Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn pháp luật kinh tế (hợp đồng vô hiệu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.88 KB, 27 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài này, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, em đã nhận
được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ từ các thầy cô.
Trước hết em xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới các thầy cô
giáo và Ban giám hiệu trường Đại học Hòa Bình đã giúp em định hướng đúng đắn
trong học tập và tu dưỡng đạo đức trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn, lòng biết ơn sâu sắc tới Giảng viên TS Trần
Lệ Thu, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề tài
tiểu luận này.
Cuối cùng em xin kính chúc cô và các bạn lớp CH07 luôn dồi dào sức khỏe
và thành công trong công việc. Là đề tài tiểu luận nâng cao, do điều kiện còn hạn
chế về kiến thức cũng như tài liệu, thời gian nên khó tránh khỏi những sai sót và
khiếm khuyết. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của cô giáo và
các bạn để nội dung của đề tài này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

1


LỜI MỞ ĐẦU
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp
nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện quyền và nghĩa dân sự nhằm thoả
mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng, trong sản xuất, kinh doanh. Hợp đồng dân sự
ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong quá trình thực hiện, bên cạnh
những mặt tích cực còn tồn tại những thực trạng là các tranh chấp về dân sự, nhất
là các tranh chấp về hợp đồng có xu hướng tăng, trong đó hợp đồng vô hiệu chiếm
tỷ lệ không nhỏ. Việc tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp
lý của hợp đồng dân sự vô hiệu vẫn là một vấn đề phức tạp nhất mà ngành Toà án
đang vướng mắc. Do tính cấp thiết cũng như tầm quan trọng của chế định hợp
đồng vô hiệu nên em chọn vấn đề “Hợp đồng dân sự vô hiệu” làm đề tài tiểu luận


môn Pháp luật kinh tế. Do kiến thức hiểu biết còn hạn hẹp mà vấn đề lại có nhiều
vấn đề phức tạp nên trong quá trình làm bài không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. BLDS: Bộ luật dân sự.
2. HĐVH: Hợp đồng vô hiệu.
3. HĐ DS: Hợp đồngdân sự.
4. NLHVDS: Năng lực hành vi dân sự.

3


I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
1. Khái niệm của hợp đồng dân sự
Để tồn tại và phát triển mỗi cá nhân cũng như mỗi tổ chức phải tham gia vào
các mối quan hệ khác nhau. Thông qua việc các bên thiết lập với nhau những
quan hệ để qua đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu
cầu sinh hoạt tiêu dùng là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên việc
chuyển giao lợi ích vật chất ấy không thể tự tìm tới nhau để thiết lập nên các quan
hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của con
người. Mác nói rằng: “tự chúng, hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi
với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi với nhau thì những người giữ
chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong các vật đó.”
(Các Mác, “Tư bản”, quyển 1, tập 1, Nxb Sự thật 1973 trang 163). Mặt khác nếu
chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia cũng không thể

hình thành một quan hệ để qua đó thể hiện việc chuyển giao tài sản. Do đó chỉ
khi nào có sự thể hiện ý chí thống nhất giữa các bên thì quan hệ trao đổi lợi ích
vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là hợp đồng dân sự. Như vậy
cơ sở đầu tiên để hình thành nên một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận ý chí tự
nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực khi mà ý chí của các
bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được thiết lập, tự do thoả thuận
hợp đồng nhưng sự tự do ấy phải được đặt trong giới hạn lợi ích của người khác,
lợi ích chung của toàn xã hội.
Khái niệm về hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều phương diện và
góc độ khác nhau. Theo phương diện khách quan thì hợp đồng dân sự là một bộ
phận của các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các mối
quan hệ phát sinh trong quá trình chuyển dịch các lợi ích vật chất. Theo phương
diện chủ quan hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự ý
trao đổi với nhau nhằm đi đến một thoả thuận để cùng nhau làm phát sinh các
quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.

4


Theo phương diện này khái niệm hợp đồng dân sự được xem xét ở dạng khái
quát và dạng cụ thể. Để quy định của pháp luật có thể bao trùm được toàn bộ các
hợp đồng dân sự xảy ra trong thực tế, Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng
dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự.”. Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận của một
bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự
thoả thuận để thay đổi hay chấm dứt các nghĩa vụ đó.
Ngoài ra cũng cần nói thêm rằng xét về nội dung kinh tế sẽ khó phân biệt
giữa một hợp đồng dân sự với một hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại nếu
nội dung của chúng đều là sự mua bán, trao đổi các lợi ích vật chất. Tuy nhiên
yêu cầu của quá trình tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ

hợp đồng đòi hỏi cần có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng kinh tế với một
hợp đồng dân sự. Có thể nói hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế như cặp song
sinh. Vì vậy trong thực tế có rất nhiều trường hợp là hợp đồng kinh tế hay dân sự.
Để có thể phân biệt được hai loại hợp đồng này phải được xác định cụ thể mục
đích của từng loại hợp đồng. Hợp đồng với mục đích thoả mãn nhu cầu sinh hoạt,
tiêu dùng thì được coi là hợp đồng dân sự. Và chỉ được coi là hợp đồng kinh tế
khi các bên chủ thể khi tham gia vào hợp đồng nhằm mục đích kinh doanh
thương mại, thu lợi nhuận.
2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng vô hiệu
2.1. Khái niệm
Hợp đồng vô hiệu không phát sinh hậu quả pháp lý mà các bên mong muốn.
“vô hiệu” theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không có hiệu quả” như
vậy có thể suy ra rằng hợp đồng vô hiệu là hợp đồng không tồn tại theo quy định
của pháp luật, không có hiệu lực pháp lý mặc dù hợp đồng đó được xác lập, các
bên có thể chưa thực hiện, đang thực hiện hay đã thực hiện xong quyền và nghĩa
vụ như cam kết nhưng khi xác định là HĐVH thì mọi cam kết đã, đang thực hiện
thì đều không phải là các quyền và nghĩa vụ được pháp luật bảo vệ.

