Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

bài tập tốt nghiệp: Một số trò chơi phát triển cảm xúc cho trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.37 MB, 30 trang )

Chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại Học Sư Phạm TP
HCM, các thầy cô giáo khoa Giáo dục Mầm Non đã giúp em trong quá trình học tập
tại trường và tạo điều kiện cho em thực hiện bài tập tốt nghiệp.
Đặc biệt vô cùng biết ơn ThS. Phạm Hoài Thảo Ngân đã tận tình hướng dẫn
giúp đỡ tôi hoàn thành bài tập và qua bài tập này thầy cô đã cho chúng em một hành
trang vững chắc để bước tiếp trên con đường sự nghiệp “mười năm trồng cây, trăm
năm trồng người”
Chúng em xin chân thành cảm ơn toàn thể các cô giáo trong trường mầm non
Hoa Hồng đã giúp đỡ em có được những tư liệu tốt.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã luôn giúp đỡ động
viên em trong quá trình học tập và thực hiện bài tập này.
Xin chúc các thầy cô giáo sức khỏe, kính chúc cô giáo ThS. Phạm Hoài Thảo
Ngân tiếp tục đạt được nhiều thành công lớn trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Đắk LẮK: Năm 2018
Sinh Viên

1


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài:……………………………… ………………………........4
II. Mục đích nghiên cứu………………………………………………………...5
III. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………………5
IV. Gỉa thuyết khoa học………………………………………………………...5
V. Phương pháp nghiên cứu:……………………………………………….….6
PHẦN II: NỘI DUNG.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT CẢM
XÚC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
I. Cơ sở sinh lý luận:……… …………………………………………............7-9
1. Khả năng nhận biết cảm xúc của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi……………………


2. Đặc điểm phát triển đời sống xúc cảm – tình cảm của trẻ 4-5 tuổi………..
3. Vai trò của khả năng nhận biết cảm xúc của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi:………
4. Quan điểm giáo dục “lấy trẻ làm trung tâm”……………………………..
II. Hoạt động vui chơi:…………………………………………………..…..9-12
CHƯƠNG II: SƯU TẦM CÁC TRÒ CHƠI, HOẠT ĐỘNG NHẰM PHÁT
TRIỂN KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT CẢM XÚC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI.
I. Nội dung: …………………………………………………………………..14
1. Sưu tầm các trò chơi nhằm phát triển khả năng nhận biết cảm xúc cho trẻ 4 –
5 tuổi: …………………………………………………………………………….
PHẦN III: KẾT LUẬN CHUNG…………………………………………..26
TÀI LIỆU THAM KHẢO:………………………………………………..…27
PHỤ LỤC:………………………………………………………………...28-34

2


PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Như chúng ta đã biết, chơi là nhu cầu tự nhiên không thể thiếu đối với cuộc
sống của trẻ. Một đứa trẻ biết phát huy những sáng kiến trong khi chơi, biết chủ động
tạo ra những tình huống, vận dụng một cách linh hoạt các công cụ khi chơi, tưởng
tượng ra nhiều nhân vật, phương cách ... để trò chơi tăng thêm phần hấp dẫn. Đó sẽ là
một học sinh thành công trong việc học, miễn là cháu được giáo dục trong một môi
trường tích cực, có nhiều hoạt động thúc đẩy sự tích cực, chủ động. Đối với phần lớn
cha mẹ, thì nhiệm vụ chủ yếu của trẻ là học, nhưng hoạt động mà trẻ quan tâm đến
nhất lại là chơi. Đó có phải chăng là điều mâu thuẫn? Thực ra, chính việc trẻ chơi đùa
một cách thích thú, sẽ là cơ sở để trẻ học hỏi một cách tích cực, chủ động và sáng tạo.
Tất cả các hoạt động vui chơi mà trẻ tham dự đều xây dựng cho trẻ khả năng nhận
thức, tình cảm. Giúp trẻ phát triển thể lực, kỹ năng để làm nền tảng cho việc học tập
sau này

Vui chơi, giải trí, du lịch là một nhu cầu của con người không thể thiếu được
trong cuộc sống, dù tên gọi khác nhau nhưng chúng có chung một điểm là làm cho
con người được thoải mái, thư giãn, nhẹ nhàng sau những thời gian làm việc mệt mỏi,
căng thẳng. Một khi tâm hồn con người được thư thái thì thể xác mới được khỏe
mạnh, họ mới có đầy đủ nghị lực để làm việc một cách tích cực hơn, hiệu quả hơn
trong thời gian tới
Ở trẻ em có rất nhiều dạng hoạt động khác nhau như: Hoạt động vui chơi, hoạt
động học tập, hoạt động lao động, hoạt động giao tiếp… Trong các hoạt động thì vui
chơi là một hoạt động quan trọng trong đời sống tuổi thơ của trẻ. Ở trường mầm non,
hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo được giáo viên tổ chức,
hướng dẫn nhằm giúp trẻ thỏa mãn các nhu cầu vui chơi và nhận thức, đồng thời
nhằm giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ ở lứa tuổi này. Hoạt động vui chơi của
trẻ là dạng hoạt động phản ánh sáng tạo, độc đáo hiện thực, tác động qua lại giữa trẻ
và môi trường xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, nhu cầu nhận thức của
trẻ lần đầu tiên trong hoạt động vui, nhu cầu nhận thức của trẻ. Lần đầu tiên trong
hoạt động vui chơi, trẻ thực sự là một chủ thể hoạt động tích cực, trẻ trò chuyện, giao
tiếp, vận dụng các ấn tượng, kinh nghiệm đã có để thực hiện ý đồ chơi, nhờ thế mà
nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển. Ở các trường Mầm Non hiện nay,
việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ đã được giáo viên quan tâm thực hiện.
Chính vì vậy mà các nhà giáo dục đã đưa ra phương pháp “ học mà chơi, chơi
mà học” làm con đường giáo dục cơ bản ở trường mầm non. Để đáp ứng với nhu cầu
chơi của trẻ từng độ tuổi đòi hỏi các giáo viên phải biết cách xây dựng và tổ chức các
trò chơi phù hợp nhằm giúp cho hoạt động này thực hiện đạt kết quả cao và cũng
giúp giáo viên mở rộng kiến thức về tổ chức hoat động vui chơi cho trẻ tại trường
mầm non, giúp trẻ hứng thú tìm tòi, khám phá, tích cực trong học tập, chúng em xin
3


chọn và nghiên cứu đề tài “ Sưu tầm các trò chơi, hoạt động nhằm phát triển khả năng
cảm xúc cho trẻ 4 – 5 tuổi ” với mong muốn được tìm hiểu vấn đề này sâu hơn, nhằm

nâng cao và tích lũy kinh nghiệm chuyên môn cho mình. Đó cũng là hành trang cho
mình để hoàn thiện bản thân và có kỹ năng ngiệp vụ nhiều hơn khi hướng dẫn trẻ
tham gia vào hoạt động vui chơi một cách tích cực và có phương pháp hợp lý. Qua
tham khảo tài liệu và thực tế đứng lớp, tôi xin hứa sau khi hoàn thành bài nghiên cứu
này sẽ áp dụng vào các hoạt động dạy để góp phần chăm sóc giáo dục trẻ phát triển
một cách toàn diện.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Chúng em nghiên cứu đề tài này với mục đích tìm hiểu sâu hơn về hoạt động
vui chơi nhằm phát triển khả năng cảm xúc cho trẻ 4 – 5 tuổi nhằm giúp trẻ, nâng cao
phát triển khả năng sáng tạo và tưởng tượng của trẻ, tạo hứng thú tích cực cho trẻ ham
học và vui chơi để từ đó nâng cao hiệu quả của việc phát triển tư duy, thể lực…mang
tính tích hợp nhằm phát triển và giáo dục toàn diện cho trẻ.
III. ỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THẾ NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng nghiên cứu:
Trẻ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non Hoa Hồng – Huyện CưKuin – Tỉnh Đak
Lak.
2. Khách thể nghiên cứu:
Sưu tầm và tự nghĩ ra làm thế nào để tổ chức ra các trò chơi mới nhằm phục vụ
công tác giáo dục trẻ mầm non.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thông qua
hoạt động vui chơi trẻ không những được chơi mà còn được khám phá biết bao điều
mới lạ trong quá trình chơi. Vì vậy, nếu chúng ta biết cách tổ chức hoạt động vui chơi
một cách hợp lý, trẻ không những được thoải mái về tinh thần mà còn được củng cố
và tiếp thu những tri thức mới, và việc tổ chức hoạt động vui chơi sẽ đạt được kết quả
cao hơn, trẻ có hứng thú và tích cực tham gia vào hoạt động hơn. Nếu việc xây dựng
và hệ thống hóa một số trò chơi cho trẻ trong chủ đề giáo dục tại trường mầm non
Hoa Hồng – Huyện CưKuin – Tỉnh Đak Lak thành công thì giúp giáo viên có thêm
kinh nghiệm trong chuyên môn, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục
trong trường.

