Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN QUẢN lý KINH tế NÂNG CAO NĂNG lực và HIỆU QUẢ QUẢN lý KINH tế của NHÀ nước THÔNG QUA đẩy MẠNH cải CÁCH HÀNH CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH xây DỰNG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.1 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
Để thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”, sớm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo và kém phát triển, trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Đồng thời đáp
ứng yêu cầy phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Đòi hỏi nhà
nước ta thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý, trong đó quản lý kinh tế là nội
dung quan trọng trong công tác quản lý nói chung của nhà nước. Với mục tiêu
duy trì sự ổn định và nâng cao hiểu quả kinh tế xã hội của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp về
kinh tế, hành chính, giáo dục thuyết phục… Một trong những biện pháp quan
trọng để nâng cao hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước về kinh tế là tiếp tục đẩy
mạnh công tác cải cách nền hành chính nước nhà. Đây là vấn đề then chốt có ý
nghĩa quyết định trực tiếp đến kết quả thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế và
hiệu quản quản lý kinh tế của Nhà nước. Nhằm làm rõ vai trò quản lý nhà nước
về kinh tế và thực chất quá trình cải cách hành chính ở nước ta hiện nay, tác giả
chọn vấn đề “Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước
thông qua đẩy mạnh cải cách hành chính trong quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” làm chủ đề thu
hoạch của môn học “Quản lý kinh tế”. Với phạm vị nghiên cứu của môn học, tác
giả trình bày chủ đề trên thành các nội dung cơ bản sau:
1. Những vấn đề chung về cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.
2. Quan điển của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính trong
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Một số biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả cải cách hành chính
trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

2


NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung về cải cách hành chính ở nước ta hiện nay.


Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX (tháng 4/2001) bên
cạnh việc khẳng định mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá đã đưa ra một loạt chủ trương, giải
pháp có ý nghĩa quan trọng trong cải cách hành chính thời gian tới như điều
chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, nguyên tắc
bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; phân công, phân cấp; tách quản lý nhà nước
với hoạt động sản xuất kinh doanh, tách cơ quan hành chính công quyền với tổ
chức sự nghiệp, dịch vụ công; tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục
cải cách thủ tục hành chính; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có
năng lực; thiết lập trật tự kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng…
Cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Thủ tướng Chính phủ đã
chỉ đạo phải nhanh chóng xây dựng cho được một chương trình cải cách hành
chính có tính chiến lược, dài hạn của Chính phủ. Sau một thời gian chuẩn bị,
ngày 17/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg
phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20012010. Với Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 20012010, lần đầu tiên trong quá trình cải cách, Chính phủ có một chương trình có
tính chiến lược, dài hạn, xác định rõ mục tiêu, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ và
các giải pháp thực hiện nhằm bảo đảm thắng lợi công cuộc cải cách.
Quan niệm về cải cách hành chính.
Cải cách hành chính là một khái niệm đã được nhiều học giả, các nhà
nghiên cứu hành chính trên thế giới đưa ra, dựa trên các điều kiện về chế độ chính
trị, kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, cũng như phụ thuộc vào quan điểm và mục
tiêu nghiên cứu, do đó hầu hết các định nghĩa này là khác nhau. Tuy nhiên, qua xem
3


xét, phân tích dưới nhiều góc độ định nghĩa của khái niệm, có thể thấy các khái
niệm về cải cách hành chính được nêu ra có một số điểm thống nhất sau:
Thứ nhất, cải cách hành chính là một sự thay đổi có kế hoạch, theo một
mục tiêu nhất định, được xác định bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, cải cách hành chính không làm thay đổi bản chất của hệ thống

hành chính, mà chỉ làm cho hệ thống này trở nên hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân
được tốt hơn so với trước, chất lượng các thể chế quản lý nhà nước đồng bộ, khả
thi, đi vào cuộc sống hơn, cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của bộ máy,
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan nhà nước sau
khi tiến hành cải cách hành chính đạt hiệu quả, hiệu lực hơn, đáp ứng yêu cầu
quản lý kinh tế – xã hội của một quốc gia.
Thứ ba, cải cách hành chính tuỳ theo điều kiện của từng thời kỳ, giai
đoạn của lịch sử, yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia, có thể
được đặt ra những trọng tâm, trọng điểm khác nhau, hướng tới hoàn thiện một
hoặc một số nội dung của nền hành chính, đó là tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ,
công chức, thể chế pháp lý, hoặc tài chính công v.v...
Ở Việt Nam hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào chính
thức định nghĩa khái niệm cải cách hành chính là gì. Tuy nhiên, nhiều văn bản
quan trọng của Đảng đã đề cập đến thuật ngữ này, như Nghị quyết Đại hội VII,
Nghị quyết TW 8 - khoá VII, Nghị quyết Đại hội VIII v.v... đã nêu ra các mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể cho công cuộc cải cách hành chính nhà nước.
4

Mục tiêu của cải cách hành chính.