5


Vậy hợp đồng vô hiệu là khi xác lập các bên đã có vi phạm ít nhất một trong
các điều kiện có hiệu lực do pháp luật quy định dẫn đến hậu quả pháp lý là không
làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự nào.
* So sánh với hợp đồng mất hiệu lực: Để hiểu rõ hơn cần phải có sự phân biệt
giữa hợp đồng vô hiệu và hợp đồng dân sự mất hiệu lực. HĐVH là hợp đồng
không có hiệu lực ở ngay thời điểm giao kết. Còn hợp đồng mất hiệu lực là hợp
đồng có hiệu lực ở thời điểm ký kết nhưng hợp đồng bị mất hiệu lực là do rơi vào
tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu lực của hợp đồng dân sự
có thể do một bên vi phạm, dẫn đến bên vi phạm yêu cầu huỷ hợp đồng hoặc các

bên tự thoả thuận với nhau chấm dứt hiệu lực của hợp đồng hoặc do trở ngại khách
quan nào khác. Ví dụ 2 bên ký kết một hợp đồng mua bán gỗ, thời điểm này Nhà
nước không cấm mua bán mặt hàng này. Nhưng khi hai bên đang thực hiện hợp
đồng thì Nhà nước lại có quyết định cấm khai thác và buôn bán loại gỗ này dẫn
đến hợp đồng không thể thực hiện được và bị mất hiệu lực.
2.2. Đặc điểm của hợp đồng vô hiệu
Theo khoản 1 Điều 410 BLDS 2005 quy định: “Các quy định về giao dịch
dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ luật này được áp dụng đối với
hợp đồng vô hiệu.” Vậy có thể thấy các quy định về hợp đồng vô hiệu được áp
dụng giống như đối với giao dịch dân sự vô hiệu. Mà theo quy định tại Điều 127
BLDS 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”. Vậy đặc điểm chung của các
hợp đồng vô hiệu là không đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật. Khi
hợp đồng vô hiệu các bên phải gánh chịu hậu quả pháp lý nhất định có thể bất lợi
về vật chất hoặc tinh thần nhưng không đạt được mục đích đã xác định nếu chưa
thực hiện được thì sẽ không thực hiện được tiếp, nếu đang thực hiện thì phải chấm
dứt việc thực hiện đó để quay trở lại tình trạng ban đầu hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận. (khoản 2 điều 137 BLDS 2005).
2.2.1. Không đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật với
hợp đồng vô hiệu
6


- Năng lực hành vi dân sự của người tham gia hợp đồng.
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các
chủ thể tham gia hợp đồng nhưng không phải ai cũng có quyền tham gia vào bất kỳ
loại hợp đồng nào mà chỉ có các chủ thể được pháp luật cho phép mới có thể được
tham gia. Trong một số trường hợp thì một số chủ thể chỉ được tham gia trong giới
hạn của một số quan hệ dân sự nhất định. Khi các chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự mà năng lực pháp luật

là vốn có của chủ thể mà pháp luật quy định cho các chủ thể có quyền như nhau:
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Năng lực pháp luật dân sự
của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. (khoản 2, 3
Điều 14 BLDS 2005). Còn năng lực hành vi thì pháp luật căn cứ vào khả năng
nhận biết hành vi của từng con người cụ thể. Việc phân định này dựa trên cơ sở
sinh học và cơ sở xã hội. Nếu như năng lực pháp luật là tiền đề, là quyền dân sự
khách quan của chủ thể thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chủ thể để
tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ. Tư cách chủ thể tham gia hợp đồng dân sự là
sự thống nhất giữa năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Năng lực pháp luật là
điều kiện cần, năng lực hành vi là điều kiện đủ để tạo ra tư cách của một chủ thể
khi tham gia hợp đồng.
- Mục đích và nội dung của các hợp đồng không đáp ứng đủ yêu cầu của pháp
luật hoặc trái đạo đức xã hội. Trong chế định hợp đồng dân sự, các chủ thể có
quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự do trong việc quyết định nội dung, hình
thức của giao dịch, thể hiện khi xác lập hợp đồng các chủ thể có quyền tự do lựa
chọn đối tác, tự do thoả thuận nội dung của hợp đồng, hình thức giao kết. Nhưng
sự tự do không mang tính tuyệt đối mà bị ràng buộc bởi khuôn khổ pháp luật. Sự
ràng buộc này hạn chế sự tự do của các chủ thể khi tham gia xác lập hợp đồng.
Chủ thể không tuân theo sự hạn chế của pháp luật dẫn tới hợp đồng vô hiệu.
+ Mọi thoả thuận không trái với pháp luật.
+ Mọi thoả thuận không được trái với đạo đức xã hội.

7


Không trái với pháp luật thì rõ nhưng không trái với đạo đức xã hội là một
vấn đề phức tạp vì khái niệm đạo đức là một khái niệm trừu tượng. Nhà nước đưa
ra khái niệm đạo đức xã hội trong luật : “Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng
xử giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận” (khổ 3
Điều 128 BLDS 2005), nhưng không quy định cụ thể trường hợp nào là vi phạm.

Chính vì vậy mà khi xác định nội dung của khái niệm đạo đức thường được xem
trong mối quan hệ với án lệ, nhưng về lý thuyết thì Nhà nước ta chưa thừa nhận án
lệ. Chính vì thế trong thực tiễn hiện nay quy định này đã gây ra không ít khó khăn
trong việc áp dụng.
- Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng không tự nguyện.
Sự tự nguyện khi giao kết hợp đồng là một yếu tố cơ bản và không thể thiếu
được trong hợp đồng dân sự. Vì vậy các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng
phải thể hiện ý chí đích thực của mình. Mọi thoả thuận không phản ánh đúng ý chí
của các bên đều có thể dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Ý chí của chủ thể là thể hiện
mong muốn của mình ra bên ngoài trong khuôn khổ pháp luật cho phép mà không
bị sự ép buộc nào.
- Hình thức hợp đồng không đúng quy định của pháp luật.
Để đảm bảo cho trật tự xã hội, lợi ích của Nhà nước và cá nhân khi tham gia
giao kết hợp đồng, ngoài việc các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng phải thể hiện
ý chí của mình còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về hình thức đối với
một số loại hợp đồng nhất định. Thông qua các biểu hiện về hình thức này người
khác có thể phần nào biết được nội dung của hợp đồng. Việc quy định một số loại
giao dịch cần phải tuân theo các quy định về hình thức dựa trên cơ sở là đối tượng
của các loại hợp đồng này có giá trị lớn hoặc có tính năng đặc biệt nên hình thức
của hợp đồng là căn cứ xác đinh nội dung của hợp đồng. Mặt khác, với những quy
đinh này còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền kiểm tra giám sát
việc chuyển dịch các tài sản này.
2.2.2. Các bên tham gia hợp đồng phải gánh chịu hậu
quả pháp lý nhất định
8