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Để giải quyết tốt các nhiệm vụ đã đưa ra của đề tài. Chúng em đã tiến hành
nghiên cứu thông qua các phương pháp sau:
1. Phương pháp đọc tài liệu.
Sử dụng các tài liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu như: Giáo dục học,
Tâm lý học, đọc các sách báo có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
2. Phương pháp quan sát.
Tiến hành quan sát trẻ chơi trong các góc: Phân vai, Xây dựng, Học tập, Nghệ
thuật ( tạo hình, âm nhạc ), Thiên nhiên. Qua đó, thu thập được những tài liệu cụ thể,
4


sinh động, tự nhiên, làm cơ sở cho quá trình tư duy khoa học như: Quan sát sự hợp tác
của trẻ trong khi chơi, sự phân công vai chơi và ý thức đối với trò chơi trẻ tham gia.
3. Phương pháp trò chuyện.
Trò chuyện trực tiếp với trẻ để tìm hiểu cách chơi, khả năng tham gia vào hoạt
động chơi. Đặt ra các câu hỏi để đối thoại với trẻ và dựa vào các câu trả lời của trẻ để
thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu.
4. Phương pháp điều tra.
Thời gian tiến hành điều tra tại trường Mầm Non Gia Điền. Trong đó tiến hành
điều tra về các mặt: Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động vui chơi của trẻ. Ghi chép
lại cách hướng dẫn của giáo viên cho trẻ mẫu giáo trong hoạt động vui chơi. Nắm bắt
được đặc điểm tâm lý của trẻ, thái độ của trẻ trong hoạt động vui chơi.
5. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Sản phẩm của trẻ bộc lộ thái độ, tính cách của trẻ trong hoạt động. Vì vậy, qua
phương pháp nghiên cứu sản phẩm trẻ làm ra để đánh giá nhận thức và khả năng thực
hiện của trẻ . Từ đó, có những biện pháp tổ chức thực hiện hoạt động vui chơi cho trẻ
mẫu giáo một cách phù hợp và hợp lý.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT CẢM XÚC CỦA

TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Tuổi ấu thơ, ai trong chúng ta cũng một lần trải qua cái thời chơi đồ chơi bằng
lá cây, bằng dây cuốn của các loại dây leo. Lấy đất nặn để nặn thành nồi, chảo, bát …,
lấy rơm hoặc dây len cuốn lại thành hình búp bê…Đối với trẻ nhỏ, ta sử dụng phương
pháp giảng dạy chủ yếu là trực quan sinh động, như vậy đồ chơi là một nhu cầu thiết
yếu, không thể thiếu được trong cuộc sống. Nó cần cho trẻ như thức ăn và nước uống.
Ngày nay, trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế phát triển, đồ
chơi cho trẻ cũng rất phong phú, hiện đại. Trong số đó, có những loại đồ chơi bổ ích,
nhưng cũng không ít đồ chơi còn mang tính bạo lực, phi giáo dục, độc hại đối với trẻ
em. Những loại đồ chơi phù hợp để phát triển trí tuệ cho trẻ mang tính giáo dục càng
được bổ sung phong phú đa dạng bao nhiêu thì kích thích được tính tò mò ham hiểu
biết cùng khám phá của trẻ bấy nhiêu. Đồ dùng, đồ chơi phải phù hợp với quy luật
phát triển trí tuệ của trẻ ở đúng độ tuổi mới có tác động góp phần hình thành và phát
triển trí tuệ ở trẻ. Trẻ mầm non luôn có nhu cầu với đồ chơi mới, đặc biệt là trẻ 4 - 5
tuổi thích được tự tay tạo ra đồ chơi cho mình. Để thỏa mãn được nhu cầu đó của trẻ
đòi hỏi giáo viên mầm non phải luôn sáng tạo ra nhiều đồ dùng, đồ chơi phù hợp với
nội dung bài dạy, phù hợp với tình huống giáo dục trong các hoạt động.
Qua quá trình giáo dục đó trẻ có những cơ sở, nền tảng để tham gia vào các
hoạt động giáo dục sau này và có hiểu biết ban đầu về môi trường xung quanh. Hoạt
động chủ đạo của trẻ ở lứa tuổi này là hoạt động vui chơi. Nhưng không vì thế mà mất
5


đi tính chất giáo dục của nó, trẻ không chỉ tham gia chơi một cách thuần túy mà thông
qua các phương pháp, cách tổ chức hướng dẫn trò chơi giáo viên cho trẻ được làm
quen và lĩnh hội những kiến thức ban đầu ở nhiều phương diện và khía cạnh khác
nhau. Và để có phương pháp tổ chức hoạt động chơi phát triển cảm xúc phù hợp với
từng độ tuổi thì giáo viên cần nắm rõ đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ.
Đặc điểm phát triển tâm lý của trẻ 4 -5 tuổi:

Trẻ 4 – 5 tuổi: Hoàn thiện về mặt hoạt động vui chơi khi trẻ thể hiện tự lực, chủ
động. Tức là, trẻ biết chọn chủ đề chơi, và tư duy của trẻ cũng phát triển cao hơn. Tư
duy của trẻ ở lứa tuổi này là tư duy trực quan hình tượng và tư duy loogic bắt đầu phát
triển.
1. Khả năng nhận biết cảm xúc của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi.
1.1. Cảm xúc
a. Định nghĩa: “ Cảm xúc là sự phản ánh tâm lý về mặt ý nghĩa rung động của
các hiện tượng và hoàn cảnh, tức các mối quan hệ giữa các thuộc tính khách quan của
chúng với nhu cầu của chủ thể, dưới hình thức những rung động trực tiếp”.[8, tr. 24]
Theo từ điển “ Random House Dictionary of the English Language” định nghĩa:
Cảm xúc chính là những phản ứng mạnh mẽ của ý thức được thể hiện bằng sự vui
mừng, đau khổ, sợ hãi, yêu, ghét, và khác biệt với những phản ứng của ý chí và tư
duy.” [54, tr.19]
Theo từ điển Tâm lý học của tác giả Nguyễn Khắc Viện định nghĩa về cảm xúc
như sau: Cảm xúc là phản ứng rung chuyển của con người trước một kích động vật
chất hoặc một sự việc gồm hai mặt: những phản ứng sinh lý do thần kinh thực vật như
tim đập nhanh, toát mồ hôi, nội tiết tăng hay giảm, cơ bắp co thắt, hoặc run rẩy, rối
loạn tiêu hóa. Phản ứng tâm lý qua những thái độ, lời nói, hành vi và cảm giác dễ
chịu, khó chịu, vui sướng, buồn khổ, có tính bộc phát, chủ thể kiềm chế khó khăn”
Theo nhà tâm lý học người Mỹ John Mayer thì “ Cảm xúc là một trạng thái tinh
thần (bao gồm trong đó những quá trình và phản ứng tâm lý) truyền tải những thông
điệp từ phía các mối quan hệ xã hội của cá nhân”[54, tr. 20]
Theo các tác giả Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Quang Uẩn đều có chung một
nhận định về cảm xúc: “Đó là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối
với nhưng sự vật, hiện tượng của hiện thực, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối
liên hệ với nhu cầu và động cơ của con người”[39, tr.53]
Như vậy, khi nhắc đến cảm xúc thì nó là một khái niệm thuộc lĩnh vực tình cảm
của con người. Đó chính là những cảm xúc ổn định, được hình thành trong cuộc sống
nhờ quá trình tổng hợp hóa và khái quát hóa những cảm xúc cùng loại. Khi tình cảm
được hình thành thì tình cảm được biểu hiện ra bằng các cảm xúc đa dạng. Trong

nghiên cứu này, thuật ngữ “cảm xúc” có thể được hiểu như sau: “Cảm xúc là những
thái độ thể hiện sự rung động của con người với thế giới xung quanh khi chúng có
mối liên hệ với nhu cầu của chủ thể”. Các rung động này thể hiện ra như những phản
ứng cảm xúc đơn giản trong một tình huống cụ thể gọi là xúc cảm. Các xúc cảm được
lặp đi lặp lại và phát triển trong điều kiện xã hội, trở thành thái độ ổn định và thành
thuộc tính của nhân cách được gọi là tình cảm.
6


1.2. Cảm nhận cảm xúc John Mayer phân ba nhóm người theo đặc điểm
cảm xúc:
- Có ý thức về bản thân mình (có tâm lý tốt, tình cảm tinh tế, có ý thức về giới
hạn của bản thân, có quan điểm sống tích cực);
- Để xúc cảm nhấn chìm (thất thường, không có ý thức về tình cảm của mình,
không cố gắng thoát khỏi tâm trạng xấu);
- Chấp nhận các thiên hướng của tinh thần (vừa có ý thúc về cảm xúc vừa
buông xuôi không làm gì cả). Nhận biết được cảm xúc giúp ta hiểu rõ được bản thân
cũng như thấu hiểu người khác. Nhận thức được cảm xúc của người khác và biết cách
thích hợp đáp lại những cảm xúc ấy là một trong những yếu tố quan trọng nhất của
năng lực xã hội. Do cảm xúc có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả công việc và các
mối quan hệ, nên việc nhận diện được cảm xúc của bản thân và của những người
xung quanh cùng với nguyên nhân nảy sinh là yếu tố quyết định để có cách ứng xử
hợp lý trước mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống. John Mayer: “Ý thức về bản thân
có nghĩa là đồng thời có ý thức về tâm trạng tức thời và cả về những gì liên quan với
tâm trạng ấy”. Vì vậy, cần phải có ý thức về những cảm xúc của mình ngay từ khi vừa
xuất hiện, để hạn chế những bất lợi từ những hành động thiếu lý trí. Nhận thức được
cảm xúc của bản thân là khám phá quan trọng để làm chủ bản thân và tự thay đổi
mình. Trong nghiên cứu này thì khái niệm cảm nhận cảm xúc được hiểu như sau: “
Nhận biết cảm xúc là khả năng nhận diện cảm xúc của chính bản thân cũng như của
người khác để có những ứng xử phù hợp với những cảm xúc ấy trong mọi tình huống

