Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học đấu TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY vật và CHỦ NGHĨA DUY tâm TRONG TRIẾT học PHƯƠNG tây THỜI TRUNG cổ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.77 KB, 17 trang )

1
Bài thu hoạch
ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM
TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY THỜI TRUNG CỔ
---------------------------Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là một trong
những nội dung cơ bản của lịch sử triết học và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình
phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại. Bước đầu nghiên cứu nội dung lịch sử
triết học theo chương trình đào tạo sau đại học, bản thân tôi nhận thức được rằng,
chỉ có thể tìm hiểu chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm một cách đầy đủ khi
nghiên cứu chúng trong chính cuộc đấu tranh giữa chúng với nhau trải qua các
giai đoạn phát triển của lịch sử triết học. Việc nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong một giai đoạn lịch sử nhất định là một
trong những phương pháp tiếp cận để tìm hiểu nội dung và thực chất của chúng
trong suốt tiến trình phát triển; đồng thời, đây cũng là cơ sở để nhận thức rõ
nguyên lý “đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập” trong lịch sử triết học.
Chính vì lẽ đó, trong nội dung thu hoạch lịch sử triết học lần này, tôi xin đề cập
đến cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học
phương Tây thời trung cổ.
Nội dung bài thu hoạch gồm hai phần.
Phần thứ nhất:
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, XÃ HỘI, KHOA HỌC VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT
HỌC PHƯƠNG TÂY THỜI TRUNG CỔ.
1/ Điều kiện kinh tế, xã hội và khoa học:
Triết học phương Tây thời trung cổ (phong kiến) bắt đầu xuất hiện và phát
triển từ khoảng thế kỷ V đến thế kỷ XV trong điều kiện kinh tế, xã hội và khoa
học có những đặc điểm nổi bật là:


2
Từ giữa thế kỷ IV, đế quốc chiếm hữu nô lệ La Mã đã rơi vào tình trạng
khủng hoảng nghiêm trọng. Nô lệ và dân lao động nghèo đã nổi dậy khởi nghĩa


liên tục ở nhiều vùng khác nhau. Chính quyền La Mã không thể nào đàn áp được.
Vào thế kỷ V, phong trào khởi nghĩa của nô lệ càng diễn ra dữ dội ở bên trong,
cùng với sự tiến công từ bên ngoài của các bộ tộc người Giécman, Phơrăng,
Ănggơlô, Sắcsôn và Hung nô đã dẫn tới sự sụp đổ không thể tránh khỏi của đế
quốc La Mã vào năm 476. Sự kiện đó đã dẫn đến kết quả là hình thái xã hội nô lệ
cổ đại chấm dứt và chế độ phong kiến ra đời ở phương Tây, chủ yếu là ở Tây Âu
(ban đầu là vương quốc Phơrăng của người Giécman thay thế đế chế La Mã thống
trị toàn bộ châu Âu, tiếp theo đó các vương quốc Pháp, Đức, ý, Anh, Tây Ban
Nha, Bồ Đào Nha và các vương quốc khác lần lượt ra đời).
Quá trình hình thành chế độ phong kiến ở phương Tây cũng là quá trình hình
thành các lãnh địa phong kiến. Trong chế độ xã hội đó, dưới quyền thống trị của
các lãnh chúa, nền kinh tế tự nhiên, tự túc, tự cấp giữ vai trò thống trị, sản phẩm
làm ra chỉ nhằm thoả mãn cho nhu cầu của các công xã, điền trang thái ấp của
bọn địa chủ – đây là hình thức tổ chức của xã hội loài người có tính chất đóng
kín. Quyền chiếm hữu ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác, quyền tổ chức phân
công lao động xã hội cũng như quyền phân phối sản phẩm hoàn toàn thuộc về
giai cấp địa chủ phong kiến. Vì thế, trong giai đoạn đầu của thời kỳ này (từ thế kỷ
V đến thế kỷ X) đã diễn ra sự suy đồi không chỉ trên lĩnh vực kinh tế mà còn trên
các mặt của đời sống xã hội.
Về mặt tinh thần, lúc đầu là Cơ đốc giáo và sau là Thiên chúa giáo giữ vai
trò thống trị. Những giáo lý tôn giáo được xác định là những nguyên lý cơ bản về
chính trị, kinh thánh có vai trò như luật lệ bất di bất dịch trong mọi cuộc xét xử.
Giáo hội Kitô là một thế lực phong kiến to lớn và là một tổ chức tập quyền
nghiêm khắc, thống trị xã hội cả về chính trị và tinh thần, do Giáo hoàng La Mã
cầm đầu. Vương quyền có vị trí, vai trò thấp hơn thần quyền, nhà nước phong
kiến hoàn toàn phụ thuộc vào Giáo hội. Giáo hoàng và các linh mục được xem là