Khi hợp đồng vô hiệu thì: “… các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo

quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.” (Khoản 2 Điều
137 BLDS 2005). Về mặt lý thuyết thì đây là sự tổn thất của các bên nên phải quay
lại tình trạng ban đầu như trước khi tham gia hợp đồng. Tuy nhiên về mặt thực tế
có trường hợp khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu có bên được hưởng lợi, có bên bị
thiệt hại.
3. Phân loại hợp đồng vô hiệu
Vì các quy định về giao dịch dân sự từ Điều 127 đến Điều 138 được áp dụng
cho hợp đồng vô hiệu nên dựa vào đó có thể thấy có những loại hợp đồng vô hiệu
dựa vào các căn cứ sau:
* Dựa vào mức độ vi phạm đối với từng loại hợp đồng dân sự cụ thể thì hợp
đồng dân sự được chia thành:
- Hợp đồng dân sự vô hiệu toàn bộ: là hợp đồng mà toàn bộ nội dung của nó
đều vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng hoặc có một số nội dung của hợp
đồng bị vô hiệu nhưng lại trực tiếp ảnh hưởng tới phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu từng phần: là hợp đồng mà chỉ có một số nội dung
vi phạm các điều kiện có hiệu lực của HĐDS, còn các nội dung khác không vi
phạm hoặc có một phần của HĐVH nhưng không ảnh hưởng tới hiệu lực còn lại
của hợp đồng.
* Dựa vào mức độ vi phạm nghiêm trọng hay không của HĐDS cũng như căn
cứ vào ý chí của Nhà nước, ý chí của chủ thể tham gia giao dịch thì HĐVH được
chia thành:
- Hợp đồng dân sự đương nhiên vô hiệu (vô hiêu tuyệt đối): là hợp đồng
không có hiệu lực pháp luật ngay từ khi giao kết, không có giá trị về mặt pháp luật
không làm phát sinh quyền và nghĩa của các bên. Do vậy cả trường hợp các bên
tham gia hợp đồng đã ký kết và thực hiện sẽ không có giá trị pháp lý. Các bên
9


tham gia phải chấm dứt thực hiện và quay lại trạng thái ban đầu và hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận.

- Hơp đồng vô hiệu khi có yêu cầu (vô hiệu tương đối): Là hợp đồng có khả
năng khắc phục, nó được coi là hợp đồng có thể hiệu lực nhưng cũng có thể bị vô
hiệu theo sự lựa chọn của một trong các bên kia hợp đồng. Hợp đồng này thông
thường không xâm phạm trật tự công cộng và đạo đức xã hội và chỉ có thể bị vô
hiệu đối với bên có lỗi mà không vô hiệu với bên không có lỗi. Khi xác định hợp
đồng vô hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên đã thoả thuận đều không có hiệu
lực pháp luật, còn trong trường hợp hợp đồng đó được thừa nhận sau khi đã khắc
phục thì đương nhiên quyền, nghĩa vụ của các bên sẽ được pháp luật bảo vệ theo
sự cam kết thoả thuận của các bên. Hợp đồng khắc phục là hợp đồng mới. Với hợp
đồng vô hiệu tuyệt đối lại khác. Đây thường là hợp đồng vi phạm điều cấm của
pháp luật nên trong thực tế Toà án và các cơ quan có thẩm quyền không cho phép
khắc phục mặc dù các bên có mong muốn được khắc phục.
* Dựa vào các quy định trong BLDS 2005.
- Hợp đồng dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều
128 BLDS 2005). Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không
cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những
chuẩn mực chung trong đời sống xã hội, đựơc cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- Hợp đồng vô hiệu do giả tạo. (Điều 129 BLDS 2005).
Ý chí đích thực và sự thể hiện ý chí đó phải là sự thống nhất. Khi hai cái đó
không có sự đồng nhất thì hợp đồng dân sự vô hiệu. Trên cơ sở này, pháp luật quy
định HĐDS được xác lập một cách giả tạo thì hợp đồng này vô hiệu còn hợp đồng
bị che giấu vẫn có hiệu lực. Nếu hợp đồng bị che giấu cũng vi phạm điều kiện có
hiệu lực của hợp đồng thì cũng bị coi là vô hiệu. Ngoài ra khi các chủ thể xác lập
hợp đồng nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ 3 thì cũng bị coi là vô hiệu.
- Họp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập thực hiện. (Điều
130 BLDS 2005) Đối với các HĐDS được xác lập, thực hiện bởi người chưa thành
10



niên, người mất NLHVDS, người bị hạn chế NLHVDS mà theo quy định của pháp
luật hợp đồng này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện thì pháp luật
cho phép người đại diện của những người này có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
HĐVH.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn. (Điều 131 BLDS 2005). Ở đây,
HĐDS được xác lập bởi sự nhầm lẫn không có sự thống nhất ý chí đích thực với
sự thể hiện ý chí đó ra bên ngoài. Do đó bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Toà án
tuyên bố HĐDS vô hiệu mà không cần phải yêu cầu bên kia thay đổi nội dung
hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ. (Điều 132 BLDS 2005).
Là hợp đồng mà bản thân chủ thể xác lập hợp đồng bị “tê liệt” về ý chí và
không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc lựa chọn ý chí của một bên (đe doạ)
hoặc sự nhận thức không đúng về HĐDS bởi hành vi vi phạm pháp luật, bởi sự
định hướng ý chí của chủ thể thành một nội dung khác có lợi cho người định
hướng (lừa dối).
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ
hành vi của mình (Điều 133 BLDS 2005).
Một người có năng lực hành vi dân sư đầy đủ có thể xác lập hợp đồng theo ý
chí của mình. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp bản thân chủ thể xác lập
hợp đồng mặc dù có NLHVDS đầy đủ nhưng đã không xác lập hợp đồng vào đúng
thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Ví dụ trong tình
trạng say rượu, bia, các chất kích thích khác….
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ các quy định về hình thức.
(Điều 134 BLDS 2005).
Đối với các HĐDS mà pháp luật buộc các bên phải thông qua một hình thức
nhất định nhưng các bên lại không thông qua hình thức này thì Toà án hoặc cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền sẽ ấn định một thời hạn để các bên hoàn thành, quá
thời hạn này mà các bên không hoàn thành thì HĐVH.
11