5

Mục tiêu của cải cách hành chính là; nhằm tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức
có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống các cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu

4



lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền
vững của đất nước.
6

Yêu cầu của cải cách hành chính.

7

Để thục hiện được mục tiêu, trong quá trình cải cách hành chính cần

quán triệt tốt các yêu cầu sau.
8

Thứ nhất, cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu hoàn thiện

nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng
cao hiệu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ trong đời
sống xã hội; huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và sự tham gia của
mọi người dân vào tiến trình phát triển của đất nước.
9

Thứ hai, cải cách hành chính nói chung, đặc biệt là cải cách thủ tục

hành chính phải bảo đảm tạo thuận lợi nhất cho nhân dân, doanh nghiệp và góp
phần tích cực chống quan liêu, phòng và chống tham nhũng lãng phí.
10 Thứ ba, xây dựng tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan, giữa các cấp
chính quyền, giữa chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn, giữa tập thể và

người đứng đầu cơ quan hành chính; hoạt động có kỷ luật, kỷ cương và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
11 Thứ tư, cải cách hành chính phải đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh
thần trách nhiệm và tận tụy phục vụ nhân dân.
12 Thứ năm, cải cách hành chính phải hướng tới xây dựng một nền
hành chính hiện đại, ứng dụng có hiệu quả thành tựu phát triển của khoa học công nghệ, nhất là công nghệ thông tin.
5


13 Nội dung cơ bản của cải cách thủ tục hành chính.
14 Một là, cải cách thể chế. Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước
hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể
chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước. Đổi mới quy
trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bảo đảm việc tổ chức
thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức.
Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính.
Hai là, cải cách tổ chức bộ máy hành chính. Điều chỉnh chức năng,
nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước
trong tình hình mới. Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương đảm
nhận để khắc phục những chống chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm
những công việc về dịch vụ không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà
nước trực tiếp thực hiện. Định rõ những loại việc địa phương toàn quyền quyết
định, những việc trước khi địa phương quyết định phải có ý kiến của Trung ương
và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương. Bố trí lại cơ cấu
tổ chức của Chính phủ . Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của các bộ,
cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ .Cải cách tổ chức bộ máy chính

quyền địa phương .Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan
hành chính các cấp. Thực hiện từng bước hiện đại hoá nền hành chính…
Ba là, đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Đổi mới
công tác quản lý cán bộ, công chức .Cải cách tiền lương và các chế độ, chính
sách đãi ngộ .Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Nâng cao tinh thần trách
nhiệm và đạo đức cán bộ, công chức.

6


Bốn là, cải cách tài chính công. Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài
chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài chính quốc gia và
vai trò chỉ đạo của ngân sách Trung ương; đồng thời phát huy tính chủ động,
năng động, sáng tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều
hành tài chính và ngân sách. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài
chính công, tất cả chỉ tiêu tài chính được công bố công khai.
2. Quan điển của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều
kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời
kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Vì vậy, việc
hình thành quan niệm và những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách
hành chính cũng như việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải
pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trình tìm tòi sáng tạo không
ngừng, là một quá trình nhận thức liên tục, thống nhất trong tiến trình đổi mới
được khởi đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI đã xác định. Thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ
chức bộ máy của các cơ quan Nhà nước, theo phương hướng: xây dựng và thực
hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân

lao động ở tất cả các cấp. Tăng cường bộ máy của nhà nước từ Trung ương đến
địa phương và cơ sở thành một hệ thống thống nhất, có sự phân định rành mạch
nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm từng cấp theo theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, phân biệt chức năng quản lý hành chính – kinh tế với quản lý sản xuất –
kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng
lãnh thổ, phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội”. “Thực hiện một quy
chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất
7


lượng cao với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực quản lý
nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thức VII xác định. “Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo
phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản
lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công,
phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao
trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý”. Cần tập trung
làm tốt một số việc: Sửa đổi Hiến pháp; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội và hội đồng nhân dân. Sửa đổi cơ
cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, xác định lại chức năng,
nhiệm vụ của cấp tỉnh, huyện, xã để sắp xếp lại tổ chức của mỗi cấp; đề cao
quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo
thống nhất của nhà nước trung ương. Xây dựng chính quyền cấp xã, phường
vững mạnh. Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Đổi mới hệ
thống tổ chức và hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân. Bảo
đảm các điều kiện và phương tiện cần thiết để các cơ quan bảo vệ pháp luật làm
tốt nhiệm vụ. Kiên quyết sắp xếp lại tổ chức và tinh giản biên chế các cơ quan
hành chính, sự nghiệp, làm cho bộ máy gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả... Xây