3
sứ giả của chúa trời. Chính vì điều đó mà Giáo hội giữ vai trò độc quyền chi phối

trong lĩnh vực văn hoá, nhà trường hoàn toàn nằm trong tay các thầy tu, triết học
được đem phục vụ cho tôn giáo và Giáo hội. Có thể nói, tín điều nhà thờ là điểm
xuất phát của mọi tư duy; thế giới quan thần học bao trùm lên triết học, luật học
và chính trị. Điều đó đã giải thích vì sao giai cấp nông dân tuy hết sức đông đảo
nhưng lại “tối tăm về trí tuệ” và bị tước hết mọi quyền hành. Vì thế, các nhà sử
học đã gọi thời kỳ này là “đêm trường trung cổ”.
Sau thời kỳ đầu suy sụp, xã hội phong kiến phương Tây bước vào giai đoạn
phát triển một cách chậm chạp cả về văn hoá vật chất lẫn tinh thần. Những cuộc
tấn công của các đội quân “Thập tự chinh” đã giúp cho phương Tây có điều kiện
tiếp xúc và hiểu biết về văn hoá phương Đông. Cùng với sự ra đời của các trường
đại học, các ngành thiên văn học và toán học được phát triển khá mạnh trong giai
đoạn từ thế kỷ XII đến thế kỷ XIV; các ngành khoa học mới như cơ học, hoá học,
vật lý học cũng bắt đầu được hình thành với các đại biểu tiêu biểu như Lêônarơ
Phibômátchi, Anbécphôn Bônstét, Rôgiê Bêcơn…
Như vậy, với sự thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ bằng chế độ phong kiến,
trong giai đoạn đầu kinh tế, xã hội, khoa học ở phương Tây có sự thụt lùi so với
thời kỳ cổ đại, nhưng xét trên phạm vi toàn thể thì nó đã có những tiến bộ lịch sử
nhất định. Đó là thời kỳ lịch sử đặc biệt mà trong những nỗi đau đớn đã sinh ra
một nền văn minh mới, chuẩn bị cho lịch sử tương lai của châu Âu, hình thành
lực lượng cho sự phục hưng mới về khoa học và văn hoá, tạo cơ sở cho sự ra đời
những “bộ tộc hiện đại”.
2/ Đặc điểm của triết học phương Tây thời trung cổ:
Xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội và khoa học như đã nêu trên; cùng với
sự tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan khác, nên triết học phương
Tây thời trung cổ có các đặc điểm nổi bật là:


4
Đề cập đến triết học phương Tây thời trung cổ thực thất là đề cập đến triết
học ở các nước Pháp, ý, Đức và Anh. Thời kỳ này, các vương quốc nói trên được

thành lập cùng với một số vương quốc khác nhưng lại có nền kinh tế và hệ thống
triết học phát triển hơn. Triết học kinh viện đạt đến sự hưng thịnh, phát triển và
suy tàn trong giai đoạn nửa cuối của thời trung cổ cũng chỉ tập trung chủ yếu ở
các vương quốc này.
Sự ra đời, phát triển và suy tàn của triết học phương Tây thời trung cổ gắn
liền với chế độ phong kiến; vì thế, xét về giai đoạn lịch sử tồn tại của phương
thức sản xuất phong kiến thì triết học phương Tây thời trung cổ bắt đầu hình
thành từ thế kỷ V và kết thúc vào thế kỷ XV. Song, nếu xét về mặt tư tưởng thì nó
bắt đầu hình thành từ thế kỷ II và kết thúc vào thế kỷ XV (do các lý thuyết triết
học phương Tây thời trung cổ chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền triết học Cơ đốc
giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ IV – thời kỳ quá độ giữa hai giai đoạn cổ đại và trung
đại, trong thời kỳ này có những đại biểu tiêu biểu là các nhà triết học và thần học
nổi tiếng như Téctuliêng, Ôguýtxtanh... Học thuyết của các ông tuy không để lại
nội dung gì có giá trị lớn nhưng lại là một mắc xích, một vòng khâu tất yếu trên
con đường phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại).
Triết học phương Tây thời trung cổ là ngọn cờ lý luận, là thế giới quan của
giai cấp địa chủ phong kiến, phản ánh sự tồn tại, phát triển và suy tàn của chế độ
phong kiến ở Tây Âu. Như trên đã đề cập, sự phân chia niên đại, thời kỳ của triết
học phương Tây thời trung cổ gắn chặt với sự tồn tại của phương thức sản xuất
phong kiến; trong đó, tính quy định của mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể đối với từng
thời kỳ của triết học khá mạch lạc, rõ ràng. Mỗi một loại hình triết học đều được
gắn với từng thời kỳ tồn tại của chế độ phong kiến.
Trong thời kỳ đầu của xã hội phong kiến phương Tây, triết học phát triển
yếu ớt và có sự thụt lùi so với thời kỳ cổ đại. Triết học phục vụ tôn giáo và chịu
sự kìm kẹp của tư tưởng thần học. Chủ nghĩa duy vật vốn gắn liền với khoa học
nên không có điều kiện phát triển trong thời kỳ này.