- Hợp đồng vô hiệu từng phần. (Điều 135 BLDS 2005). Hợp đồng vô hiệu
từng phần khi một phần của hợp đồng vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến hiệu
lực của phần còn lại của hợp đồng.
- Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được (Điều
411 BLDS). Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được vì lý do khách quan thì HĐVH. Đối với HĐ DS vô hiệu do có
đối tượng không thể thực hiện được cần xác định cụ thể: trong trường hợp ngay từ
khi ký kết hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì
HĐVH. Ví dụ do sự kiện bất khả kháng làm cho đối tượng của hợp đồng không
còn: lũ, lốc, bão cuốn trôi tài sản…Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà
một bên nếu biết hoặc phải biết về việc đối tượng của hợp đồng không thể thực
hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp
đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Trong trường hợp hợp đồng có
nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được thì phần còn lại của hợp đồng vẫn
có hiệu lực.
4. Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Các hợp đồng không bị hạn chế bởi thời hiệu yêu cầu của Toà án tuyên bố
HĐVH là những hợp đồng mà mức độ vi phạm điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
là nghiêm trọng như hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội; HĐVH do giả tạo. Các hợp đồng có thực hiện yêu cầu Toà án tuyên bố
HĐVH là hai năm kể từ ngày xác lập hợp đồng bao gồm các loại hợp đồng: HĐVH
do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực
pháp luật dân sự; HĐVH do bị nhầm lẫn; HĐVH do bị lừa dối đe doạ; HĐVH do
người không nhận thức và làm chủ hành vi của mình xác lập; HĐVH do không
tuân thủ các quy định của pháp luật về hình thức.
5. Quy định về hợp đồng vô hiệu của pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ
a. Chế định hợp đồng dưới thời nhà Nguyễn.
Quan niệm về khế ước trong luật phong kiến Việt Nam phần lớn giống quy
định của pháp luật về hợp đồng vô hiệu của chúng ta hiện nay. Khế ước phải được

12


đặt trên sự ưng thuận của các bên tham gia, người tham gia khế ước phải có năng
lực pháp lý nhất định. Khi tham gia vào khế ước phải hoàn toàn ngay thẳng,
nghiêm túc, không có sự lừa dối cưỡng ép, trong một số giao dịch có tính chất đặc
biệt, có giá trị lớn còn phải tuân theo các quy định về hình thức. Nếu các bên tham
gia khế ước không tuân thủc các điều kiện về nội dung, điều kiện về hình thức của
khế ước thì vô hiệu, không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia khế ước. Về nguyên tắc khế ước vô hiệu các bên quay trở lại tình trạng ban
đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Khi giải quyết hậu quả pháp lý khế ước
dân sự vô hiệu không thuần tuý là trách nhiệm dân sự mà trong nhiều trường hợp
ngoài các quy định về trách nhiệm dân sự còn áp dụng những chế tài của pháp luật
hình sự. Tuy nhiên cách lập pháp còn khác xa so với luật hiện tại đó là: không dự
liệu được các tình huống xảy ra trong thực tế, không phân biệt giữa hai ngành luật
dân sự và luật hình sự, mang nặng tư tưởng chính trị, cổ hủ của chế độ phong kiến
thời đó.
b. Dưới thời Pháp thuộc.
Thời Pháp thuộc lần đầu tiên trong lịch sử nước ta các bộ Dân luật được ban
hành với tư cách là một ngành luật độc lập. Các bộ luật trong thời kỳ này ảnh
hưởng trực tiếp của bộ Dân luật Pháp 1804 nhưng có nhiều điều được sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ này và đặc biệt
phù hợp với phương thức thanh toán phổ thông ở Việt Nam. Kể từ năm 1945 đến
trước năm 1986 do đất nước ta còn chiến tranh và sau chiến tranh do duy trì nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nên chế định hợp đồng không phát triển, các
quy định của pháp luật điều chỉnh không nhiều. Chỉ đến khi đất nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường thì pháp luật dân sư mới phát triển mạnh mẽ. So với
giai đoạn trước chúng ta đã ban hành được nhiều các đạo luật quan trọng, tạo ra
một khung pháp lý cho các giao dịch phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật mới
chỉ hạn chế ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật, nhiều khi chỉ mang tính

tình thế, tạm thời, còn chồng chất, không phù hợp, nhiều quan hệ dân sự chưa được
điều chỉnh, gây khó khăn cho các chủ thể tham gia quan hệ dân sự cũng như cơ
quan thi hành pháp luật. Toà án các cấp chủ yếu dựa vào các báo cáo tổng kết
13


ngành hàng năm, báo cáo chuyên đề, các Thông tư liên tịch của TANDTC,
VKSNDTC, BTP, hướng dẫn thi hành của TANDTC trong hoạt động xét xử. Chỉ
đến khi BLDS ra đời đã khắc phục được phần lớn những khuyết điểm này. Tuy
nhiên chế định hợp đồng là một vấn đề phức tạp và luôn thay đổi theo thời gian. Vì
vậy trong quá trình soạn thảo BLDS không tránh khỏi những tình huống mà các
nhà làm luật chưa tổng kết, không phù hợp, nên trong quá trình thực hiện đã phát
sinh những bất cập của nó.
II. XÁC ĐỊNH HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HIỆN HÀNH
1. Căc cứ xác định hợp đồng vô hiệu
Vì các quy định của giao dịch dân sự vô hiệu được áp dụng đối với HĐVH từ
Điều 127 đến Điều 138 BLDS 2005 nên các căn cứ xác định HĐVH có những căn
cứ sau:
Thứ nhất: Người tham gia xác lập hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định cuả BLDS thì “Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá
nhân bằng hành vi xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự ”. Để phân biệt khả
năng tham gia xác lập hợp đồng, pháp luật nước ta căn cứ vào độ tuổi của cá nhân
“người từ đủ 18 tuổi trở lên là người thành niên, người chưa đủ 18 tuổi là người
chưa thành niên” (Điều 18 BLDS 2005).
- Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ trường hợp giao dịch phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
- Người chưa đủ 6 tuổi thì các hợp đồng, các giao dịch của họ do người đại diện
xác lập, thực hiện. Có nghĩa là họ không được tham gia bất kỳ loại hợp đồng nào.

- Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không
cần có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có
quy địng khác.
14


- Người mất năng lực hành vi dân sự: mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình mọi hợp đồng thiết lập bởi họ bị
coi là vô hiệu.
- Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: nghiện ma tuý, các chất kích
thích khác dẫn đến phá tán tài sản thì các hợp đồng liên quan đến họ đều phải có sự
đồng ý của người đại diện, trừ trường hợp các giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt.
Thứ hai: Mục đích nội dung của hợp đồng không trái pháp luật, đạo đức xã
hôi. Mục đích có thể hiểu là “cái vạch ra là đích nhằm đạt được”. Nội dung là “mặt
bên trong của sự vật, cái được hình thành chứa đựng hoặc biểu hiện”. Trong
HĐDS, mục đích được hiểu là lợi ích hợp pháp mà các bên đã vạch ra sẵn trong ý
nghĩ và mong muốn đạt được khi thực hiện hợp đồng. Còn nội dung hiểu theo
nghĩa rộng là tất cả các điều kiện có liên quan tới hợp đồng: điều kiện về chủ thể,
đối tượng, số lượng, nguyên tắc hợp đồng… Mục đích, nội dung là sự thể hiện
hành vi có ý thức của con người khi xác lập hợp đồng và được pháp luật công nhận
và bảo vệ, nó là điều kiện cần và đủ của HĐDS. Vì có những trường hợp nội dung
của hợp đồng trái pháp luật, đạo đức xã hội nhưng mục đích thì không và ngược
lại. Trong thực tiễn xét xử, khi xem xét HĐVH vi phạm điều cấm của pháp luật và
trái đạo đức xã hội cho thấy các nhà thực thi pháp luật thường xem xét đến những
vấn đề cụ thể như: HĐDS có vi phạm điều cấm nào, có xâm hại đến trật tự công
cộng không, các chủ thể có biết về sự bất hợp pháp này không, những nội dung bất
hợp pháp này đã gây ra hậu quả chưa?....Khi đã xem xét các vấn đề này thì tuyên
bố HĐVH, các bên phải chịu những chế tài nhất đinh.

Thứ ba: Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
Điều kiện cần để 1 người tham gia giao kết hợp đồng một cách tự nguyện là
khi người đó phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Trong hợp
đồng tự do ý chí, tự nguyện được hiểu là: quyền tự do ý chí về thoả thuận ký kết
hợp đồng, với nội dung và nghĩa vụ ràng buộc, quyền tự do thực hiện hợp đồng:
phương thức và ý thức thực hiện…Sự tự nguyện trong hợp đồng còn thể hiện
15


không bị lừa dối, đe doạ…Mọi sự tác động làm cho việc biểu hiện ý chí không phù
hợp với mong muốn đích thực của các chủ thể đều bị coi là vi phạm sự tự nguyện.
Thứ bốn: Điều kiện về hình thức.
Điều kiện này đòi hỏi các bên phải tuân theo đúng hình thức mà pháp luật quy
định cho loại hợp đồng đó. Trong trường hợp pháp luật không quy định cụ thể thì
các bên có quyền lựa chọn. Trong BLDS nước ta thì hình thức được xem như điều
kiện bắt buộc đối với các bên khi tham gia xác lập hợp đồng “hình thức của giao
dịch phù hợp với quy định của pháp luật”. Cũng theo quy định của pháp luật dân
sự một số loại hợp đồng phải tuân thủ nghiêm ngặt về hình thức nếu không sẽ vô
hiệu. Ví dụ hợp đồng mua bán nhà phải được lập thành văn bản, có công chứng
hay chứng thực của UBND cấp có thẩm quyền.
Tuy nhiên hiện nay các quy định về hình thức của hợp đồng khá phức tạp và
không thống nhất, gây khó khăn cho người thực thi pháp luật.
Tóm lại 4 điều kiện có hiệu lực của HĐDS được quy định trong BLDS là điều
kiện cơ bản, bắt buộc phải thực hiện đối với các chủ thể khi xác lập hợp đồng. Bốn
điều kiện trên là một thể thống nhất và hoàn chỉnh không xem nhẹ điều kiện nào.
Vì vậy nếu thiếu một trong 4 điều kiện thì HĐDS có thể bị tuyên bố là vô hiệu.
2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
2.1. Khái niệm chung về hậu quả pháp lý
Hậu quả theo nghĩa thông thường là “hậu quả không hay về sau” (Viện Ngôn
ngữ học, 1994, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội). Như vậy hậu quả trước

hết phải là một kết quả và kết quả đó phải xảy ra từ một sự kiện, một hành vi nào
đó, tức là sự kiện, hành vi và kết quả phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. Hành
vi sự kiện là nguyên nhân dẫn tới kết quả. Nói cách khác hậu quả phải xuất hiện
sau nguyên nhân. Tuy nhiên không phải tất cả kết quả đều là hậu quả, mà ở đây chỉ
có kết quả không hay mới được coi là hậu quả. Kết quả này gây bất lợi cho cá
nhân, tổ chức. Ví dụ: bão, lốc, lũ,.. gây cảnh ngập nước, gây thiệt hại cho người và
tài sản… Trong khoa học pháp lý chỉ những hành vi, sự kiện gây bất lợi cho cá
nhân, tổ chức và họ phải chịu hậu quả pháp lý nhất định nhưng phải được nhà làm
16


