé, nào, đi, với, …
+ Tình thái từ biểu thị sắc thái biểu cảm: cơ, mà, nhé, …
+ Tình thái từ cảm thán: sao, biết bao, …
c. Nhóm 3: Lớp từ trung gian gồm: đại từ và số từ
Đại từ: là những từ dùng để chỉ ngƣời, sự vật, hoạt động, tính chất, …
đƣợc nói đến trong một ngữ cảnh nhất định của lời nói hoặc dùng để hỏi.
VD : tôi, cô ấy, anh ta, …
Số từ : Là những từ loại dùng để chỉ số lƣợng và thứ tự của sự vật nào
đó.
Phân loại :

17


+ Số từ chỉ số lƣợng của sự vật
VD : ba cái bút, bốn quyển vở, …
+ Số từ chỉ thứ tự của sự vật
VD: canh bốn, canh năm, …
Trƣờng mầm non chủ yếu sử dụng hai cách phân loại trên để phát triển
vốn từ cho trẻ. Ngoài ra, từ còn đƣợc phân loại theo một số cách khác nhau:
- Phân loại theo nghĩa: Từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa.
- Phân loại theo nguồn gốc: Từ thuần Việt, từ Hán – Việt, …
- Phân loại theo phạm vi sử dụng: Từ toàn dân, từ địa phƣơng.
b. Vốn từ
Vốn từ của một ngôn ngữ là “tổng số và hệ thống toàn bộ từ và cụm từ
cố định của ngôn ngữ đó”. Mỗi một ngôn ngữ phát triển có một khối lƣợng từ
phong phú có thể lên tới hàng chục vạn từ. Vốn từ vựng của một ngôn ngữ
bao gồm nhiều lớp từ, nhiều nhóm từ không đồng nhất và có đặc trƣng khác

nhau. Trong vốn từ vựng của bất kì ngôn ngữ nào cũng tồn tại những từ mới
và những từ cũ, những từ phổ biến chung và những từ địa phƣơng, những từ
chuẩn mực và những từ vay mƣợn, từ chuyên môn.
Ví dụ: Vốn từ của ngôn ngữ Tiếng Việt có nhiều từ vay mƣợn từ tiếng
Hán hoặc tiếng Pháp (ghi – đông, gác – ba – ga, …)
Với mỗi cá nhân, vốn từ không tỷ lệ thuận với vốn từ trong ngôn ngữ
chung của cả cộng đồng mà nó phụ thuộc vào sự phát triển trí tuệ, nhận thức,
văn hóa của mỗi cá nhân. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học thì
vốn từ của những ngƣời có trình độ văn hóa cao là khoảng 6000 – 9000 từ,
của một nhà thiên tài là xấp xỉ 20.000 từ.
Dựa vào tần số sử dụng của các từ trong đời sống xã hội, ngƣời ta phân
chia vốn từ thành hai loại: vốn từ tích cực và vốn từ thụ động. Vốn từ tích cực
là những từ đƣợc con ngƣời nắm vững, có tần số sử dụng cao trong cuộc sống

18


hàng ngày. Vốn từ thụ động gồm những từ ít hoặc không đƣợc sử dụng. Đó là
những từ không còn phù hợp với cuộc sống hiện tại (bao cấp, tem phiếu, …)
hoặc mang nghĩa riêng, chƣa đƣợc sử dụng rộng rãi.
Đối với trẻ mầm non, vốn từ tích cực là những từ trẻ hiểu đƣợc và biết
vận dụng trong các tình huống giao tiếp. Còn vốn từ thụ động là những từ trẻ
chƣa hiểu ý nghĩa hoặc có hiểu nhƣng không biết vận dụng trong giao tiếp
(không nói ra đƣợc). Nhƣ vậy nghiên cứu phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ
là mở rộng vốn từ, làm giàu vốn từ về mặt số lƣợng mà phải tích cực hóa vốn
từ trong giao tiếp.
c. Vấn đề mở rộng vốn từ
Phát triển vốn từ cho trẻ là cơ sở của công tác phát triển ngôn ngữ. Bởi
vì từ là đơn vị có nghĩa của lời nói, có thể dùng độc lập, bao gồm đầy đủ cả
hai mặt: âm thanh và ý nghĩa. Trong từ phản ánh những sự vật, hiện tƣợng

của thế giới xung quanh cũng nhƣ các đặc điểm của nó. Việc phát triển vốn từ
cho trẻ phải đƣợc tiến hành cùng với việc mở rộng và nâng cao nhận thức của
trẻ về thế giới xung quanh. Đây là hai mặt có quan hệ hữu cơ và không thể
tách rời nhau. Trƣờng mầm non có nhiệm vụ phát triển vốn từ cho trẻ cả về số
lƣợng và chất lƣợng. Dạy trẻ không chỉ biết nhiều từ, mà còn phải hiểu từ, sử
dụng từ đúng, loại ra những từ không đẹp trong lời nói của trẻ, dạy trẻ biết
cách sử dụng một số biện pháp tu từ đơn giản trong giao tiếp hàng ngày.
Phát triển vốn từ đƣợc hiểu nhƣ là một quá trình lâu dài trẻ tích lũy vốn
từ, hiểu nghĩa của từ và hình thành cách sử dụng từ trong các tình huống giao
tiếp cụ thể. Trẻ chỉ lĩnh hội nghĩa của từ khi nào từ đƣợc sử dụng trong câu,
trong lời nói. Vì vậy, công tác phát triển vốn từ cần đƣợc tiến hành chặt chẽ
với việc phát triển ngôn ngữ lạch lạc ở trẻ. Xem xét quá trình hình thành và
phát triển vốn từ ở trẻ, ta thấy đƣợc ở trẻ lĩnh hội nghĩa cụ thể của từ và nội
dung khái niệm của từ, nó có liên quan đến quá trình nhận thức của trẻ, đồng

19


×