trong cuộc sống”.
Thể hiện cảm xúc Theo từ điển Tiếng Việt, thể hiện là làm cho thấy rõ nội dung
trừu tượng nào đó bằng một hình thức cụ thể.
Ví dụ như hành động thể hiện sự quyết tâm. Những trạng thái cảm xúc như vui,
buồn, tức giận, xấu hổ, ngạc nhiên sợ hãi mà chúng ta thấy ở một người đó chính là sự
thể hiện cảm xúc ra bên ngoài bằng những phương tiện khác nhau. Theo Damiel
Goleman, ông cho rằng cảm xúc thúc đẩy hành động, đặc biệt là ở trẻ em. Những điều
diễn ra bên trong thân thể và não bộ cho thấy mỗi trạng thái cảm xúc chuẩn bị cho
thân thể một kiểu phản ứng khác nhau:
- Sự giận dữ làm cho máu dồn tới bàn tay, khiến người ta thể hiện một hành
động nào đó rất quyết liệt. Ví dụ: có thể đánh người khác.
- Sự sợ hãi đưa máu tới các cơ quan chỉ huy sự vận động của thân thể, như cơ
bắp chân chuẩn bị bỏ chạy, làm cho mặt tái đi do máu bị dồn đi nơi khác.. Thân thể tê
liệt trong một khoảnh khắc.
- Sự vui sướng được đặc trưng bằng hoạt động tăng lên của trung tâm não
nhằm ức chế những tình cảm tiêu cực và làm tăng lên năng lượng hiện có, cũng như
làm chậm lại hoạt động của trung tâm gây lo lắng.
- Sự ngạc nhiên làm lông mày nhướn lên, tâm nhìn mở rộng luồng ánh sáng lọt
tới võng mạc tăng lên.
- Sự căm ghét luôn gây ra bực mình. Biểu hiện của khuôn mặt là môi trể xuống
ở hai cạnh còn mũi hơi nhăn lại.
7


- Sự buồn rầu giúp người ta chịu đựng tổn thất đau đớn làm năng lượng suy sút
và giảm niềm hứng khởi đối với mọi người trong cuộc sống. Khi buồn thường làm
cho con người dễ bị tổn thương và suy sụp. Như trên đã nói, mỗi trạng thái cảm xúc
có những biểu hiện và cách thể hiện riêng ra bên ngoài bằng những hành động khác
nhau. Thể hiện cảm xúc là những biểu hiện của những rung động của con người,
những phản ứng cảm xúc đơn giản trong một tình huống cụ thể ra bên ngoài tương

ứng với trạng thái cảm xúc mà chủ thể đang có.
Cảm xúc cũng được kết nối với hành vi. Khi nhận diện được cảm xúc của chính
bản thân cũng như của người khác thì chúng ta nhận ra rằng chúng ta đang hành động
một cách để gửi một thông điệp rõ ràng cho người khác, có thể suy ra những gì đang
cảm thấy từ hành vi đó. Kỹ năng chủ yếu và quan trọng nhất để phát triển trí tuệ cảm
xúc đó chính là nhận biết các trạng thái cảm xúc, thực tế nếu không nhận biết chính
xác những trạng thái cảm xúc đang diễn ra, con người sẽ không biết được mình cần
làm gì, kiểm soát cái gì, xử lý cảm xúc của mình ra sao. Theo lý thuyết về sự thông
minh cảm xúc, cần quan tâm đến cảm xúc của hai đối tượng: ở người khác và ở bản
thân mình. Bản thân phải biết mình đang có những cảm xúc gì, có thể mô tả cho
người khác hiểu những cảm xúc đó, truyền đạt rõ ràng các cảm xúc cho người khác.
Bên cạnh đó phải biết thấu cảm, đồng cảm, đánh giá đúng, truyền cảm hứng, khuyến
khích và an ủi người khác. Một yếu tố quan trọng nữa trong kỹ năng cảm nhận và thể
hiện cảm xúc đó chính là biết làm chủ hay kiểm soát cảm xúc bản thân. Khi kiểm soát
được cảm xúc thì chúng ta có thể điều khiển hành động, kiểm soát sự kích động của
cảm xúc, hạn chế được những hành động không mong muốn. Làm chủ cảm xúc bản
thân bao hàm cả việc điều chỉnh cảm xúc bản thân, hạn chế hoặc dập tắt những cảm
xúc tiêu cực đồng thời tạo ra và duy trì những cảm xúc tích cực trong những tình
huống nhất định đang diễn ra trong cảm xúc bản thân. Qua đó có thể điều khiển cảm
xúc của người khác: làm họ bình tĩnh trở lại khi đang nóng giận, làm họ vui vẻ khi họ
đang buồn,… Một khi nhận ra cảm xúc thì có thể hiểu rõ cảm xúc đó là gì mà có cách
thể hiện cho phù hợp. Mỗi hành vi mà con người thể hiện trong cuộc sống phần lớn
thông qua cảm xúc. Để thể hiện được cảm xúc thì việc đầu tiên con người cần là cảm
nhận được cảm xúc. Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc là khả năng nhận diện
cảm xúc của chính bản thân cũng như của người khác và phản ứng với những cảm
xúc đó ra bên ngoài bằng các phương tiện khác nhau.
2. Đặc điểm phát triển đời sống xúc cảm – tình cảm của trẻ mẫu giáo 4-5
tuổi.
Sự phát triển kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc diễn ra cùng với sự phát
triển tâm lý chung của trẻ dưới ảnh hưởng của điều kiện sống và giáo dục. Trẻ sơ sinh

mới chỉ có những phản ứng cảm xúc không điều kiện. Chẳng hạn khi có tiếng động to
thì có phản ứng sợ, trẻ biểu lộ bằng cách khóc lên. Những âm thanh nhỏ nhẹ, sự xoa
dịu, đu đưa…kích thích phản ứng tiêu cực biểu hiện ở chỗ trẻ nằm yên…Trong quá
trình tham gia các hoạt động đa dạng do người lớn tổ chức, cũng như các mối quan hệ
với những người xung quanh được mở rộng, ở trẻ nảy sinh những nhu cầu và hứng
thú mới. Hứng thú của trẻ lan sang thế giới rộng lớn của sự vật hiện tượng và sự kiện
8


xung quanh, đồng thời các cảm xúc của trẻ trở nên phức tạp hơn, phong phú hơn. Đến
3 tuổi, thời gian đầu, cảm xúc và tình cảm của trẻ chưa có tính ổn định, mau thay đổi.
Trẻ có thể rất thích thú một cái gì đó, nhưng cũng rất dễ dàng chán. Các em có thể
khóc rồi cười nhanh chóng. Ở độ tuổi này, các bé bắt đầu có tình cảm đối với những
người gần gũi như cha mẹ, anh chị, ông bà. Sau đó xuất hiện thêm những hình thái
mới: Đứa trẻ mong được người lớn khen ngợi, âu yếm và rất sợ khi người lớn tỏ ra
không bằng lòng. Đối với bạn cùng tuổi, bé cũng đã bộc lộ được mối thiện cảm của
mình bằng cách dỗ dành hay chia sẻ bánh kẹo, đồ chơi cho bạn. Trẻ cũng thường bị
ảnh hưởng xúc cảm của người khác, ví dụ thấy bạn khóc thì khóc theo, thấy mẹ buồn
cũng buồn theo, thấy bạn chơi đùa vui vẻ cũng cười theo… Đặc biệt, ở lửa tuổi này
trẻ bắt đầu hình thành tình cảm tự hào. Vì vậy, lời khen ngợi của cha mẹ hoặc sự tán
thưởng của những người xung quanh là nguồn cổ vũ quan trọng giúp hình thành tình
cảm tự hào của trẻ. Sau đó, xuất hiện thêm tình cảm xấu hổ: Trẻ cảm thấy xấu hổ mỗi
khi hành động của mình trái với mong mỏi của người lớn hoặc bị người lớn chê trách.
Nếu được giáo dục tốt, tình cảm tự hào và xấu hổ nơi các em sẽ phát triển mạnh, từ đó
thúc đẩy trẻ thực hiện những hành động tốt. Vào cuối tuổi mẫu giáo, xúc cảm tiếp tục
phát triển và chi phối các quá trình tâm lý khác của trẻ. Nét đặc biệt trong đời sống
tình cảm của trẻ 4- 5 tuổi là sự hình thành tương đối rõ nét của các tình cảm bậc cao
như: tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm thẩm mĩ….
- Tình cảm trí tuệ, biểu hiện ở chỗ trẻ ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá những gì
còn mới lạ và bí ẩn.