dựng đội ngũ viên chức nhà nước có phẩm chất chính trị, tinh thần trách nhiệm
cao và thành thạo nghiệp vụ. Tiếp tục tiến hành kiên quyết và thường xuyên cuộc
đấu tranh chống tệ tham nhũng…
Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) đề
ra đường lối chiến lược về cả cách nền hành chính. Xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
8


luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Thực hiện dân
chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu và cũng là bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trọng tâm là cải cách một buớc nền hành chính. Hội nghị đã đề ra những quan
điểm cơ bản chỉ đạo công tác cải cách hành chính, đó là:
Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân,
lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm
lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp,
hành pháp, tư pháp.
Ba là, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bốn là, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp
quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Năm là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) tiếp tục khặng
định quan điểm về cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo tinh thần của Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994), đồng thời xác định cải cách hành chính là
trọng tâm của việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước trong những năm trước mắt,
công cuộc cải cách hành chính phải dựa trên cơ sở pháp luật và tiến hành động

9


bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây dựng, kiện
toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Về cải cách thể chế hành chính: thực hiện cải cách cơ bản các thủ tục hành
chính, cả về thể chế và tổ chức thực hiện; loại bỏ những khâu bất hợp lý và phiền
hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật.
Về tổ chức bộ máy: chấn chỉnh cơ cấu tổ chức, biên chế, quy chế hoạt
động của bộ máy hành chính các cấp. Làm cho bộ máy tinh gọn, bảo đảm sự
điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt, có hiệu lực từ Chính phủ đến chính
quyền địa phương, cơ sở; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động của địa
phương, cơ sở. Xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của
mỗi cấp chính quyền địa phương. Kiện toàn bộ máy chính quyền cấp huyện và
cơ sở đủ sức quản lý, giải quyết kịp thời, đúng thẩm quyền những vấn đề cuộc
sống đặt ra và nhân dân đòi hỏi.
Về đội ngũ cán bộ, công chức hành chính: Xây dựng và ban hành văn bản
pháp quy về chế độ công vụ và công chức. Định rõ nghĩa vụ, trách nhiệm, thẩm
quyền, quyền lợi và kỷ luật công chức hành chính. Quy định các chế độ đào tạo,
tuyển dụng, sử dụng công chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
vừa có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao vừa giác ngộ về chính
trị, có tinh thần trách nhiệm, tận tuỵ, công tâm, vừa có đạo đức liêm khiết khi
thừa hành công vụ.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1997) đã ra “nghị quyết về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục
xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững
mạnh”. Nghị quyết đã đưa ra các quan điểm về tiếp tục cải cách nền hành chính
nước nhà, trong đó trọng tâm là quản lý nhà nước về kinh tế, cụ thể:

10


Một là, chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới, đó là: Quản lý
kinh tế – xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị – xã hội và trật tự kỷ
cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt, bảo
đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh
doanh, nâng cao đời sống. Thông qua các công cụ quản lý vĩ mô và vai trò của
kinh tế nhà nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập, kết hợp hài hoà giữa
tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát
triển đồng đều giữa các vùng và các tầng lớp dân cư. Tăng cường kiểm kê, kiểm
soát sản xuất và phân phối; quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với
tư cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình trạng vô chủ, đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội với tăng
cường an ninh, quốc phòng và mở rộng hoạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này
tác động hỗ trợ nhau cùng phát triển.
Hai là, phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền
theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và
quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Ba là, tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là
công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập
kỷ cương xã hội.

Bốn là, kiện toàn về số lượng, bảo đảm chất lượng và năng ực công tác
của chính quyền cơ sở.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực
là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước.

11


Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá
VIII (1999) đã ra Nghị quyết về một số vấn đề về tổ chức, bộ máy và tiền lương,
trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước.
Về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Kiện toàn tổ chức, bộ máy
của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của cuộc vận động xây dựng,
chỉnh đốn Đảng; nhằm đạt được mục tiêu: giữ vững và tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, bản chất cách mạng của Nhà nước ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, tăng cường tiềm lực quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, xã hội,
củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân.
Về tiền lương và trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước. Chính sách tiền
lương phải quán triệt quan điểm: tiền lương gắn liền với sự phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước, trả lương đúng cho người lao động chính là thực hiện đầu tư cho
phát triển; góp phần quan trọng làm lành mạnh, trong sạch đội ngũ cán bộ, nâng
cao tinh thần trách nhiệm và hiệu suất công tác. Bảo đảm giá trị thực của tiền
lương và từng bước cải thiện theo sự phát triển của kinh tế – xã hội.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) đã đưa ra quan
điểm về đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân
chủ, tăng cường pháp chế; được biểu hiện trên các nội dung sau:
15 Một là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ

của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý
xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật… Xây dựng bộ máy nhà nước tinh
12