5
Triết học kinh viện ra đời và tồn tại từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV đã trở thành

“đầy tớ của thần học” và bảo vệ cho trật tự phong kiến. Có thể khẳng định một
cách khái quát rằng, trào lưu chính của triết học phương Tây thời trung cổ là triết
học kinh viện, một thứ triết học luôn gắn chặt với nhà trường, với tu viện và như
vậy là nó hoàn toàn xa rời, thoát ly hẳn với cuộc sống thực tiễn. Những nhà triết
học kinh viện dùng những thủ đoạn, những lý lẽ tinh vi, thuần tuý hình thức giả
tạo để biện luận cho hệ tư tưởng của Giáo hội phong kiến, họ thường viện dẫn
những sách vở mang tính giáo điều, không chú ý đến những tài liệu kinh nghiệm.
Nhiệm vụ chính của triết học kinh viện là nghiên cứu, tuyên truyền, thuyết phục
quần chúng nhân dân tin tưởng một cách tuyệt đối rằng chế độ phong kiến là do
chính Thượng đế tạo ra và hợp với “đạo Trời”.
Các nhà tư tưởng thời trung cổ còn cho rằng sự hoàn hảo của Thiên Đường
là không thể có trên cuộc sống trần gian, có nghĩa là sự công bằng, bình đẳng
không thể tồn tại trong cuộc sống thực tế của con người. Một triết gia người Anh
là Giôn Ô Saliburi (1115-1180) đã viết sách Pôlicraticut (sách cho các nhà chính
trị) giải thích về thứ tự trong xã hội: “Vua” là cái đầu; “Nghị viện” là quả tim;
“quan toà”, “thống đốc” là tai, mắt, lưỡi; “sĩ quan và binh lính” là tay; “những
viên chức tài chính” là dạ dày và ruột; nông dân” là bàn chân và luôn luôn đụng
đất. Theo cách diễn đạt này thì bàn chân không thể nào trở thành bộ óc được, tay
không thể ganh tị với mắt… Như vậy là nông dân, binh lính, luật sư, giáo sĩ, vua
chúa – mỗi người đều làm một việc do Thượng đế định sẵn. Đúng như V.I. Lênin
đã từng đánh giá: “Chủ nghĩa ngu dân tăng lữ đã giết chết các yếu tố sống và làm
cho các yếu tố chết trong học thuyết Arixtốt trở nên vĩnh cửu”, “Triết học phương
Tây thời trung cổ là thứ triết học chết, là đồ đệ của thần học, là cây thánh giá
bằng vàng ngự trị trên lâu đài của nhận thức”.
Tuy cuộc đấu tranh trong triết học phương Tây thời trung cổ giữa chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình, giữa khoa học và tôn giáo có diễn ra; thế nhưng, trong cuộc đấu tranh


6

ấy thì bao giờ ưu thế nổi trội cũng thuộc về chủ nghĩa duy tâm, nhất là trong giai
đoạn từ khi chế độ phong kiến ra đời đến khi nó phát triển hưng thịnh. Quan điểm
triết học vô thần gắn với các thành tựu của khoa học tự nhiên có tồn tại song chỉ
là những yếu tố tản mạn, rời rạc, không có hệ thống; đây cũng là nguyên nhân
dẫn đến cuộc đấu tranh không cân sức giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy
tâm.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong giai đoạn
này biểu hiện thông qua cuộc đấu tranh giữa “Phái duy danh” và “Phái duy thực”
xung quanh việc giải quyết mối quan hệ giữa cái riêng (sự vật đơn nhất, cá biệt)
và cái chung (cái phổ biến hay khái niệm chung), vấn đề này được nảy sinh xuất
phát từ việc các nhà triết học kinh viện tập trung lý giải về mối quan hệ giữa lý trí
và niềm tin tôn giáo. Từ cuối thế kỷ XIII đến thế kỷ XIV, khuynh hướng duy vật
được bộc lộ tương đối rõ trong tư tưởng của các nhà triết học thuộc Phái duy
danh. Sau thế kỷ XIV, trong xã hội Tây Âu bắt đầu thừa nhận hai chân lý: một
chân lý thuộc về niềm tin của Chúa trời và một chân lý thuộc về khoa học. Khoa
học tự nhiên và quan điểm duy vật vô thần trong triết học bắt đầu nổi trội, đây là
cơ sở hình thành nên hệ tư tưởng của giai cấp tư sản sau này, được thể hiện bởi tư
tưởng của các nhà triết học trong thời kỳ Phục Hưng và thời kỳ Khai Sáng.
Phần thứ hai:
NỘI DUNG ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA
DUY TÂM TRONG TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY THỜI TRUNG CỔ.
1/ Một số điểm khái quát về cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm trong triết học phương Tây thời trung cổ:
Các nhà triết học Mácxít đã thống nhất đánh giá rằng, hiện tượng tương đối
tích cực xảy ra trong triết học phương Tây thời trung cổ (tập trung trong giai đoạn
tồn tại của triết học kinh viện từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV) là cuộc đấu tranh giữa
“Phái duy danh” và “Phái duy thực”; trong đó, “Phái duy danh” có khuynh hướng