luật xác định hay dự liệu mới làm phát sinh hậu quả pháp lý. Mặc dù khái niệm
hậu quả pháp lý được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý, nhưng hiện nay các
nhà khoa học chưa đưa ra được khái niệm cụ thể nào. Các nhà lập pháp cũng chỉ đi
sâu vào nội dung của nó mà thôi.
Về nguyên tắc hậu quả pháp lý của HĐVH là không làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ dân sự đối với các bên từ thời điểm xác lập. Việc quy định này chỉ là cách
thức quy định của nhà làm luật, còn trong thực tế khi Toà án giải quyết các vụ kiện
xin tuyên bố HĐVH thường là các bên đã thực hiện toàn bộ hoặc một phần những
gì họ đã thoả thuận với nhau. Do vậy trong thực tế rất ít khi gặp các trường hợp khi
Toà án tuyên bố HĐVH lại có thể khắc phục được hậu quả như nhà làm luật quy
định ví dụ như: vật tiêu hao, vật trượt giá …
2.2. Giải quyết hậu quả pháp lý khi hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu
Giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH là buộc các bên “…khôi phục lại tình
trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng
hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu
được bị tịch thu theo quy định cuả pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi
thường” (khoản 2 Điều 137 BLDS 2005). Bình thường do quy định của các bên có
thoả thuận trước về hậu quả, ví dụ: phạt, phạt cọc… khi một bên có lỗi và phải
chịu hậu quả tương ứng với lỗi do họ gây ra. Do đó HĐVH chỉ có thể làm phát

sinh hậu quả về trách nhiệm dân sự hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
2.2.1. Chấm dứt thực hiện HĐDS
Khi một hợp đồng không có giá trị pháp lý tại thời điểm ký. Do vậy không có
giá trị bắt buộc các bên tham gia hợp đồng, nghĩa là các bên không còn ràng buộc
bởi quyền và nghĩa vụ với nhau. Nói cách khác, khi hợp đồng vô hiệu thì quyền và
nghĩa vụ của các bên không được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trong thực tiễn
hiện nay khi giải quyết hậu quả HĐVH tại Toà án hiện nay hầu như các Thẩm phán
chỉ tuyên bố huỷ HĐVH, không đề cập nhiều tới việc các bên chấm dứt phải thực
hiện hợp đồng.
2.2.2. Xử lý hậu quả pháp lý của HĐVH
17


Đối với trường hợp giải quyết tài sản của HĐDS mà các bên tham gia hợp
đồng mới chỉ xác lập nhưng chưa thực hiện thì các bên chấm dứt thực hiện HĐVH
đó. Tuy nhiên hầu hết trong thực tế các hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì các bên đã
thực hiện hợp đồng rồi, có trường hợp đã thực hiện xong hợp đồng. Do vậy khi
tuyên bố HĐVH, quay lại tình trạng ban đầu là một vấn đề phức tạp, nhất là vấn đề
xác định thiệt hại, xác định lỗi và trách nhiệm của mỗi bên trong hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu.
- Vấn đề hoàn trả tài sản. Đây là một trong những biện pháp phổ biến để giải
quyết hậu quả của HĐVH nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu. Theo nghĩa thông
thường “tình trạng” được hiểu là: “tổng thể nói chung những hiện tượng hoặc ít
thay đổi, hoặc tồn tại trong một thời gian tương đối dài, xét về mặt bất lợi đối với
đời sống hoặc những hoạt động nào đó của con người.” (Viện ngôn ngữ học, 1994,
Từ điển Tiếng việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội). Trong HĐDS việc quay lại tình trạng
ban đầu được hiểu là quay lại thời điểm mà các bên đã bắt đầu tham gia ký kết.
Ví dụ: trong quan hệ mua bán thì hoàn trả tài sản nghĩa là bên bán nhận lại tài
sản từ bên mua, còn bên mua thì nhận lại tiền từ bên bán. Tuy nhiên trong thực tiễn
không phải lúc nào tài sản hoàn trả cũng còn nguyên giá trị của nó tại thời điểm

hợp đồng được giao kết, thông thường nó bị biến đổi dưới tác động của yếu tố tự
nhiên - xã hội:
+ Tài sản bị tác động của tự nhiên làm cho hao mòn nhưng xấu đi so với lúc
đầu khi giao kết.
+ Tài sản bị giảm sút giá trị hoặc tăng giá trị do tác động của con người.
+ Tài sản có thể tăng hay giảm giá trị do tác động của quy luật cung cầu, quy
luật của nền kinh tế thị trường….
+ Khi quản lý tài sản các đương sự có thể khai thác một số lợi ích nào đó và
cũng có thể đầu tư công sức, tiền bạc làm tăng giá trị và bảo quản tài sản
- Vấn đề xác định thiệt hại xảy ra.

18


Đa số các nhà khoa học đều xác định thiệt hại xảy ra là những hao mòn,
những hư hỏng do con người tác động làm giảm giá trị của tài sản, là thiệt hại buộc
bên có lỗi phải bồi thường. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là trượt giá của tài sản là đối
tượng của hợp đồng và trượt giá tiền có được coi là thiệt hại xảy ra. Có quan điểm
cho rằng không coi vấn đề trượt giá là thiệt hại và cho rằng sự biến động này hoàn
toàn do quy luật kinh tế khách quan, không liên quan gì tới việc xác lập hợp đồng
của các bên. Vì “HĐVH không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên từ
thời điểm xác lập, do đó không có sự vi phạm nghĩa vụ khi nghĩa vụ đó không có”
(“vấn đề áp dụngcác quy định của BLDS trong thực tiễn xét xử của Toà án”, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ, Hà Nội ). Có quan điểm cho rằng, trượt giá gây thiệt
hại cho bất cứ bên nào đều phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Khi xác định
trách nhiệm phải căn cứ vào lỗi đề buộc bên gây thiệt hại phải bồi thường theo quy
định của pháp luật. Thiết nghĩ quan điểm thứ hai là hợp lý vì khi HĐVH chắc chắn
có sự vi phạm hoặc một trong hai bên hoặc cả hai không mong muốn đạt được lợi
ích từ viêc giao kết hợp đồng này vì thế họ phải chịu trách nhiệm với nhau, và
trước pháp luật về sự lựa chọn cũng như sự vi phạm của họ.