gọn; nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng và đảng viên trong các
cơ quan nhà nước.
16 Hai là, cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước.
Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của
Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài
hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành và
hướng dẫn thi hành luật. Xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá….
17 Ba là, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường
pháp chế. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân,
hoàn thiện những quy định về bầu cử, ửng cử, về tiêu chuẩn và cơ cấu các đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Tăng
thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở
rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã
hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng. Đổi mới cơ chế, xác định
trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong việc giải quyết
kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ
luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên
truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
18 Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, công chức, coi trọng cả năng lực và đạo
đức; bảo đảm tính nghiêm túc, trung thực trong thi tuyển cán bộ, công chức. Đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, về
đường lối, chính sách, về kiến thức và kỹ năng quản lý hành chính nhà nước. Sắp
xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm
tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế những cán bộ, công
13


chức yếu kém và thoái hoá. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách
đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn.
19 Năm là, đấu tranh chống tham nhũng. Tăng cường tổ chức và cơ
chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước
và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến cơ sở. Gắn
chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các
hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính. Bổ sung, hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước về quản lý kinh tế –
tài chính, quản lý tài sản công, không để sơ hở cho kẻ xấu lợi dụng.
20 Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX ngày (2002) đã ra “Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ
thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”. Nghị quyết đã xác định các nội
dung chủ yếu để nâng cao chất lượng của chính quyền cơ sở gồm:
21 Một là, Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cơ sở.
Chính quyền cơ sở có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh,
quốc phòng ở cơ sở; thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn
theo thẩm quyền được giao; hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của
dân, tạo thuận lợi cho dân và doanh nghiệp làm ăn theo pháp luật. Cấp trên
không dồn cho cơ sở những công việc thuộc chức năng cấp trên phải làm và
không buộc cơ sở phải làm tất cả mọi việc về quản lý hành chính nhà nước.
22 Hai là, đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân. Hội đồng nhân
dân quyết định mục tiêu kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng tại cơ sở, những

công việc mà xã, phường, thị trấn được phân cấp và những việc đáp ứng yêu cầu
tự quản của cộng đồng dân cư ở cơ sở; bầu và phê chuẩn các chức danh hành
chính theo luật định; giám sát hoạt động của cơ quan hành chính và những công
14


việc do cấp trên thực hiện trên địa bàn, nhất là việc sử dụng đất đai, quỹ công, tài
sản công, kể cả các quỹ do dân đóng góp, bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn.
23 Ba là, nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính. Đề cao trách
nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính xã, phường, thị trấn.
24 Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở
có cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách. Cán bộ chuyên trách là
những cán bộ phải dành phần lớn thời gian lao động làm việc công để thực hiện
trách nhiệm được giao. Cán bộ không chuyên trách là những người chỉ tham gia
việc công trong một phần thời gian lao động.
25 Nghị quyết sô 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khoá X (2007) đã ra nghị quyết “Về đẩy mạnh cải cách hành chính,
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”. Quan điểm về cải
cách hành chính được nghị quyết xác định trên các nội dung cụ thể sau:
26 Một là, cải cách hành chính phải được tiến hành trên cơ sở các nghị
quyết và nguyên tắc của Đảng về xây dựng hệ thống chính trị, đổi mới phương
thức lãnh đạo và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng.
27 Hai là, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và quy chế phối
hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và cả bộ máy nhà nước.
Thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
phục vụ tốt nhất cho nhân dân và chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân.
28 Ba là, các chủ trương, giải pháp cải cách hành chính phải đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ,


15


vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể và bảo
đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước.
29
3. Một số biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả cải cách hành
chính trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải
cách hành chính và luôn xác định cải cách hành chính là một khâu quan trọng
trong sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước. Các cơ quan nhà nước, trong đó
Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện nhiều chương trình, kế hoạch đã
triển khai cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng, nhất là
chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Cải
cách hành chính đã đạt những kết quả bước đầu quan trọng, góp phần vào thành
tựu chung của đất nước. Hệ thống thể chế, luật pháp tiếp tục được đổi mới và
hoàn thiện, hình thành dần cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền dân chủ của nhân dân. Chức năng,
nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà
nước được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp hơn, quản lý nhà nước ngày càng tốt
hơn trong điều kiện mới. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy
hành chính nhà nước có bước được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ.
Thể chế, pháp luật về quản lý tài chính công được tích cực xây dựng và từng
bước hoàn thiện. Thủ tục hành chính và hoạt động của các cơ quan hành chính
nhà nước có bước đổi mới, hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương được tăng
cường hơn. Tuy nhiên, nền hành chính nhà nước còn nhiều hạn chế, yếu kém.
Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số
cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa


16


bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng
kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp
yêu cầu; tình trạng quan liêu, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về
quản lý tài chính công tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành
chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ
cương cán bộ, công chức chưa nghiêm; hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước
còn nhiều yếu kém. Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, yếu kém, là: Chủ
trương và nhận thức về một số vấn đề lớn, quan trọng trong sự nghiệp đổi mới
nói chung và cải cách hành chính nói riêng còn lúng túng, chưa đủ rõ. Sự lãnh
đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng trong việc thực hiện cải cách hành chính và
thủ tục hành chính còn thiếu thống nhất, chưa kiên quyết; chưa gắn kết đồng bộ
giữa cải cách hành chính với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị và cải cách lập pháp, cải cách tư pháp, làm cho cải cách hành
chính chậm và hiệu quả thấp. Sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và chính
quyền các cấp đối với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành
chính còn thiếu kiên quyết và chưa được tập trung cao; kỷ luật, kỷ cương trong
cải cách hành chính chưa nghiêm; trách nhiệm và quyền hạn của người đứng
đầu chưa được quy định rõ…
Trong thời gian tới, cải cách hành chính phải được tiếp tục thực hiện
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, đảm bảo tuân thủ các mục tiêu, quan điểm,
yêu cầu, chủ trương và thực hiện tốt giải pháp sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách
hành chính.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính,
bảo đảm cải cách hành chính thành công. Sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
cải cách hành chính thể hiện chủ yếu ở các nội dung sau:


17


Thứ nhất, quyết định các mục tiêu, quan điểm, chủ trương và giải pháp
lớn về cải cách hành chính; lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục bảo đảm sự
nhận thức sâu sắc và thống nhất hành động trong các tổ chức đảng, trong cán
bộ, đảng viên về nhiệm vụ cải cách hành chính; lãnh đạo việc xây dựng các thể
chế, pháp luật, cơ chế, chính sách, phù hợp với thực tế và chủ trương, nghị
quyết của Đảng.
Thưa hai, quyết định giới thiệu cán bộ, đảng viên có đủ phẩm chất và
năng lực để cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xem xét, bổ nhiệm giữ các
chức vụ trong bộ máy nhà nước, thông qua đó bảo đảm việc thực hiện cải cách
hành chính theo đúng các chủ trương, quan điểm của Đảng.
Thứ ba, tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, uốn nắn kịp thời
việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng về công tác cải cách hành
chính. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo cơ quan chính quyền xây dựng chương
trình, kế hoạch cải cách hành chính, đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính phục
vụ nhân dân, doanh nghiệp và thông qua kết quả cải cách hành chính mà xem
xét, đánh giá, sử dụng cán bộ, đảng viên.
Hai là, thực hiện đồng bộ cải cách hành chính với cải cách lập pháp,
cải cách tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Hoàn thiện quy
chế bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội; tăng hợp lý số lượng
đại biểu Quốc hội chuyên trách, phát huy tốt vai trò của đại biểu Quốc hội và
đoàn đại biểu Quốc hội, cải tiến hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội theo
hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác giám sát. Tổ chức lại một
số ủy ban của Quốc hội; nâng cao vai trò và chất lượng hoạt động của Hội đồng
Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Đổi mới hơn nữa quy trình xây dựng luật,
giảm mạnh việc ban hành pháp lệnh. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các

vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao của Quốc hội.
18


Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh. Đẩy mạnh việc
thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo tinh thần và nội dung
Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 2-6-2005 của Bộ Chính trị. Tiến hành cải cách
tư pháp khẩn trương, đồng bộ; lấy cải cách hoạt động xét xử làm trọng tâm; ban
hành quy định cụ thể để thực hiện cơ chế công tố gắn với hoạt động điều tra.
Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Tòa án
nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính trong các cơ quan tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án
đối với các khiếu kiện hành chính; bảo đảm thực hiện nguyên tắc toà án, thẩm
phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tăng cường áp dụng công nghệ
thông tin vào hoạt động của các cơ quan tư pháp. Đổi mới quy trình, thủ tục giải
quyết công việc của các toà án; hoàn thiện quy chế tăng cường quan hệ phối hợp
giữa các cơ quan toà án với các cơ quan hành chính, cơ quan điều tra, viện kiểm
sát, cơ quan thi hành án. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngân sách và tổ
chức cán bộ của toà án các cấp.
Nâng cao phẩm chất, năng lực, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ cơ quan
tư pháp các cấp để đủ sức phát hiện, xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật các loại
tội phạm và giải quyết các tranh chấp phát sinh trong xã hội, nhất là ở cấp sơ
thẩm, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo điều kiện để
phát triển nhanh các tổ chức bổ trợ tư pháp, phục vụ trực tiếp cho hoạt động của
các cơ quan tư pháp, đồng thời là chỗ dựa cho nhân dân và doanh nghiệp tiếp cận
hệ thống tư pháp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế .
Tập trung chỉ đạo chặt chẽ và đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thiện hệ
thống thể chế, pháp luật, đặc biệt là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa và các thể chế vể nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xác đinh
19