7

duy vật và “Phái duy thực” có khuynh hướng duy tâm. Cuộc đấu tranh này đã
được V.I. Lênin đánh giá là “có những điểm chung với cuộc đấu tranh giữa phái
duy vật chủ nghĩa và phái duy tâm chủ nghĩa”.
Do tách rời cuộc sống hiện thực và chỉ quanh quẩn trong các nhà trường và
các tu viện nên triết học phương Tây thời trung cổ mang tính chất kinh viện.
(“Kinh viện” theo nghĩa của tiếng Latinh là trường học – Schola). Về thực chất,
chủ nghĩa kinh viện là nghệ thuật tranh luận, lập luận mà không hề quan tâm đến
nội dung của cuộc tranh cãi. Điều mà các nhà triết học kinh viện quan tâm là
“định nghĩa”, “đối chiếu”, “phân mục”… vì thế, họ thường bàn đến những vấn đề
viễn vông, xa thực tế, thậm chí có những lúc họ tranh cãi với nhau rất lâu về
những “vấn đề vô bổ” không cần thiết đối với cuộc sống hiện thực, nghe có vẻ
buồn cười, đại loại như: hoa hồng trên thượng giới có gai hay không?, Thượng đế
vạn năng liệu có thể sáng tạo ra được hòn đá mà bản thân Ngài không thể mang
nổi hay không?, chuột chù có mắt hay không?, đem lợn ra chợ để bán thì cần phải
dắt hay là khiêng?... Đầu tiên, triết học kinh viện được giảng dạy trong các trường
trung học, sau đó từ giữa thế kỷ XII trở đi nó mới được giảng dạy trong các
trường đại học (thời gian này các trường đại học ở phương Tây được thành lập).
Quá trình phát triển của chủ nghĩa kinh viện được phân chia thành ba thời
kỳ: thời kỳ đầu (từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII), thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ XIII),
thời kỳ suy tàn (thế kỷ XIV - XV).
Vấn đề mối quan hệ giữa lý trí và niềm tin tôn giáo là vấn đề trung tâm chú ý
của các nhà kinh viện. Xuất phát từ quan niệm cho rằng niềm tin tôn giáo giữ vị
trí hàng đầu trong quan hệ với lý trí, nên họ đã tiến hành nghiên cứu những vấn
đề triết học có liên quan; trong đó, quan trọng nhất là vấn đề mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng.
Quá trình giải quyết vấn đề nêu trên đã làm xuất hiện hai quan điểm cơ bản:
quan điểm của các nhà triết học theo chủ nghĩa duy thực (Phái duy thực) và quan
điểm của các nhà triết học theo chủ nghĩa duy danh (Phái duy danh). Cuộc đấu