2.2.3. Hậu quả pháp lý theo thoả thuận của các chủ
thể được Toà án công nhận
Trong pháp luật dân sự, nguyên tắc tự do cam kết, thoả thuận là nguyên tắc
đặc trưng xuất phát từ tính độc lập về sở hữu, tính tự chủ và độc lập về tài sản, tự
chịu trách nhiệm của các chủ thế. Vì vậy nguyên tắc thoả thuận trở thành một
nguyên tắc cơ bản và bao trùm toàn bộ Luật dân sự, được quy định cụ thể chi tiết
tại Điều 7 BLDS 2005. Khi đặt vấn đề giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH theo
sự thoả thuận của các chủ thể, sự thoả thuận phải dựa trên mấy nguyên tắc :
- Các chủ thể này phải có năng lực pháp luật, năng lực hành vi, nếu trong
trường hợp bị mất, hạn chế, hoặc không có năng lực hành vi dân sự thì phải có
người đại diện hoặc giám hộ.
- Các chủ thể HĐVH có quyền tự định đoạt việc tự thoả thuận với nhau về
giải quyết hậu quả mà không bị ép buộc bởi bất cứ yếu tố nào.
19


- Đối với HĐVH có mục đích, nội dung trái pháp luật về nguyên tắc các bên
không được thực hiện hợp đồng mới có nội dung, hình thức như hợp đồng đã vô
hiệu mà chỉ có thể thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của HĐVH,
- Trình tự của việc thoả thuận phải theo quy định cuả pháp luật
2.2.4. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ 3 ngay tình khi HĐVH
* Nhận thức chung về người thứ 3 ngay tình khi tham gia hợp đồng.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người thứ 3 ngay tình được hiểu
là người được chuyển giao tài sản thông qua HĐVH mà họ không biết, không buộc
phải biết là tài sản đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một HĐVH do chủ
sở hữu xác lập trước đó. Sự không biết hay không buộc phải biết ở đây còn được
thể hiện đối với một người bình thường thì không thể biết được tài sản đưa vào hợp
đồng xuất phát từ một HĐVH. Do đó pháp luật không đòi hỏi họ phải biết trong
trường hợp này. Thông thường trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, người ta căn
cứ vào yếu tố khách quan của các bên tham gia hợp đồng để xác định tính chất này.

Đối với tài sản không cần giấy tờ sở hữu mà người chiếm hữu tài sản khẳng định
đó là tài sản của họ thì người mua không buộc phải biết. Đối với loại tài sản mà
theo pháp luật phải có giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, thì người chiếm giữ tài
sản có giấy tờ sở hữu và người mua trong điều kiện thông thường đối với một
người bình thường thì buộc phải biết. Trong trường hơp nhìn bằng mắt thường thì
không thể phát hiện ra đó là giấy tờ giả thì không có lỗi của bên mua.
*) Điều kiện xác định người thứ 3 ngay tình khi HĐVH. Để xác định người
thứ 3 ngay tình thông thường căn cứ vào những điểm sau:
+ Trước khi người thứ 3 tham gia vào hợp đồng, đối tượng của hợp đồng này
được xác lập bởi một HĐVH.
+ Phải xem xét ý chí của người thứ 3 thể hiện ra bên ngoài như thế nào. Nếu ở
vào điều kiện thông thường thì họ có thể biết được tài sản này có phải là được xác
lập bởi một HĐVH trước đó hay không?

20


+ Người thứ 3 ngay tình phải là người có năng lực pháp luật, năng lực hành
vi, nếu không phải có người giám hộ hay đại diện.
+ Họ đã nhận được tài sản từ hợp đồng và mục đích của hợp đồng đã đạt được.
+ Hợp đồng do họ tham gia hoàn toàn phù hợp với quy định của luật pháp.
* Giải quyết hậu quả pháp lý.
Khi giải quyết hậu quả pháp lý của HĐVH khi có người thứ 3 ngay tình cần
được bảo vệ phải xem xét một số yếu tố: xem xét tính có hiệu lực của HĐVH do
người thứ 3 ngay tình xác lập, khả năng nhận thức, tính có lỗi hay không của các
bên tham gia hợp đồng, người thứ 3 có nghĩa vụ chứng minh họ hoàn toàn ngay
tình. Điều 138 BLDS 2005 quy định cụ thể về bảo vệ quyền lợi của người thứ 3
ngay tình khi HĐVH.
Thứ nhất: Với loại tài sản theo pháp luật quy định được phép đưa vào giao
dịch trên thị trường và là loại tài sản thông dụng, những người tham gia hợp đồng

không nhất thiết phải điều tra xác minh về nguồn gốc tài sản. Với loại tài sản
không mang tính thiết yếu, với tài sản không thể lấy lại được khi tuyên bố HĐVH
chỉ cần buộc các bên hoàn lại cho nhau theo nguyên tắc bù trừ nghĩa vụ.
Thứ hai: Với loại tài sản Nhà nước cấm đưa vào lưu thông trên thị trường và
thuộc diện Nhà nước quản lý, hay nhất thiết phải trả cho chủ sở hữu thì khi tuyên bố
HĐVH, Toà án có thể căn cứ vào pháp luật quy định với từng loại tài sản để buộc
người thứ 3 tham gia hợp đồng trả lại cho Nhà nước, buộc người chuyển giao tài
sản, phải bồi thường thiệt hại cho người thứ 3 ngay tình theo thời giá. Đối với hợp
đồng mà đối tượng là tài sản đặc trưng của chủ sở hữu, mà chủ sở hữu yêu cầu phải
trả lại ví dụ: nhà, đất…thì khi giải quyết hậu quả HĐVH cần giao lại tài sản cho chủ
sở hữu, buộc người tham gia xác lập hợp đồng bất hợp pháp phải hoàn trả lại tiền
cho người thứ 3 tương đương với thời điểm giao dịch và thiệt hại do họ gây nên.
III. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TUYÊN BỐ HỢP ĐỒNG
VÔ HIỆU TRONG MỘT SỐ HỢP ĐỒNG THÔNG DỤNG
1. Thực trạng áp dụng pháp luật tuyên bố hợp đồng vô hiệu
21


Việc tuyên bố HĐVH cũng như giải quyết hậu quả pháp lý trong thực tiễn xảy
ra khá nhiều, dưới đây em xin đơn cử một ví dụ:
Hợp đồng mua bán nhà vô hiệu.
Các vụ án về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà là một trong những vụ án
dân sự phức tạp, đường lối giải quyết còn nhiều vướng mắc. Trong đó phải kể đến
trường hợp hợp đồng mua bán nhà không tuân thủ về hình thức hợp đồng như các
bên chỉ lập giấy mua bán nhà mà không có công chứng, chứng thực. Bên bán nhà
xin huỷ hợp đồng có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân chủ yếu là do giá
nhà biến động theo chiều hướng đi lên nên không chịu tiếp tục thực hiện hợp
đồng…. Hợp đồng mua bán nhà những năm gần đây không thống nhất. Nguyên
nhân là do một số quy định của pháp luật chưa thật rõ ràng và chưa có văn bản
hướng dẫn thi hành.