- Tình cảm đạo đức thể hiện ở chỗ, trẻ dễ xúc cảm và đồng cảm với con người
với những cảnh vật xung quanh, nhất là trẻ rất dễ thương cảm đối với những người
tàn tật hay gặp phải những cảnh ngộ éo le. Không chỉ với con người mà còn với động
vật, cây cối, trẻ cũng bộc lộ tình cảm yêu thương. Đối với trẻ, tất cả đều mang hồn
người. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để giáo dục lòng nhân ái cho trẻ.
- Tình cảm thẩm mĩ, thể hiện ở chỗ trẻ biết yêu thích cái đẹp xung quanh, mong
muốn làm ra cái đẹp để mang đến niềm vui cho chính mình và cho mọi người. Ở tuổi
này, trẻ rất thích những loại hình nghệ thuật, những bức tranh đẹp, những bài hát hay,
những chuyện cổ tích đầy chất huyền thoại đều rất dễ cuốn hút lòng say mê của trẻ và
để lại những dấu ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn. Do vậy, giáo dục bằng nghệ thuật
đối với lứa tuổi này là phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất. Đời sống tình cảm
của trẻ ở lứa tuổi này phong phú và sâu sắc hơn rất nhiều so với lứa tuổi trước. Trẻ
trải nghiệm nhiều trạng thái cảm xúc, tình cảm, hướng tình cảm của mình đến nhiều
đối tượng khác nhau. Trẻ luôn thèm khát sự yêu thương, trìu mến của cha mẹ, dễ tủi
thân nếu không được quan tâm. Trẻ cũng bộc lộ tình cảm của mình mạnh mẽ và rõ
ràng hơn đối với mọi người, luôn tỏ ra thông cảm, an ủi người khác. Ở độ tuổi 4 – 5
tuổi, tâm trạng của trẻ không kéo dài, dễ bộc phát nhưng cũng dễ tiêu tan. Trẻ giai
đoạn này rất dễ xúc động, dễ cười, dễ khóc. Tâm tư của trẻ được bộc lộ ra ngoài, chỉ
cần nhìn là biết được ngay trẻ đang vui hay đang buồn. Tính tình của trẻ lúc này
tương đối ổn định, dễ hướng dẫn, chỉ bảo. Chính vì vậy nếu được giáo dục đúng đắn
9


thì thái độ của trẻ đối với những người xung quanh sẽ theo hướng tích cực, như vậy
có thể phát triển kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc cho trẻ.
2.1. Biểu hiện kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ.
Ở nghiên cứu này chúng tôi xem kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc là biểu
hiện của trí tuệ cảm xúc. Vì thế chúng tôi dựa vào những biểu hiện của trí tuệ cảm xúc
để phân tích những biểu hiện của kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc. Các tác giả
đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về biểu hiện của kỹ năng cảm nhận và thể hiện

cảm xúc như sau:
- Biểu lộ cảm xúc: Một trong những quá trình liên quan đến phát triển cảm xúc
là biểu lộ cảm xúc. Ở giai đoạn rất sớm của cuộc sống, trẻ sơ sinh có khả năng biểu lộ
một mức độ cảm xúc rộng rãi khác nhau bao gồm: thích thú, mỉm cười, khó chịu và
đau đớn. Vào khoảng 2 hay 3 tháng tuổi trẻ biểu hiện được sự buồn rầu và giận dữ,
ngược lại sợ hãi xuất hiện vào lúc trẻ được khoảng 6 – 7 tháng tuổi. Cùng với sự phát
triển gia tăng về nhận thức sau năm đầu đời, trẻ có thể biểu lộ được những cảm xúc
phức tạp hơn như là sự khinh rẻ, xấu hổ, e thẹn, và tội lỗi. Sự biểu lộ cảm xúc xuất
hiện bị ảnh hưởng nhiều bởi người chăm sóc. Trẻ nhũ nhi bắt chước trực tiếp cảm xúc
của người chăm sóc và ngược lại người chăm sóc củng cố một cách chọn lọc đối với
những biểu lộ trên khuôn mặt của trẻ nhỏ, ví dụ: trẻ cười theo kiểu này thì nét mặt của
người chăm sóc thay đổi theo một kiểu nào đó và được lặp lại nhiều lần, các bà mẹ
đáp ứng một cách khác nhau đối với việc biểu lộ giận dữ ở những trẻ nhũ nhi trai và
gái. - Ghi nhận cảm xúc ( Emotion recognition): Trẻ em có thể thăm dò khuôn mặt
của người chăm sóc nhằm để có được các gợi ý về ý nghĩa của các sự kiện xảy ra
xung quanh chúng: Điều này an toàn hay nguy hiểm? Trẻ nhỏ thường nhìn xem việc
biểu lộ cảm xúc của những người xung quanh chúng để diễn giải thậm chí đối với cả
trải nghiệm nội tâm của chính trẻ: ví dụ, trẻ nhỏ bị ngã, tuỳ theo sự biểu lộ cảm xúc
của cha mẹ là báo động hay bình tĩnh mà trẻ bắt đầu khóc nhè hay bỏ qua mà chơi
tiếp. Ghi nhận cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển các quan hệ xã
hội khỏe mạnh và là một điều kiện tiên quyết để có được sự thấu cảm và hành vi tiền
xã hội.
- Hiểu được cảm xúc (Emotion understanding): Đây là phần tương tác giữa
phát triển nhận thức và phát triển cảm xúc. Nhiệm vụ quan trong của phát triển là có
khả năng nhận dạng, hiểu được và lý giải được về cảm xúc của chính bản thân và về
người khác. Hiểu được cảm xúc là tâm điểm đối với sự phát triển trong bối cảnh cá
nhân, bao gồm: quan điểm về bản thân và có vai trò trung tâm trong việc phát triển về
đạo đức và quan hệ với người khác, bao gồm sự thấu cảm và thành thạo về xã hội. Chỉ
khi việc biểu lộ cảm xúc được gia tăng qua kiểm soát có ý thức trong quá trình phát
triển, trẻ lớn hơn có khả năng phản ảnh và hiểu được cảm xúc của mình với mức độ

phức tạp hơn và sâu sắc hơn, ví dụ trẻ ở tuổi đi học hiểu được rằng có thể trải nghiệm
nhiều hơn một loại cảm xúc ở cùng một thời điểm, cảm xúc xuất hiện bên ngoài các
tình huống đặc biệt, trải nghiệm giống nhau có thể gợi lên những cảm xúc khác nhau
ở những người khác nhau.
10


- Điều chỉnh cảm xúc (Emotion regulation): Là khả năng theo dõi, đánh giá và
bổ trợ đáp ứng cảm xúc của chính mình nhằm để hoàn thành một nhiệm vụ
(Thompson, 1994). Điều chỉnh cảm xúc cần phải có khả năng để định dạng, hiểu được
và làm nhẹ đi cảm xúc của mình khi thích hợp. Điều chỉnh cảm xúc có thể liên quan
đến việc ức chế hoặc làm dịu bớt các phản ứng cảm xúc, ví dụ: trẻ có thể thở sâu, đếm
đến 10 nhằm giúp trẻ bình tĩnh khi đối mặt với cảm xúc khó chịu. Điều chỉnh cảm xúc
cũng có thể liên quan đến việc gia tăng cường độ thức tỉnh cảm xúc nhằm để đạt được
một mục tiêu. Ví dụ, trẻ có thể gia tăng sự tức giận nhằm để có được can đảm đứng
trước một kẻ bắt nạt, hoặc trẻ có thể gia tăng các cảm xúc tích cực bằng cách nhớ lại
hoặc tái diễn lại một kinh nghiệm vui vẻ. Thực chất, điều chỉnh cảm xúc cho phép trẻ
là “ông chủ của chính mình” – theo cách nói của một thân chủ trẻ em! Cha mẹ góp
phần vào các kỹ năng điều chỉnh cảm xúc của trẻ bằng cách đáp ứng một cách nhạy
bén với sự khó chịu của trẻ và giữ được cảm xúc ở mức độ có thể chấp nhận được vì
thế cảm xúc có thể xử lý được (Kopp, 2002). Qua quá trình phát triển, trẻ có thể tiếp
tục các chức năng điều chỉnh này nhằm để tham gia vào việc tự xoa dịu (self –
soothing) và điều hoà cảm xúc của chính trẻ. Khi cùng với các dạng tự điều chỉnh
khác, các chức năng mà trẻ dựa vào cha mẹ lúc khởi đầu trở thành nội hóa nhờ thế mà
trẻ có thể thực hiện được những kỹ năng này cho chính bản thân trẻ. Theo H. Steve,
có dấu hiệu để nhận dạng loại trí tuệ này:
- Biết cảm xúc của bản thân cũng như của người khác và biết hành động sẽ xảy
ra khi có những cảm xúc đó.
- Biết nguyên nhân dẫn đến những cảm xúc tích cực và tiêu cực. Biết chuyền
cảm xúc tiêu cực thành tích cực để hành động.