8
tranh giữa hai quan điểm này đã xuyên suốt toàn bộ lịch sử triết học kinh viện
phương Tây thời trung cổ.
“Phái duy danh” khẳng định dứt khoát rằng cái chung, khái niệm chung
không tồn tại thực, không độc lập với con người. Chúng chỉ là những cái tên
chung mà con người gán cho những sự vật riêng lẻ. Chỉ có những cái riêng lẻ mới
tồn tại thực. Thí dụ: không thể có “con người nói chung” mà chỉ có những con
người cụ thể mang những tên gọi riêng. Như vậy là họ thừa nhận “sự vật” là cái
có trước và “khái niệm” là cái có sau. Ngược lại, “Phái duy thực” lại cho rằng cái
chung hay khái niệm chung (khái niệm phổ biến) là tồn tại thực, không phụ thuộc
vào tư tưởng hay tiếng nói của con người, nó là một thực thể tinh thần nào đó và
có trước những sự vật cá biệt.
Như vậy, rõ ràng là cuộc đấu tranh giữa hai trường phái trên chứa đựng khả
năng phát triển tiếp tục hai khuynh hướng cơ bản trong triết học – chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm. Mặt triết học đằng sau cái vỏ thần học thừa nhận các sự
vật riêng lẻ là tồn tại thực, là khách quan, có thể nhận thức được thông qua cảm
giác và có trước tư tưởng, vì thế chủ nghĩa duy danh có khuynh hướng đi tới chủ
nghĩa duy vật; còn chủ nghĩa duy thực vì tách cái chung, tách khái niệm khỏi các
sự vật cụ thể, coi khái niệm chung là tồn tại thực và độc lập với thế giới sự vật
nên nó có khuynh hướng đi tới chủ nghĩa duy tâm. Do đó, không phải ngẫu nhiên
mà Giáo hội Thiên chúa trong giai đoạn đầu đã lên án quyết liệt chủ nghĩa duy
danh, đốt sách và truy nã những đại biểu của nó.
Tuy nhiên, giai đoạn sau này, không chỉ chủ nghĩa duy danh mà cả chủ nghĩa
duy thực cũng trở thành mối hiểm hoạ cho nhà thờ; bởi vì, một khi thừa nhận cái
chung tồn tại duy nhất thì trên thực tế chủ nghĩa duy thực đã gián tiếp phủ nhận
một số vị thần trong tôn giáo, làm hại đến một trong những giáo lý cơ bản của
đạo Cơ đốc là giáo lý “Tam vị nhất thể” (tuy ba ngôi nhưng lại là một: Đức Chúa
cha – Chúa trời hay Thượng đế, Đức Chúa con – Đức Chúa Jêsu và các vị thánh
thần là một).



9
Dù sao đi nữa thì quan điểm của chủ nghĩa duy danh vẫn có tính chất nguy
hiểm hơn đối với Giáo hội Thiên chúa vì khi thừa nhận chỉ có cái riêng là tồn tại
thực thì nó đã hàm ý phủ nhận vai trò của Thượng đế như là yếu tố đầu tiên đã
sinh ra muôn loài.
Hơn thế nữa, chủ nghĩa duy thực ôn hoà (trong chừng mực nào đó có sự
khác nhau với chủ nghĩa duy thực triệt để) trong thời kỳ đó đã trở thành cơ sở lý
luận của đạo Cơ đốc; cho nên, hai trào lưu chủ nghĩa này không đem lại mối nguy
hiểm giống như nhau đối với Giáo hội Thiên chúa thời trung cổ ở phương Tây.
2/ Một số nội dung cụ thể biểu hiện cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học phương Tây thời trung cổ của các
nhà triết học tiêu biểu:
a/ Giai đoạn đầu của chủ nghĩa kinh viện (từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII):
NỘI DUNG
Đại biểu

PHÁI DUY THỰC
Giăngxicôt Ơrigiennơ,

PHÁI DUY DANH
Pie Abơla,

Quan niệm về

người Ailen (810-877)
người Pháp (1079-1142)
Thể hiện rõ quan niệm duy tâm Đề cao vai trò của lý trí. Cho

mối quan hệ


thần học. Tuy cho rằng lý trí và rằng lòng tin phụ thuộc một

giữa lý trí và

lòng tin hoàn toàn dung hợp cách rõ rệt vào những cơ sở

niềm tin tôn

với nhau, phủ nhận lý trí để đề của lý trí, chính lý trí là tiêu

giáo.

cao tôn giáo hoặc phủ nhận tôn chuẩn và là sự đảm bảo cho
giáo để đề cao lý trí đều nguy tính chân lý của lòng tin tôn
hiểm cho nhà thờ, song mục giáo; phê phán nhiều đại biểu
đích cuối cùng vẫn là củng cố của nhà thờ và chỉ ra tính chất
lòng tin của tôn giáo, đề cao uy không chuẩn xác của các học

Quan niệm về

tín của nhà thờ.
thuyết thần học.
Cho rằng cái chung có trước Khẳng định khái niệm chung

mối quan hệ

cái riêng và là cơ sở của cái không tồn tại bên ngoài các

giữa cái chung riêng; cái chung là cái bản chất sự vật cụ thể, không có đời



10
và cái riêng.

của sự vật vì các sự vật đều bắt sống độc lập, nhưng nó cũng
nguồn từ cái chung và cái không tồn tại trong bản thân
chung chứa đựng các sự vật các sự vật; ý nghĩa của khái
bên trong. Mục đích là chứng niệm chung không nằm trong
minh cho sự tồn tại và vai trò bản thân từ ngữ chỉ khái niệm
tối cao của Thượng đế đối với mà nằm trong ý nghĩa của từ
đời sống của con người và giới ngữ. Có phần nào xa lìa tín
tự nhiên.