hợp lý chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và ngắn hạn. Nâng cao chất
lượng xây dựng luật; xác định rõ quan điểm chỉ đạo của từng văn bản pháp luật
cần ban hành. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành luật đủ cụ thể, rõ ràng,
kịp thời, đúng quy định. Xác định rõ những văn bản pháp luật cần thiết phải có
để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập kinh tế quốc tê; không nhất thiết mỗi lĩnh vực, mỗi ngành phải có một
bộ luật riêng. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; có
cơ chế hợp lý để nhân dân tham gia ý kiến, nhất là các đối tượng chịu sự điều
chỉnh của pháp luật sẽ ban hành. Khi đưa ra lấy ý kiến nhân dân phải được
chuẩn bị kỹ, những vấn đề nhạy cảm liên quan đến quan điểm chính trị phải có
sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Bộ Chính trị.
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính.
Tập trung đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xem đây là khâu đột
phá để tạo môi trường thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của nhân dân và
doanh nghiệp. Tiến hành rà soát các thủ tục hành chính trên tất cả các lĩnh vực,
chỉ rõ những thủ tục, những quy định sai pháp luật, không phù hợp để kiên
quyết sửa đổi. Đây là khâu cản trở sự phát triển và gây nhiều bức xúc trong
nhân dân, cần tập trung chỉ đạo tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Các biện pháp chủ yếu để đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính:
Thứ nhất, giảm đầu mối, bỏ cấp trung gian, hình thành bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực. Hoàn thiện chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương. Đẩy mạnh vững chắc việc
sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và xã
hội hoá một số loại hình dịch vụ công cộng.
Thứ hai, tiếp tục phân cấp mạnh và giao quyền chủ động hơn nữa cho
chính quyền địa phương, nhất là trong việc quyết định về ngân sách, tài chính,

đầu tư, nguồn nhân lực, thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với trung ương; đồng
20


thời hoàn thiện thể chế, pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển để
bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất của Trung ương.
Thứ ba, tập trung chỉ đạo rà soát và cải cách mạnh mẽ các thủ tục hành
chính, tạo môi trường thuận lợi nhất cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp
và nhu cầu chính đáng của người dân, như: thành lập, giải thể, phá sản doanh
nghiệp; đăng ký kinh doanh và chứng nhận đầu tư; đầu tư xây dựng công trình,
dự án và nhà ở; quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản; xuất, nhập khẩu;
nộp thuế; hộ tịch, hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu, thị thực nhập
cảnh; công chứng, chứng thực; thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp...
Thứ tư, các cấp chính quyền và từng cơ quan hành chính nhà nước khẩn
trương rà soát các loại thủ tục hành chính, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ sung theo
thẩm quyền hoặc hoặc trình cấp trên xem xét sửa đổi theo hướng tạo thuận tiện
cho nhân dân và doanh nghiệp. Xử lý nghiêm những cá nhân và tổ chức tuỳ tiện
đặt ra các quy định trái pháp luật, trái thẩm quyền, gây khó khăn, phiền hà cho
nhân dân. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính trong
việc cải cách thủ tục hành chính.
Thứ năm, Công bố công khai các thủ tục (các loại giấy tờ, biểu mẫu) và
quy trình giải quyết công việc, thời gian giải quyết, phí và lệ phí theo quy định
để nhân dân biết và thực hiện thuận lợi.
Thứ sáu, tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu quả cơ chế một cửa,
một cửa liên thông tại các cơ quan hành chính nhà nước và mở rộng áp dụng tại
các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công như bệnh viện, trường học.
Thứ bảy, Chính phủ khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định của mình và
chịu trách nhiệm rà soát những thủ tục hành chính đã quy định trong các luật, pháp
lệnh, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, sửa đổi cho phù hợp.
Năm là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ

quan hành chính nhà nước.
21


Chính phủ tập trung thực hiện tốt hơn nữa chức năng quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định. Xác định rõ phạm vi và nội
dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội cho phù hợp với yêu cầu phát triển.
Tập trung làm tốt hơn việc hoạch định thể chế, cơ chế, chính sách, xây dựng
giải pháp, bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục
hành chính, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, xã hội.
Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và nâng cao năng lực chỉ đạo
tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra. Xây dựng quy chế làm
việc của Chính phủ chặt chẽ và thiết thực. Xác định cụ thể nhiệm vụ của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng và từng thành viên Chính phủ,
bảo đảm bao quát hết các chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ. Xác định rõ phạm
vi và nội dung quản lý nhà nước của cơ quan hành chính nhà nước các cấp. Làm
rõ chức năng quản lý nhà nước của cơ quan hành chính và chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các đơn vị sự nghiệp, phân cấp mạnh cho các đơn vị sự nghiệp
về sử dụng ngân sách, kinh phí, tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ.
Sáu là, tiếp tục cải cách chế độ công vụ, công chức.
Xác định rõ vị trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh công chức trong từng
cơ quan của Nhà nước để làm căn cứ tuyển dụng và bố trí, sử dụng cán bộ, công
chức. Làm tốt công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức;
thông qua việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, xác định rõ những người
đủ và không đủ tiêu chuẩn. Có chính sách thích hợp đối với những người không
đủ tiêu chuẩn phải đưa ra khỏi bộ máy. Đổi mới chế độ tuyển dụng và quản lý
cán bộ, công chức. Tuyển dụng cán bộ, công chức phải căn cứ vào nhu cầu, vị
trí, cơ cấu và tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức...
Thực hiện cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách khác đối với
đội ngũ cán bộ, công chức. Tiếp tục thực hiện cải cách chế độ tiền lương, rút

gọn bậc trong các thang, bảng lương hiện tại, thực hiện lương chuyên môn cộng
22


phụ cấp để khuyến khích công chức phấn đấu theo con đường chuyên môn, khi
không còn giữ chức vụ thì thôi hưởng phần phụ cấp chức vụ. Thực hiện từng
bước tiền tệ hoá tiền lương, tính đủ các bộ phận cấu thành tiền lương để cán bộ,
công chức sống được bằng lương. Xây dựng chế độ phụ cấp công vụ đối với cán
bộ, công chức hành chính, bao gồm cả cán bộ, công chức đảng, đoàn thể trong
hệ thống chính trị.
Bảy là, cải cách tài chính công.
Phát huy vai trò của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong việc
quyết định và giám sát việc thu – chi ngân sách. Tăng cường phân cấp quản lý
ngân sách, đồng thời phải bảo đảm tính thống nhất của thể chế, luật pháp về
ngân sách nhà nước và vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương. Nâng cao tính
ming bạch, dân chủ và công khai trong quản lý ngân sách nhà nước. Xây dựng
thể chế giám sát tài chính đồng bộ và hiệu quả. Thí điểm thực hiện cơ chế cấp
phát ngân sách theo kết quả công việc thay thế cơ chế cấp kinh phí cho cơ quan
hành chính chủ yếu dựa vào chỉ tiêu biên chế đối với cơ quan hành chính và đơn
vị sự nghiệp dịch vụ công. Tạo thêm động lực đối với hoạt động của các cơ
quan hành chính, nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan, khuyến khích,
động viên cán bộ, công chức làm việc tích cực, gắn liền việc hoàn thành nhiệm
vụ với tiền lương, tiền thưởng.
Tám là, hiện đại hoá nền hành chính.
Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy
hành chính, của cán bộ, công chức, đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính. Cần quy hoạch và
xây dựng công sở theo hướng tập trung và từng bước hiện đại, có đủ điều kiện
và phương tiện làm việc, tạo thuận lợi cho người dân khi đến liện hệ và giải
quyết công việc.


23


Chín là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với
nhân dân, huy động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội vào
hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước.
Tiếp tục phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân. Quán triệt sâu
sắc trong nhận thức và hành động của cả hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ý
thức phục vụ dân, gần dân, giúp dân, học dân. Khắc phục tình trạng vô trách nhiệm
hoặc đùn đẩy khó khăn của cán bộ, công chức cho người dân và doanh nghiệp. Tập
trung cải cách theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai về thủ tục hành chính.
Coi đây là một giải pháp quan trọng để phòng, chống tham nhũng, khắc phục tiêu
cực trong bộ máy hành chính nhà nước. Xây dựng và đưa vào thực hiện các quy
định về quyền được thông tin của người dân, tạo điều kiện để người dân tham gia,
giám sát hoạt động của cơ quan hành chính. Xử lý nghiêm các hành vi nhũng
nhiễu, gây phiền hà cho dân trong quá trình quản lý hành chính; hạn chế tối đa các
oan sai và xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong quá trình công
chức nhà nước thi hành công vụ. Tạo lập cơ sở pháp luật nhằm bảo đảm quyền
giám sát trực tiếp của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính, tăng
cường các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân tham gia vào công việc của
Nhà nước ngày càng thực chất và có hiệu quả; đảm bảo cho người dân, tổ chức là
đối tượng chịu sự điều chỉnh của pháp luật được tham gia vào quá trình xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật. Khẩn trương xây dựng các quy định về chế độ
công khai, như: công khai thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan hành
chính; các quy định, quy trình giải quyết công việc, thủ tục hành chính, phí, lệ phí
và thời gian giải quyết công việc; công khai ngân sách, tài chính; công khai báo
cáo kiểm toán; công khai tài sản của cán bộ, công chức và tuyển dụng, bổ nhiệm
cán bộ, công chức... theo qui định của pháp luật.
Mười là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng

viên đối với công tác cải cách hành chính.
24


Tăng cường công tác tư tưởng, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành
kỷ luật, kỷ cương của tổ chức đảng và đảng viên trong cả hệ thống chính trị về
cải cách hành chính, đặc biệt là thủ tục cải cách hành chính. Xây dựng chương
trình hành động thiết thực, cụ thể về cải cách hành chính trong từng cơ quan hành
chính nhà nước. Tập trung chỉ đạo thực hiện có trọng tâm, trọng điểm và có sơ
kết, uốn nắn trong từng thời gian. Bảo đảm cho công tác cải cách hành chính thật
sự là một khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội và là một nhiệm vụ trọng
tâm thường xuyên của các cấp uỷ và cơ quan hành chính nhà nước.
Các giải pháp trên là một thể thống nhất, có quan hệ mật thiết với nhau,
là điều kiện tiền đề cho nhau. Trong quá trình thực hiện phải căn cứ vào tình
hình thực tiễn đất nước và của từng địa phương để triển khai ở qui mô và cấp độ
phù hợp, đảm bảo hiệu quả cao. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tư tưởng
và hành động nôn nóng, chủ quan, duy ý chí hoặc tuyệt đối hóa một giải pháp
nào đó mà coi nhẹ hạ thấp các giải pháp còn lại.
Hiện nay công cuộc cải cách hành chính đã đến công đoạn cuối cùng của
chương trình tổng thể 2001-2010, thông qua việc Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 phê duyệt Đề án Đơn giản hóa
Thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (gọi
tắt là Đề án 30) và việc kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XII đang thảo luận “Luật
khiếu nại”, đã tạo ra những cơ sở pháp lý và môi trường tâm lý xã hội thuận lợi
cho việc thực hiện cải cách hành chính đạt được hiệu quả, hiệu suất cao.
Nội dung nghiên cứu trên có ý nghĩa to lớn và cấp thiết đối với sự nghiệp
xây dựng Quân đội cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại trong
giai đoạn hiện nay. Quyết định số 190/2007/QĐ-BQP ngày 14-12-2007 của Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng về thực hiện chương trình cải cách hành chính, nâng cao
hiệu quả quản lý trong lĩnh vực quốc phòng là sự cụ thể hóa chương trình cải

cách của chính phủ. Quyết định trên là cơ sở để các cấp lãnh đạo, chỉ huy thực
25


hiện hiệu quả quá trình đổi mới công tác quản lý hành chính ở đơn vị cơ sở đến
cấp bộ. Trong thời gian quan công tác cải cách hành chính trong mlinhx vực
quốc phòng đã đạt được một số thành tựu sau:
Về cải cách thể chế, thủ tục hành chính, các cấp lãnh đạo, chỉ huy đã chỉ
đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng các quy chế, quy định trong lãnh đạo, chỉ huy
và chủ động tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật chỉ đạo công tác quốc phòng-quân sự địa phương trên
địa bàn đóng quân. Chỉ đạo đơn giản hoá các thủ tục hành chính gắn với thực
hiện cơ chế “một cửa”. Phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan chuyên trách với tổ đề
án 30 của Bộ và của địa phương rà soát để đề nghị sửa đổi các thủ tục hành
chính thực hiện nhiệm vụ quân sự và hoạt động quốc phòng tại địa phương. Tổ
chức các lớp tập huấn cho cán bộ và nhân viên chuyên môn về thể thức và quy
trình soạn thảo, ban hành, quản lý văn bản. Do vậy, việc giải quyết các thủ tục
hành chính của cơ quan quân sự các cấp đã từng bước đơn giản, nhanh gọn; các
văn bản soạn thảo bảo đảm ngắn gọn, chặt chẽ, đúng quy phạm, tạo thuận lợi
cho quá trình triển khai thực hiện.
Trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính, tổ chức Đảng, chỉ huy các cấp
luôn bám sát sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; thực hiện đúng chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ. Đảng uỷ giữa vai trò lãnh đạo trong công tác ban hành Quy chế
về lãnh đạo xây dựng tổ chức, lực lượng trong cơ quan đơn vị thuộc quyền và lực
lượng vũ trang ở địa phương. Tập trung củng cố, kiện toàn và duy trì hoạt động có
nền nếp của các tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức hội đồng quân nhân và các
tổ chức quần chúng; phát huy hết vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong thực
hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng đơn vị cơ sở. Đề nghị cấp trên có liên ra quyết
định loại bỏ các thủ tục, các loại văn bản hành chính không phù hợp, chồng chéo

và giải thể các đầu mối đơn vị không còn phù hợp. Đồng thời, điều chỉnh tổ chức,
26


×