- Nhận thức được cảm xúc, sự nhạy cảm và những kỹ năng quản lý cảm xúc,
giúp con người tăng tối đa hạnh phúc trong cuộc sống. Theo nhà tâm lý học Daniel
Goleman đã đề cập đến chỉ số cảm xúc và đưa ra chỉ số cảm xúc gồm 4 cấp độ:[7]
• Nhận biết cảm xúc: Trẻ có thể nhận biết đúng cảm xúc của bản thân mình và
cảm xúc của những người xung quanh. Trẻ biết bản thân đang có những cảm xúc gì,
có thể mô tả trạng thái cảm xúc của bản thân cho người khác hiểu, trẻ biết được
những cảm xúc của những người xung quanh, gọi đúng tên và mô tả trạng thái cảm
xúc của mọi người xung quanh…
• Hiểu được cảm xúc: Trẻ có khả năng hiểu và thấu cảm được các loại cảm
xúc, đồng thời biết nguyên nhân và hậu quả của các loại cảm xúc ấy.
• Tạo ra cảm xúc: Trẻ có khả năng diễn tả và đáp lại các cảm xúc của người
khác. Thông qua đó, trẻ biết lắng nghe, thông cảm và chia sẻ với người khác.
• Quản lý cảm xúc: Trẻ có khả năng tự quản lý được cảm xúc của mình, cư xử
hợp lý để dễ dàng hòa đồng với tập thể. Không để những trạng thái cảm xúc chi phối
hành vi bản thân, có thể giữ vững tâm trạng vui vẻ khi công việc không thuận lợi.
Nghiên cứu này chúng tôi đi theo quan điểm của nhà tâm lý học Daniel Goleman, kỹ
năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc gồm 4 biểu hiện nêu trên.

11


2.2. Nội dung kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ 4-5 tuổi trong
“Chương trình giáo dục mầm non” và trong bộ “Chuẩn phát triển của trẻ 4-5
tuổi”.
a. Nội dung kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ 4- 5 tuổi trong
“Chương trình giáo dục mầm non” Trong CTGDMN, kỹ năng thể hiện và cảm
nhận cảm xúc được thể hiện trong lĩnh vực “giáo dục phát triển tình cảm và kỹ
năng xã hội”, bao gồm những nội dung sau:
• Phát triển năng lực nhận biết và bày tỏ những cảm xúc, tình cảm của mình.
• Hiểu và đáp lại cảm xúc, tình cảm của người khác.

• Hình thành và rèn luyện sự tự tin.
• Hiểu và điều chỉnh cảm xúc trên cả hai phương diện cá nhân và trong môi
trường xã hội. Sự biểu lộ những cảm xúc cơ bản của con người (niềm vui, sự giận dữ,
sợ hãi), những cảm xúc liên quan đến sự kích thích của các giác quan (tức giận, sung
sướng, hoảng sợ), và những cảm xúc khi tự đánh giá (tự hào, xấu hổ, cảm giác có lỗi).
b. Nội dung kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ 4- 5 tuổi trong
bộ “Chuẩn phát triển của trẻ 4-5 tuổi”.
Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc thuộc chuẩn 9 trong chuẩn phát triển
của trẻ 4- 5 tuổi, bao gồm những nội dung cụ thể như sau: Kỹ năng nhận biết các
trạng thái cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận, xấu hổ của người khác
- Trẻ biết được và nói được cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận, xấu
hổ của Cô giáo - Nói lên các trạng thái cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức
giận, xấu hổ khi xem tranh hoặc nghe bài hát, truyện kể.
- Mô tả được các biểu hiện của các trạng thái cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, sợ
hãi, tức giận, xấu hổ
- Nhận ra các sắc thái cảm xúc vui, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận, xấu hổ
qua sự thể hiện của Cô giáo KN Bộc lộ cảm xúc của bản thân bằng lời nói, nét mặt,
cử chỉ với người khác
- Biết cách chia sẻ cảm xúc của bản thân qua lời nói như nói “ Con rất vui”,
“Con đang buồn” với Cô giáo, bạn bè
- Thể hiện thái độ cảm xúc của bản thân qua cử chỉ như khi sợ thì thu mình lại
- Thể hiện thái độ cảm xúc của bản thân qua nét mặt như cười, nhíu mày, mặt
đỏ…
- Biết biểu lộ cảm xúc ra bên ngoài thông qua các hoạt động ở trường một cách
thường xuyên.
- Vui sướng, vỗ tay, làm động tác mô phỏng và sử dụng các từ ngữ gợi cảm, nói
lên cảm xúc của mình khi nghe Cô kể chuyện, hát…. KN Thể hiện sự an ủi và chia
vui với người khác
- Trẻ biết chăm chú lắng nghe và hưởng ứng cảm xúc với GVMN, bạn bè
- Dễ dàng bộc lộ cảm xúc với giáo viên mầm non, bạn bè

- Biết thể hiện những hành động an ủi Cô như ôm Cô giáo, ngồi vào lòng Cô.
- Vỗ tay, reo mừng cùng giáo viên mầm non khi các bạn trong lớp đều ngoan.
12


- Biết thể hiện những hành động an ủi bạn như : nắm tay, nhường đồ chơi, ôm
bạn, dỗ bạn, lâu nước mắt cho bạn. Thay đổi hành vi và thể hiện cảm xúc với hoàn
cảnh
- Trẻ biết bày tỏ cảm xúc phù hợp với cảm xúc của người khác trong các tình
huống khác nhau.
- Hiểu được mối liên hệ giữa hành vi của mình và cảm xúc của Cô đang thể
hiện.
- Trẻ biết hành động phù hợp với cảm xúc trong môi trường hiện tại. Biết kiềm
chế cảm xúc tiêu cực khi được an ủi, giải thích
- Trẻ biết dừng những cảm xúc tiêu cực như tức giận, ganh tỵ, ghen ghét….khi
được an ủi, vỗ về.
- Trẻ học cách nhận biết các trạng thái cảm xúc của mọi người xung quanh và
có các hành vi phù hợp, không làm thất vọng hay tổn thương người khác bởi những
hành động và lời nói bột phát của mình, học cách cư xử đúng khi không đồng ý hoặc
không hài lòng, biết chia sẻ cảm xúc với mọi người xung quanh. Ở trên là nội dung
của các chuẩn mà trẻ cần đạt được trong lĩnh vực phát triển tình cảm và quan hệ xã
hội. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, người nghiện cứu chỉ tìm hiểu một số nội dung
mà trẻ 4- 5 tuổi cần phát triển.[4] Những nội dung trên thường được giáo viên mầm
non hình thành và rèn luyện thông qua các hình thức như:
- Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người, sự vật và hiện tượng
xung quanh.
- Trò chuyện về các trạng thái cảm xúc khác nhau: vui, buồn, ngạc nhiên, sợ
hãi, xấu hổ...
- Khám phá các cách thể hiện cảm xúc khác nhau: qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ,
vẽ...

- Nghe kể chuyện, đọc thơ, xem tranh, vẽ... về các cảm xúc và cách thể hiện.
- Chơi các trò chơi khác nhau: bắt chước, đóng vai, đóng kịch…
- Sưu tầm, cắt dán các bức tranh về các trạng thái cảm xúc khác nhau và các
cách biểu hiện cảm xúc của con người.
- Cho phép trẻ được thể hiện các loại cảm xúc khác nhau như một nhu cầu bình
thường của cuộc sống.
- Tạo các cơ hội cho trẻ để chia sẻ và nói về các tình cảm của mình với người
lớn và bạn bè.
- Khuyến khích trẻ thể hiện cảm xúc cuả mình trong cuộc sống hàng ngày: khi
chơi với bạn, chơi với đồ chơi, khi nghe các câu chuyện, khi làm xong một công việc
thú vị nào đó, khi giao tiếp với mọi người, khi muốn an ủi bạn…
- Cung cấp cho trẻ các phương tiện để thể hiện cảm xúc của mình. Giáo viên
cần làm gương cho trẻ về cách thể hiện cảm xúc, thái độ luôn quan tâm đến tâm trạng
của những người xung quanh, cách ứng xử đúng mực trong cuộc sống sinh hoạt cùng
với trẻ.

13


c. Chức năng của cảm xúc Theo L.S Greenberg, những cảm xúc của con
người có tính trí tuệ và làm cho họ thành công hay không là nhờ những chức
năng sau:[26] [54]
Chức năng thông tin Cảm xúc là những dấu hiệu đáng giá để được lắng nghe.
Chúng gửi thông tin đến để báo hiệu cho con người đang bị nguy hiểm, báo hiệu ranh
giới người đó đang bị xâm phạm. Cảm xúc cũng nói cho con người biết rằng sự việc
có diễn ra theo hướng của chúng không và sắp xếp tổ chức chúng lại nhằm nhanh
chóng trả lời các tình huống để đảm bảo cho việc đi đúng theo con đường đó. Chức
năng sắp xếp cho con người hành động Cảm xúc chỉ cho chúng ta làm thế nào để điều
khiển cuộc sống. Khi chúng ta trải qua cảm giác khó chịu, có nghĩa có một điều gì sai
sót trong công việc mình đang thực hiện. Vì vậy, trên cở sở đọc được những thông