điều chính thống của nhà thờ.

b/ Giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện (thế kỷ XIII):
NỘI DUNG
Đại biểu

PHÁI DUY THỰC
Tômát Đacanh,

PHÁI DUY DANH
Đơn Xcốt,

Quan niệm về

người Italia (1225-1274)
người Anh (1265-1308)

Tuy phân định rõ ranh giới Cho rằng, đối tượng của thần

mối quan hệ

nhưng không đối lập giữa triết học là nghiên cứu Thượng đế,

giữa lý trí và

học và thần học, giữa lý trí và đối tượng của triết học (siêu

niềm tin tôn

lòng tin. Ông cho rằng, đối hình học) là tồn tại (hiện thực

giáo.

tượng của triết học là nghiên khách quan - vật chất - giới tự
cứu “chân lý của lý trí”, đối nhiên). Với quan niệm này,
tượng của thần học là nghiên Đơn Xcốt có ý tưởng cắt đứt
cứu “chân lý của lòng tin tôn mối liên hệ giữa triết học và
giáo”. Thượng đế là khách thể thần học, muốn giải phóng
cuối cùng của cả triết học và triết học khỏi ách áp bức của
thần học, là nguồn gốc của mọi Giáo hội. Tuy nhiên, ông vẫn
chân lý. Do đó, giữa triết học đề cao vai trò của lòng tin
và thần học không mâu thuẫn; nhưng cũng không hạ thấp
trong đó, triết học thấp hơn quá đáng vai trò của lý trí khi
thần học và phụ thuộc vào thần cho rằng, lý trí chỉ nhận thức
học, giống như lý trí của con được ở tồn tại những gì mà nó
người thấp hơn lý trí của không thể tách khỏi các tài



11
“Thần”. Như vậy là lý trí của liệu cảm tính, cho nên con
con người thấp hơn niềm tin người không thể có được một
tôn giáo.

khái niệm nào về bản chất phi
vật chất như Chúa trời,

Quan niệm về

Thượng đế.
Khi giải quyết vấn đề bản chất Là nhà duy danh luận, Đơn

mối quan hệ

của cái chung, Tômát đã đứng Xcốt cho rằng cái chung

giữa cái chung trên lập trường của nhà duy không chỉ là sản phẩm của lý
và cái riêng.

thực ôn hoà (phần nào dung trí, nó có cơ sở trong bản thân
hoà với chủ nghĩa duy danh để các sự vật. Cái chung vừa tồn
có lợi cho tôn giáo). Ông cho tại trong các sự vật với tính
rằng, cái chung tồn tại trên ba cách là bản chất của chúng,
phương diện: Một là, nó tồn tại vừa tồn tại sau sự vật với tính
trước sự vật trong trí tuệ của cách là những khái niệm được
Thượng đế như là mẫu mực lý con người trừu tượng hoá
tưởng của các sự vật riêng lẻ. khỏi bản chất của sự vật. Xét
Hai là, cái chung được tìm thấy đến cùng, quan điểm trên của

trong các sự vật, cái chung chỉ Đơn Xcốt tuy là sự hạn chế
tồn tại khách quan khi nó chứa lớn của chủ nghĩa duy linh
đựng các sự vật riêng lẻ. Ba là, nhưng cũng chưa hẳn là
cái chung được tạo ra sau khi nghiêng về chủ nghĩa duy vật.
các sự vật trong trí tuệ con
người bằng con đường trừu
tượng hoá tách ra khỏi các sự
vật riêng lẻ. Xét đến cùng,
quan niệm trên hoàn toàn thiên
về chủ nghĩa duy tâm. Mục
đích là chứng minh cho sự tồn
tại và vai trò tối cao của


12
Thượng đế.
c/ Giai đoạn suy thoái của chủ nghĩa kinh viện (thế kỷ XIV - XV):
NỘI DUNG
Đại biểu
Quan niệm về
mối quan hệ

PHÁI DUY THỰC
Giáo hội và các nhà triết học

PHÁI DUY DANH
Guyôm Ốccam,

theo học thuyết Tômát Đacanh
người Anh (1300-1350)

Theo học thuyết của Tômát Ốccam đã làm sâu sắc thêm
Đacanh

các quan điểm của ĐơnXcốt.

giữa lý trí và

Ông khẳng định, cũng như

niềm tin tôn

quyền lực của nhà thờ chỉ giới

giáo.

hạn ở công việc tôn giáo, thần
học chỉ thống trị trong các
vấn đề về lòng tin và dựa trên
sự “linh cảm”. Những chứng
minh có tính chất lý trí về
lòng tin là không có khả năng
và vô giá trị; cũng không thể
chứng minh được sự tồn tại
của Thượng đế và bản chất
của Ngài, đối với những tín
điều tôn giáo thì chỉ có tin mà
thôi. Tuy là người tích cực
bảo vệ lòng tin tôn giáo
nhưng với việc phân chia ranh
giới giữa phạm vi ảnh hưởng

của Giáo hội và của nhà nước
gắn với việc phân chia ranh
giới giữa lĩnh vực tri thức và
lĩnh vực tín ngưỡng của
Ốccam đã chứng tỏ sự suy