điệp phản ứng của cơ thể và nhận thức vấn đề, chúng ta có khả năng hành dộng sữa
chữa phù hợp hơn. § Chức năng xây dựng và sắp xếp cái mối quan hệ Cảm xúc nói
cho con người biết bản chất các mối quan hệ xã hội mà mình đang có và cách thức
kiểm soát chúng. Chúng thông báo cho chúng ta biết mối quan hệ họ đạt đỉnh cao hay
bị phá vỡ hoặc trong tình trạng cần vun đắp thêm. Cảm xúc có thể được nhạn thấy
trên khuôn mặt và giọng nói của một người, và bằng cách đó chúng điều chỉnh bản
thân người đó hay người khác. Mỗi cảm xúc xác định mối quan hệ của cá nhân và
người khác hay với môi trường xung quanh. Cảm xúc làm cho cuộc sống thêm màu
sắc, có giá trị và ý nghĩa. Con người không thể trải nghiệm cảm xúc thì họ sẽ thiếu
định hướng, không biết cái gì là quan trọng đối với mình. Hơn nữa, nó là cách thức
biểu đạt và bộc lộ trạng thái tâm lý của cá nhân cho người khác biết.
3. Vai trò của khả năng nhận biết cảm xúc của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi:
Con người là những thực thể xã hội và những mối quan hệ xã hội là yếu tố
quyết định sự thành bại và hạnh phúc trong cuộc đời. Việc không nhận biết được cảm
xúc của người khác và không kiểm soát được cảm xúc của mình tác động xấu đến mối
giao tiếp và ảnh hưởng tiêu cực đến công việc và cả cuộc sống gia đình. Biết làm chủ
cảm xúc của mình không chỉ để thành công trong quan hệ giao tiếp xã hội, mà còn
làm cho cuộc sống êm đẹp, hạnh phúc hơn. Chất lượng và số lượng các mối quan hệ
tốt góp phần quyết định sự thành công của con người. Theo GS. Howard Gardner:
“Trung tâm trí tuệ về quan hệ giữa con người là năng lực nắm được tâm trạng, tính
khí, động cơ, ham muốn của người khác và phản ứng lại thích hợp; đó là năng lực
khám phá tình cảm của mình và năng lực lựa chọn tình cảm để hướng dẫn ứng xử của
mình theo sự lựa chọn ấy. Trong cuộc sống không một hình thức trí tuệ nào quan
trong hơn điều đó”Thomas Hatch và Hovard Gardner cho rằng thành tố quyết định sự
thành công trong quan hệ cá nhân gồm: năng lực tổ chức nhóm – năng lực hợp tác và
lãnh đạo; năng lực thiết lập quan hệ cá nhân – năng lực đồng cảm và giao tiếp; năng
lực phân tích xã hội – nhận ra tình cảm, động cơ và cảm xúc của người khác . Theo
chương trình STRONG START của một tổ chức giáo dục, họ cho rằng để bế tự tin
vào lớp 1 thì cần có 4 nhóm kỹ năng sau: Qua đó ta thấy được, kỹ năng cảm nhận và
thể hiện cảm xúc là một trong những nhóm kỹ năng cần thiết để chuẩn bị cho trẻ vào

lớp 1. Trong giao tiếp, làm chủ được cảm xúc của mình là điều cần thiết, nhưng chưa
14


đủ để đạt được mục tiêu mong muốn, mà còn phải biết cách diễn đạt nó một cách
chân thật, tự tin, thông qua ngôn từ, giọng nói, nét mặt, cử chỉ… Mặt khác phải biết
lắng nghe người khác, nếu cần thì mạnh dạn hỏi lại, để tin chắc rằng mình thấu hiểu
tâm tư thật sự của họ, từ đó xác định cách ứng xử phù hợp, kịp thời, kể cả khi có bất
đồng quan điểm. Lời nói và cách ứng xử trong lúc giao tiếp có thể làm cho cảm xúc
của người khác thay đổi, vì thế cần cân nhắc hậu quả gì sẽ phát sinh từ đó. Trong giao
tiếp, hãy luôn tự nhủ rằng người khác đang nhìn mình như người hướng dẫn cảm xúc
của họ. Napoleon Hill, người có ảnh hưởng đến sự thành đạt của nhiều ngàn triệu phú
Mỹ cho rằng: “Có một đức tính không gì có thể thay thế được vì nó có khả năng làm
rung động lòng người hơn hết thảy mọi đức tính quý báu khác, đó là sự chân thành”.
Lòng chân thành là cơ sở để xây dựng các mối quan hệ tích cực. Giáo dục phát triển
tình cảm và kỹ năng xã hội, hình thành và phát triển ở trẻ năng lực cá nhân, trang bị
cho trẻ kỹ năng sống để giúp trẻ hoà nhập vào cộng đồng xã hội, là yếu tố cần thiết
giúp trẻ học và phát triển toàn diện của trẻ. Giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng
xã hội cho trẻ trong trường mầm non cần được tiến hành tích hợp với các mặt phát
triển thể lực, ngôn ngữ, nhận thức, thẩm mỹ. Kỹ năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc
được xem là “điểm bắt đầu”, là nền tảng quan trọng nhất trong các kỹ năng sống cần
trang bị cho trẻ khi các em bước những bước đi đầu tiên trên hành trình học tập và
giao tiếp xã hội của mình:
- Giúp các em hiểu mình và những cảm xúc bên trong chính bản thân mình.
- Giúp các em có cách ứng xử bình tĩnh, nhã nhặn trong những tình huống khó
chịu. (Chẳng hạn như bị bạn trêu chọc, cảm thấy cô đơn khi bố mẹ sinh em bé, sợ hãi
khi phải đi học …).
- Giúp các em trở thành người nhạy bén về cảm xúc, giao tiếp tốt, biết quan
tâm, biết sẻ chia. (Vì chỉ khi biết cách cảm nhận và đánh giá được cảm xúc của người
khác thì mới có thể quan tâm và giao tiếp hiệu quả).

- Giúp các em hình thành những kỹ năng sống quan trọng để hòa nhập vào một
môi trường mới một cách tự tin, hòa đồng.
- Giúp các em học tập tốt hơn và hòa nhập với bạn bè tốt hơn khi ở trường.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kỹ năng cảm nhận
và thể hiện cảm xúc của trẻ 4-5 tuổi.
Qua các cuộc khảo sát và các đề tài nghiên cứu cho thấy hiện trạng kỹ năng
sống của thế hệ trẻ nước ta còn thấp, đặc biệt các nhà giáo dục chỉ chú tâm rèn luyện
những kỹ năng, những nội dung khác mà chưa quan tâm nhiều đến việc rèn luyện cảm
xúc cho trẻ, trong khi EQ là một trong những chỉ số quan trọng của con người giúp họ
thành công hơn cuộc sống và phải rèn luyện từ nhỏ chứ không phải lúc trưởng thành.
Chúng ta có thể thấy có những yếu tố ảnh hưởng đến việc hình thành kỹ năng cảm
nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ 5 tuổi như sau: Hiện nay chương trình giáo dục mầm
non của nước ta luôn trong tình trạng đổi mới, khối lượng chương trình phải thực hiện
để đạt được mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục mầm non (2009) là một áp lực
lớn đối với giáo viên mầm non, thì nay lại phải tiếp tục triển khai thực hiện chuẩn
phát triển trẻ em 4-5 tuổi, những điều này trở nên quá tải đối với giáo viên mầm non,
15


họ không đủ thời gian để lồng ghép, hay tích hợp các nội dung lại với nhau mà chỉ có
thể chú tâm tới một số lĩnh vực phát triển nhất định cho trẻ. Bên cạnh đó không phải
giáo viên nào cũng đủ kiến thức về kỹ năng sống để tổ chức lồng ghép một cách có
hiệu quả. Vì vậy mà việc rèn luyện cảm xúc cho trẻ là việc làm cần thiết để trẻ có thế
giảm bớt căng thẳng, những cảm xúc tiêu cực trong cuộc sống. Ở Việt Nam, việc rèn
luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non, đặc biệt lĩnh vực rèn luyện cảm xúc là một nội
dung quá mới, chính vì vậy mà cũng gặp nhiều khó khăn và trở ngại. Hiện nay, kỹ
năng sống và nội dung kỹ năng sống được soạn một cách sơ lược và còn mang tính
thử nghiệm, và chưa có hệ thống chuẩn kỹ năng sống đáp ứng nhu cầu thực tế và phù
hợp với từng đối tượng giáo dục. Việc triển khai rèn luyện kỹ năng cảm nhận và thể
hiện cảm xúc cho trẻ ở trường mầm non đa phần là nhờ vào giáo viên có kinh nghiệm.

Chính vì vậy mà các giáo viên này chưa trang bị một nền tảng tâm lý học, giáo dục
học đủ để giúp trẻ hình thành kỹ năng trên. Để làm được điều này giáo viên cần trang
bị cho mình những kiến thức khoa học về kỹ năng sống đồng thời cũng tự rèn luyện
kỹ năng sống cho chính bản thân mình, giáo viên chính là người làm gương cho trẻ
làm theo. Một yếu tố cần nhắc đến nữa đó chính là từ phía gia đình trẻ, phụ huynh
chưa ý thức đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của kỹ năng sống nói chung và kỹ
năng cảm nhận và thể hiện cảm xúc của trẻ nói riêng trong sự phát triển của xã hội,
đòi hỏi trẻ phải ứng phó cho phù hợp với hoàn cảnh. Họ chỉ tập trung chú trọng phát
triển cho con em mình về những kiến thức khoa học, sợ con mình thua kém bạn bè
cùng tuổi nên có thể cho trẻ học những nội dung quá sức, vô tình tạo áp lực học hành
cho trẻ ngay từ rất sớm. Thiếu sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc rèn
luyện kỹ năng sống cho trẻ, sự giáo dục một chiều sẽ mang lại hiệu quả không cao,
mà cần có sự cộng tác ở cả hai phía để trẻ có thể hình thành kỹ năng sống một cách
tốt hơn.
4. Quan điểm giáo dục “lấy trẻ làm trung tâm”
Trong thực tiễn giáo dục mầm non ở nước ta trong mấy năm gần đây đã bắt đầu
thực hiện nguyên tắc “ lấy trẻ làm trung tâm” trong quá trình giáo dục trẻ ở trường
mầm non. Việc lấy trẻ là trung tâm nghĩa là luôn coi trẻ em vừa là sản phẩm vừa là
chủ thể của hoạt động. Những kinh nghiệm, tri thức của trẻ phải là sản phẩm của
chính hành động trực tiếp của trẻ với môi trường xung quanh. Tích cực là một phẩm
chất quan trọng của nhân cách, có vai trò quyết định đến hiệu quả hoạt động của con
người nói chung và trẻ mẫu giáo nói riêng.
Tư tưởng chính của nguyên tắc này nhằm nhấn mạnh quá trình chăm sóc – giáo
dục phải hướng vào đứa trẻ, vì đứa trẻ, giáo dục phải xuất phát từ hứng thú và nhu cầu
của trẻ. Hứng thú và nhu cầu của trẻ là nguồn gốc bên trong của tính tích cực, là động
lực thúc đẩy con người hoạt động. Trong quá trình giáo dục, người lớn phải lấy trẻ
làm trung tâm, vì sự phát triển của chính đứa trẻ, tạo điều kiện cho chúng tích cực
hoạt động. Và thông qua hoạt dộng chủ đạo để giáo dục và phát triển toàn diện về thể
chất, tinh thần và trí tuệ cho trẻ.
Giáo viên có vai trò là người tổ chức hoạt động cho trẻ, điều khiển sự phát triển

của trẻ phù hợp với quy luật. Giáo viên còn là “điểm tựa”, là “thang đỡ” giúp trẻ
16


trong những lúc cần thiết, tạo điều kiện và cơ hội cho trẻ vươn lên. Mối quan hệ giữa
cô và trẻ là mối quan hệ hợp tác, chia sẻ, tương trợ lẫn nhau, không mang tính áp đặt
từ phía cô. Trên cơ sở đó phát triển tính tích cực, sáng tạo trong hoạt động và hình
thành cho trẻ một số phẩm chất mang tính nhân văn, thích nghi trong cuộc sống cộng
đồng và xã hội.
II. HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
1. Khái niệm vui chơi
Là một loại hình hoạt động của trẻ ở trường Mầm Non. Là hoạt động chủ đạo
của trẻ mẫu giáo được người lớn tổ chức , hướng dẫn nhằm giúp trẻ thỏa mãn các
nhu cầu vui chơi và nhận thức đồng thời giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ.
2. Ý nghĩa vui chơi
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Đầu mẫu giáo hoạt động
vui chơi xuất hiện trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ gây ra những biến đổi về chất,
có ảnh hưởng quyết định đến sự hình thành nhân cách trẻ mẫu giáo và làm tiền đề cho
hoạt động học tập ở lứa tuổi tiếp theo.
3. Đặc điểm vui chơi.
Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo: Nó góp phần vào
việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, chuẩn bị những cơ sở tâm lý cần thiết
cho hoạt động học tập ở trường tiểu học trong tương lai. Vì vậy khi tổ chức cuộc sống
sinh hoạt của trẻ ở trường mẫu giáo. Giáo viên cần biết sử dụng hoạt động vui chơi
làm phương tiện giáo dục và phát triển cho trẻ. Hoạt động vui chơi là phương tiện
giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo: Hoạt động vui chơi nếu được tổ
chức tốt, đảm bảo tính tự nguyện, thỏa mãn nhu cầu nhận thức, nhu cầu vận động,
đảm bảo tính giáo dục…thì sẽ là phương tiện giáo dục các mặt: Trí tuệ, đạo đức, thể
chất, lao động và thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo. Chơi là hoạt động “ giả vờ ” của trẻ
nhưng mang tính chất thật. Là hoạt động không nhằm tạo ra sản phẩm mà chỉ nhằm

thỏa mãn nhu cầu được chơi , được vui vẻ của trẻ. Động cơ chơi nằm trong hành động
chơi , kích thích duy trì hứng thú của trẻ . Chơi là hoạt động độc lập , tự do tự
nguyện , mang tính sáng tạo rõ nét của trẻ. Nội dung chơi phản ánh cuộc sống hiện
thực xung quanh quá trình chơi diễn ra sự liên kết hài hòa giữa hạnh động lời nói, tình
cảm nhân vật
4. Mục đích tổ chức hoạt động vui chơi.
Từ ý nghĩa và vai trò của hoạt động vui chơi đối với trẻ mẫu giáo ta thấy được
tầm quan trọng của hoạt động này đối với sự phát triển của trẻ. Qua hoạt động vui
chơi tạo cơ hội cho trẻ được lựa chọn hoạt động mà trẻ yêu thích. Đây là hoạt động cá
nhân, hoặc có thể tổ chức theo tập thể, nhóm nhỏ, trẻ được tự do giao tiếp, được lựa
chọn trò chơi, bạn chơi. Qua hoạt động vui chơi trẻ có điều kiện thao tác, thử nghiệm,
tìm tòi, được khám phá qua đồ dùng đồ chơi ở trong góc. Trẻ thoải mái, vui tươi và
gần với cuộc sống thực của trẻ. Vì vậy: Hoạt động vui chơi nhằm phát huy ngôn ngữ
giao tiếp, ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Trẻ nói câu đúng, chính xác,đủ câu, đủ nghĩa,
nói rõ ràng, mạch lạc. Hoạt động vui chơi phát huy tính tích cực cá nhân. Giúp trẻ
luôn tự tin, độc lập, sáng tạo. Hoạt động vui chơi ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành
17


tính chủ định của quá trình tâm lý. Do vậy, hoạt động vui chơi nhằm hình thành ở trẻ
khả năng ghi nhớ có chủ định. Ngoài ra còn giáo dục trẻ có tình cảm tốt đẹp.
5. Các loại trò chơi: Trò chơi của trẻ mẫu giáo được phân thành hai nhóm
chính:
Nhóm 1: Nhóm trò chơi sáng tạo, bao gồm các trò chơi sau:
+ Trò chơi đóng vai theo chủ đề
+Trò chơi xây dựng – lắp ghép
+ Trò chơi đóng kịch
Nhóm 2: Nhóm trò chơi có luật, gồm các trò chơi sau:
+ Trò chơi học tập
+ Trò chơi vận động Hoạt động vui chơi có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

sự phát triển của trẻ mẫu giáo.
* Kết luận : Qua thực tế đứng lớp và trực tiếp tiếp xúc với trẻ tôi thấy các trò
chơi là phương pháp tốt nhất để lôi cuốn trẻ vào bài học.
CHƯƠNG 2. SƯU TẦM CÁC TRÒ CHƠI, HOẠT ĐỘNG NHẰM PHÁT
TRIỂN KHẢ NĂNG NHẬN BIẾT CẢM XÚC CỦA TRẺ MẪU GIÁO 4-5
TUỔI.
I. Nội dung:
1. Sưu tầm các trò chơi nhằm phát triển khả năng nhận biết cảm xúc cho
trẻ 4 – 5 tuổi:
1.1. Trò chơi: Tặng quà cho bạn:
a. Mục đích:
- Trẻ chọn đúng đồ chơi, đồ dùng mà bạn khác giới thích và cần thiết cho bạn
đó.
b. Chuẩn bị:
- Nhiều loại đồ dùng đồ chơi cho cả cháu trai và cháu gái: búp bê, bóng, ôtô,
máy bay, làn, nơ, quần, áo, váy,… (số lượng đủ cho cả lớp).
c. Cách chơi:
- Trước khi chơi, cô cho trẻ bàn bạc với nhau xem các bạn trai, bạn gái thường
thích chơi đồ chơi gì ? Cần những đồ dùng gì. Sau đó, cô đặt tất cả đồ dùng lên bàn.
Cho 3 – 5 trẻ gái lên chọn những đồ chơi mà bạn trai thích và đồ dung bạn trai cần.
Khi chọn xong đem xuống tặng cho các bạn trai mà mình thích.
- Sau đó cho bạn trai tìm quà tặng bạn gái.
- Sau khi kết thúc trò chơi, cô có thể nhấn mạnh thêm con trai, con gái cần
những đồ dùng khác nhau và có những ý thích về các trò chơi và đồ chơi thông
thường cũng khác nhau.
1.2: Trò chơi: Cảm xúc của bé
a. Mục đích:
- Trẻ phân biệt được một số các trạng thái biểu hiện cảm xúc vui, buồn, sung
sướng, tức giận.
b. Chuẩn bị:

18


- Cắt tranh bằng bìa với các hình vẽ các khuôn mặt thể hiện một số trạng thái
cảm xúc vui, buồn, phấn khởi (thoải mái), tức giận (không hài lòng).