13
thoái của chính triết học kinh
viện thời kỳ này và sự từng
Quan niệm về
mối quan hệ

bước mất tác dụng của nó.
Theo học thuyết của Tômát Ốccam cho rằng, chỉ có
Đacanh

những sự vật riêng lẻ, đơn

giữa cái chung

nhất là tồn tại thực; cái phổ

và cái riêng.

biến (cái chung) chỉ tìm thấy
trong “tinh thần” và trong “từ
ngữ”. Nếu thừa nhận hiện
thực khách quan của cái phổ
biến sẽ dẫn đến sự vô lý vì cái

phổ biến không phải là những
hình ảnh tư duy đơn giản. Cái
phổ biến (cái chung) chỉ diễn
đạt, mô tả cái giống nhau
trong trong các đối tượng
riêng lẻ mà thôi. Như vậy,
thông qua lý giải về mối quan
hệ giữa cái chung và cái riêng
như đã nêu trên, chứng tỏ
rằng triết học của ông có
khuynh hướng duy vật.

Trước khi chủ nghĩa kinh viện chính thức bước vào giai đoạn suy thoái, đồng
thời một trong những yếu tố dẫn tới điều đó là sự xuất hiện của khoa học thực
nghiệm (đại biểu là Rôgiê Bêcơn), đã tạo điều kiện thuận lợi cho triết học và khoa
học chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
Rôgiê Bêcơn (1214-1294) là người Anh, một trong những người đề xướng vĩ
đại nhất của khoa học thực nghiệm thời kỳ mới. Triết học của Rôgiê Bêcơn đóng


14
vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại triết học kinh viện của các đại
biểu trước đó.
Bê Cơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng nghiên cứu của triết học, đó
là khoa học lý luận chung giảI thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận, triết
học đem lại cho các khoa học cụ thể những quan điểm lý luận cơ bản và dựa vào
những thành quả của các khoa học bộ phận đó. Ông còn đề cao vai trò của kinh
nghiệm khi cho rằng, phải dựa vào kinh nghiệm để nhận thức nguyên nhân của
“hiện tượng”, thay cho lối nói rỗng tuếch, hình thức của triết học kinh viện.
Theo Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là do uy tín, lý trí và kinh nghiệm,

nhưng uy tín phảI được chứng minh bằng kinh nghiệm và thực nghiệm. Ông rất
coi trọng tri thức khoa học thông qua câu nói “Không có sự nguy hiểm nào lớn
hơn sự ngu dốt”. Ông còn coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn của nhân lý, là thước đo
lý luận và khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học.
Tuy Rôgiê Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ nhưng ông cũng chưa thoát khỏi
sự chi phối của thời đại, nhất là sự chi phói của thần học và tôn giáo, điều này
được biểu hiện ở chỗ ông đã tuyên bố thừa nhận sự lệ thuộc của triết học vào lòng
tin, đồng thời đi sâu nghiên cứu về “tính chất rõ ràng của tư tưởng” xuất phát từ
mẫu mực đầu tiên của Thượng đế và về “lý trí hoạt động tiên nghiệm”...
Tóm lại, xã hội phong kiến phương Tây thời trung cổ là xã hội thống trị bởi
hệ tư tưởng tôn giáo. Triết học chính thức của xã hội đó là chủ nghĩa kinh viện
dựa trên quan điểm duy tâm, bóp nghẹt và chặn đứng sự phát triển của khoa học.
Hỗu hết các nhà tư tưởng của trào lưu triết học này đều đặt mục đích cao nhất là
phục vụ cho tôn giáo và nhà thờ, nên họ đã ra sức xuyên tạc học thuyết của các
nhà triết học tiến bộ thời cổ, đặc biệt là của Arixtốt.
Tuy nhiên, trong sự thống trị nặng nề của tôn giáo và thần học ở thời kỳ này
cũng đã xuất hiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và
trong các phong trào “tà giáo” chống lại chủ nghĩa duy tâm “ngu dân” của nhà


15
thờ Thiên chúa. “Tà giáo” phát triển mạnh cũng là biểu hiện về mặt tư tưởng của
những phong trào của nhân dân chống lại sự thống trị của giai cấp phong kiến
quý tộc và Giáo hoàng chính thống.
Cần thống nhất nhận thức rằng, xã hội phong kiến phương Tây thời trung cổ
và các trào lưu triết học của nó không phải là sự “đứt đoạn” hay “sụp đổ” của tiến
trình lịch sử nhân loại. Lịch sử triết học thời kỳ này dù rất phức tạp và đầy mâu
thuẫn không kém phần gay gắt, song nó vẫn chứa đựng những nhân tố chuẩn bị
cho sự khôI phục những học thuyết duy vật thời cổ đại và tiếp tục phát triển
chúng trong thời đại của chủ nghĩa tư bản.

Kết luận:
Nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm
trong triết học phương Tây thời trung cổ (thông qua đấu tranh của “Phái duy
thực” và “Phái duy danh”) không chỉ giúp chúng ta được bổ sung kiến thức về
lịch sử triết học, mà còn giúp chúng ta hiểu được thực chất cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong tiến trình phát triển tư tưởng của
nhân loại, thực chất đây là sự thống nhất và đấu tranh giữa hai mặt đối lập bên
trong sự vật hiện tượng, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, điều này đã thể
hiện tính quy luật chung trong sự phát triển của tư tưởng triết học.
Nghiên cứu một giai đoạn phát triển đặc thù của lịch sử triết học là triết học
phương tây thời trung cổ còn cho chúng ta thấy rằng cuộc đấu tranh giữa chủ
nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm không tách rời cuộc đấu tranh giữa hai
phương pháp nhận thức đối lập nhau là phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình. Dĩ nhiên, không thể không thừa nhận rằng, sự hình thành và phát triển
của các phương pháp nhận thức còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của quá trình phát
triển khoa học, kỹ thuật và trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội.
Quá trình nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm trong triết học phương Tây thời trung cổ còn giúp chúng ta củng cố thêm
nhận thức của mình ở chỗ, thấy được triết học là một trong những hình thái ý


16
thức xã hội, là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng; xét đến cùng, nó bị quy
định bởi đời sống vật chất của xã hội. Do đó, sự phát triển của các tư tưởng triết
học cũng bị quy định bởi sự phát triển của nền sản xuất vật chất, cũng phụ thuộc
vào sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Triết học cũng là thế
giới quan của những giai cấp hoặc tập đoàn xã hội nhất định. Vấn đề này được
thể hiện khá rõ khi nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa duy tâm trong triết học phương Tây thời trung cổ.
Nghiên cứu cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

trong triết học phương Tây thời trung cổ giúp chúng ta có cơ sở lý luận để tích
cực nghiên cứu, góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng và lý luận hiện nay, cũng
như việc xây dựng thế giới quan khoa học lành mạnh, trên cơ sở thấy được tính
chất đúng đắn, tiến bộ của thế giới quan duy vật chủ nghĩa và tính chất hạn chế,
phản khoa học của thế giới quan duy tâm chủ nghĩa.
Trên cơ sở đó, kiên quyết chống lại sự xuyên tạc của triết học tư sản đối với
chủ nghĩa duy vật, nhất là chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác và Ăngghen,
chống lại mọi thứ cơ hội chủ nghĩa nhằm biện hộ cho chủ nghĩa tư bản trong khi
chúng lập luận một cách hàm hồ, phản động và phản khoa học rằng, toàn bộ lịch
sử phát triển của triết học, thì triết học thời đại tư bản chủ nghĩa là sự phát triển
hợp logic của lịch sử và ngoài nó ra không cần đến thứ triết học nào nữa (!!)…
vạch rõ các thủ đoạn xảo trá trong việc đánh giá vô căn cứ về các nhà triết học
tiến bộ nhằm hạ thấp vai trò của họ, cũng như việc tâng bốc một số nhà triết học
phản động về mặt lịch sử.
Việc nghiên cứu nội dung nói trên còn đặt cơ sở khoa học cho chúng ta trong
việc việc tiếp tục nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đó là
triết học của đời sống thực tiễn và cũng chỉ có đời sống thực tiễn mới làm cho
triết học phát triển. Điều đó được vận dụng ngay trong quá trình cách mạng hiện
nay. Nếu chủ nghĩa duy vật biện chứng ăn sâu bám chắc vào đời sống thực tiễn
thì nó sẽ khắc phục được mọi thứ giáo điều.


17
Từ đó, vấn đề quan trọng là: mỗi chúng ta không chỉ kiên định chủ nghĩa
Mác-Lênin, không chỉ tích cực làm cho học thuyết triết học này cùng với tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn giữ vai trò thống trị trong đời sống tinh thần của toàn xã
hội, mà còn phải nghiên cứu, bổ sung, phát triển, đảm bảo cho hệ tư tưởng đó
luôn đáp ứng tốt với yêu cầu của thực tiễn. Đây cũng là một trong những yêu cầu
đối với mỗi học viên đào tạo sau đại học chuyên ngành triết học nói riêng và các
chuyên ngành khoa học khác nói chung./.




×