c. Cách chơi:
- Để úp các bức tranh. Cho trẻ lên rút bức tranh. Trẻ phải thể hiện trạng thái của
bức tranh. Các trẻ khác quan sát xem bạn mình thể hiện trạng thái cảm xúc gì và thể
hiện có đúng không.
- Vẽ 3, 4 vòng tròn, mỗi vòng tròn để một khuôn mặt thể hiện trạng thái cảm
xúc ( Buồn, vui, tức giận, bình thản…)
- Cô cùng trẻ tự do làm các động tác vận động của thỏ hoặc cầm tay nhau cùng
hát: "Trên bãi cỏ, các chú thỏ, tìm rau ăn, thỏ ngoan, vâng lời mẹ, mẹ thỏ khen, thỏ rất
vui". Khi cô dừng lại hỏi: “ Thỏ con cảm thấy thế nào nhỉ ?” thì tất cả các trẻ p-hải
tìm thấy vòng tròn có khuôn mặt biểu tượng cho cảm xúc của thỏ con. Tương tự như
vậy với cảm xúc “ buồn”, “ tức giận”, “ bình thản”.
- Cô có thể cho trẻ thể hiện cùng lúc trạng thái cảm xúc khác nhau bằng cách
hỏi trẻ thích thể hiện trạng thái cảm xúc nào. Sau đó bật nhạc cho trẻ vận động theo ý
thích. Khi bản nhạc kết thúc, trẻ phải chạy nhanh về vòng tròn có khuôn mặt thể hiện
trạng thái cảm xúc mà trẻ đã chọn.
- Trẻ nào không về kịp phải đứng ngoài vòng tròn hoặc đứng sai chỗ thì phải
nhảy lò cò một vòng.
1.3. Trò chơi: Vì sao bé buồn?
a. Mục đích:
- Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, khả năng nhận biết và biểu lộ cảm xúc.
b. Chuẩn bị:
- Bức tranh vẽ em bé có khuôn mặt buồn.
c. Cách chơi


19


- Cô giáo đưa ra bức tranh vẽ em bé có khuôn mặt buồn và hỏi trẻ lí do vì sao
em bé lại buồn. Cô giáo gợi ý để trẻ đưa ra lời giải thích (bé không có ai chơi cùng; bé
không có đồ chơi; mẹ bé đi vắng…).
- Tùy theo khả năng của trẻ trong lớp, cô khuyến khích trẻ đưa ra những ý
tưởng và lời giải thích phù hợp. Ví dụ: “Em bé buồn vì không có đồ chơi”. Cô giáo
gợi ý: “Vậy lớp mình phải làm gì để em bé khỏi buồn?” : tặng đồ chơi, chơi cùng em
bé…
Sau đó, cô cho cả lớp làm đồ chơi để tặng bé.
1.4. Trò chơi: Tổ chức sinh nhật
a. Mục đích
- Luyện cho trẻ các hành vi giao tiếp, ứng xử lịch thiệp.
b. Chuẩn bị
- Các đồ vật, đồ chơi để làm quà.
- Một số tiết mục văn nghệ: đọc thơ, kể chuyện.
- Bánh kẹo, hoa quả (do phụ huynh mang đến để tổ chức sinh nhật tại lớp).
- Trẻ cùng nhau trang trí lớp.
- Cô thông báo cho cả lớp biết những ngày sinh nhật của trẻ trong tuần (tháng)
và cùng với trẻ bàn kế hoạch tổ chức sinh nhật cho bạn. Trẻ có thể tự làm những món
quà (đồ chơi, vẽ tranh, nặn quả) để tặng bạn.

c. Cách chơi
- Tổ chức sinh nhật: Có thể tổ chức riêng cho từng trẻ vào đúng ngày sinh nhật
của trẻ đó hoặc tổ chức chung cho tất cả trẻ có ngày sinh nhật trong cùng tuần hay
tháng đó.
20



- Trong bữa tiệc sinh nhật của mình, trẻ phải tự giới thiệu và nó cảm xúc của
mình về ngày sinh nhật trước cả lớp.
- Cả lớp tặng quà sinh nhật cho bạn và chúc những điều tốt đẹp.
- Biểu diễn văn nghệ và ăn bánh kẹo, trái cây.
- Kết thúc buổi sinh nhật: Trẻ được tổ chức sinh nhật , nói lời cảm ơn với các
bạn đến dự rồi chia tay và chào tạm biệt khi các bạn ra về.
1.5. Trò chơi: Chú hề cảm xúc
a. Mục đích:
- Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, khả năng nhận biết và biểu lộ cảm xúc.
b. Chuẩn bị:
- Đồ chơi là một khung gỗ trong đó đặt hình ảnh khuôn mặt 6 chú hề.
c. Cách chơi:
- Mỗi khuôn mặt được cắt thành ba phần khác nhau về kích thước, trẻ phải
chọn các bộ phận rời này đặt lên các khuôn mặt để thể hiện cảm xúc “sợ hãi”, “ngạc
nhiên”, “tức giận”, “buồn”, “vui”. Tuy nhiên nó không thực sự dễ dàng đối với trẻ ,
bởi vì sự thay đổi không chỉ là môi, mà là sự uốn cong của lông mày và nếp nhăn
- Hướng dẫn trẻ chơi theo nhiều cách khác nhau: thay đổi cảm xúc của các
khuôn mặt, đánh dấu nó và thảo luận về lý do thay đổi tâm trạng của các chú hề này.
Những gì xảy ra với chú hề, câu chuyện gì đã xảy ra? Hoặc có thể sử dụng những
hình ảnh thể hiện các cảm xúc khác nhau này của các chú hề để kể chuyện cho trẻ về
một ngày trong cuộc đời của một chú hề khi ông lần đầu tiên đã tức giận, sau đó buồn,
sau đó hạnh phúc cũng là khá thú vị.

21


1.6. Trò chơi: Am bum cảm xúc
a. Mục đích:
- Giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, khả năng nhận biết và biểu lộ cảm xúc.
- Giúp trẻ phát triển tư duy trực quan hình ảnh, khả năng khái quát hoá, phát

triển tư duy ký hiệu, tư duy sơ đồ
b. Chuẩn bị:
- Các lo tô hình ảnh khuôn mặt vui, buồn, tức giận....
- Một xí ngầu dán ký hiệu các cảm xúc khuôn mặt.
- Hồ dán.
c. Cách chơi:

Vui

Buồn

Tức giận
22

Ngạc nhiên


c. Cách chơi:
- Bước 1: Trẻ chia thành 4 nhóm, cô trò chuyện với trẻ về biểu tượng nào sẽ đại
diện cho cảm xúc nào. Mỗi nhóm đổ xí ngầu chọn một cảm xúc. Sau đó trẻ cùng thảo
luận – chọn hình ảnh bieeurlooj cảm xúc của nhóm dán vào. Thời gian bắt đầu và kết
thúc bằng một bài hát (tùy theo chủ đề). Nhóm nào dán được nhiều hình và đúng là
thắng cuộc.

23


- Bước 2: Từ 4 tờ Album của bốn mùa trẻ vừa thực hiện cô cho trẻ thực hiện
trên sơ đồ hóa bằng cách đếm xem ở từng cảm xúc trẻ dán được bao nhiêu hình, ghi
chữ số vào ô tròn của sơ đồ theo đúng từng cảm xúc có ký hiệu bằng hình ảnh của các

biểu
cảm
Ghi chữ số sau khi đã cộng
lại số hình trẻ đã chọn ở các
mùa

8

V

B

T

N

1

3

2

2

Chữ đầu của tên
mùa
Viết (dán) chữ số

- Trên cơ sở phát triển tư duy trẻ phát triển tri giác có chủ định khi quan sát để
hiểu và chọn hình đúng mùa, củng cố biểu tượng về các cảm xúc và các sự vật hiện

tượng liên quan trẻ thu thập được hằng ngày hay qua học tập.
2. Các đồ chơi phát triển cảm xúc:
2.1. Đồ chơi: Búp bê bằng ống giấy
a. Mục đích:
Sử dụng lõi giấy trang trí một con búp bê hoặc một con vật dễ thương.
b. Vật liệu:
- Lõi giấy vệ sinh hoặc ống giấy cứng, bút chì màu hoặc bút lông, keo dán, kéo,
giấy thủ công, chỉ, vải vụn.
c. Tiến hành:
1. Hãy dùng trí tưởng tượng của mình để vẽ trang trí khuôn mặt cho búp bê
hoặc con vật bạn yêu thích.
2. Dùng giấy màu cắt thành tay búp bê, dùng chỉ làm tóc.
3. Trang trí thêm quần áo cho búp bê bằng vải vụn.
4. Sau đó, dán tất cả lên những vị trí thích hợp.
5. Chụp búp bê (hoặc con vật yêu thích) vào ngón tay, làm nó cử động.
24


6. Dùng búp bê để nói chuyện với bạn bè, để đóng kịch, múa rối hoặc diễn tả
một câu chuyện…, chắc chắn sẽ rất hấp dẫn và thú vị.

2.1. Đồ chơi: Bộ rối đa năng:
a. Mục đích:
- Xác lập mối quan hệ giữa các biểu tượng, vốn kinh nghiệm của trẻ với những
mảnh rời do cô cung cấp.
- Phát triển tri giác có chủ định, phát triển trí tưởng tượng sáng tạo. Qua trò
chơi củng cố những kiến thức về thế giới xung quanh (con vật, người...)
b. Vật liệu:
- Những mẫu hình tròn, vuông, tam giác, chữ nhật, hình bình hành, oval lớn
nhỏ tô màu và phát thảo một số đặc điểm đặc trưng của người, nhà, con vật, cây cối ...

như tóc, tai, chân, mình, tán lá ...

c. Tiến hành:
- Tùy theo chủ điểm cô cho trẻ tự ráp các hình rời thành các nhân vật trong
truyện trẻ thích hoặc ráp thành những biểu tượng cụ thể như nhà cửa, cây cối, PTGT...
25


×