2. Ý kiến cá nhân
2.1. Về hình thức của hợp đồng
Trong BLDS quy định hình thức là điều kiện bắt buộc trong một số loại hợp
đồng là không hợp lý bởi hình thức thực chất chỉ là sự thể hiện ý chí của các chủ
thể tham gia hợp đồng theo các ký tự giấy trắng mực đen, còn việc công chứng
Nhà nước hay chứng thực thực chất là sự xác nhận sự kiện pháp lý giữa các bên.
Pháp luật quy định vi phạm hình thức dẫn tới HĐVH thì sẽ tạo nên khoảng cách
nhất định giữa sự thống nhất ý chí và hiệu lực của hợp đồng. Hơn nữa nhà, đất là
bất động sản có giá trị lớn, thiết yếu. Do vậy việc đưa tài sản này vào chế định hợp
đồng là tất yếu. Tuy nhiên từ trước tới nay, Nhà nước ta thực hiện chưa tốt công tác
quản lý nhà, đất, thủ tục sang tên trước bạ rườm rà, thuế chuyển quyền sử dụng đất
cao. Vì vậy việc thực hiện quy định về hình thức đối với hợp đồng mua bán nhà,
đất rất phức tạp, khó khăn. Mặt khác, theo quy định tại Điều 401 thì chỉ quy định
hình thức giao dịch là lời nói, văn bản, hay bằng hành vi cụ thể, nhưng trên thực tế,
hiện nay trong điều kiện nền kinh tế thị trường sự xuất hiện của nhiều hình thức
giao dịch: điện báo, telex, thư điện tử. Có quan điểm cho rằng các hình thức giao

22


dịch này không được quy định trong luật nên HĐVH. Do vậy cần bổ sung các hình
thức giao dịch này vào các quy định về hình thức của hợp đồng.
Thêm nữa cần bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401. Mặc dù có lé dụng ý của nhà làm
luật muốn lưu ý khi áp dụng Điều 401 phải gắn với quy định ở phần giao dịch của
BLDS và các quy định khác có liên quan đến hình thức hợp đồng. Nhưng vì các
quy định về hình thức, thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu ở phần
giao dịch là đã khái quát và đầy đủ.
2.2. Về khái niệm điều cấm của pháp luật
Ta thấy khái niệm điều cấm của pháp luật có phạm vi hẹp hơn so với khái
niệm trái pháp luật. Khái niệm trái pháp luật bao trùm lên khái niệm vi phạm điều

cấm pháp luật, nên có thể nói những quy định không vi phạm điều cấm là một
phần, nằm trong khái niệm không trái pháp luật. Theo quy định của BLDS thì
trường hợp HĐDS trái pháp luật bị vô hiệu được quy định cụ thể tại Điều 127 và
giải quyết hậu quả pháp lý tại Điều 137, còn đối với giao dịch dân sự vi phạm điều
cấm của luật và trái đạo đức xã hội được quy định tại Điều 128. Như vậy đối với
HĐVH trái đạo đức xã hội, khi giải quyết hậu quả pháp lý cũng có thể căn cứ vào
Điều 127. Thực tiễn giải quyết tại Toà án không phải mọi trường hợp HĐVH do vi
phạm điều cấm đều bị tịch thu sung quỹ Nhà nước. Điều này còn tuỳ thuộc vào đối
tượng của HĐDS, loại tài sản…. Nhà làm luật nên chăng có hướng dẫn trong
trường hợp HĐVH do vi phạm điều cấm của pháp luật, thì trường hợp nào cần tịch
thu tài sản đưa vào hợp đồng, tài sản nào chỉ cần tịch thu lợi tức, trường hợp nào
không phải tịch thu. Mặt khác Điều 127 quy định hậu quả pháp lý của giao dịch
dân sự cũng như HĐVH nên chăng có thể bỏ quy định tại Điều 128, hướng dẫn áp
dụng thống nhất Điều 127 phần khái niệm “điều cấm của pháp luật” và “đạo đức
xã hội” có thể thêm vào điểm b khoản 1 Điều 122.
Tóm lại khi xem xét HĐVH cần chú ý: Trên nguyên tắc là hợp đồng phụ là
hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính nên sự vô hiệu của hợp đồng
chính làm chấm dứt hợp đồng phụ trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng
phụ thay thế hợp đồng chính. Quy định hợp đồng chính vô hiệu cũng không áp
23


dụng với các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự. Điều đó có nghĩa là hợp đồng
chính vô hiệu nhưng các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị thi hành. Sự vô hiệu của
hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.
IV. KẾT LUẬN
Cùng với sự phát triển của xã hội, HĐDS ngày càng phát triển đa dạng, phức
tạp đa dạng. Vì vậy các chế định về HĐDS ngày càng được mở rộng. Trạng thái
của hợp đồng dân sự vô hiệu trong thực tế rất đa dạng và không ít trường hợp khi

tham gia giao kết hợp đồng chủ thể vẫn không nắm được các quy định của pháp
luật dẫn tới HĐVH ngay từ thời điểm giao kết. Để khuyến khích HĐDS phát triển
và giảm bớt tình trạng vô hiệu, trong thời gian tới chúng ta cần hoàn chỉnh hệ
thống pháp luật về chế định hợp đồng. Cùng với công tác hoàn thiện pháp luật cần
làm tốt công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật để đảm bảo tính thống nhất, đẩy
mạnh công tác tuyên truyền pháp luật cũng như tăng cường chuyên môn nghiệp vụ
của cán bộ công tác trong ngành luật./.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1, NXB CAND, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2007.
2. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2, NXB CAND, Trường Đại học
Luật Hà Nội, 2007.
3. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1 NXB Giáo dục, 2009.
4. Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 2 NXB Giáo dục, 2009.
5. BLDS 2005.
6. BLDS 1995.
7. Luận án Tiến sỹ luật học, Nguyễn Văn Cường, trường Đại học Luật Hà
Nội, 2005.
8. Luật dân sự Việt Nam trong thực tiễn xét xử, Tưởng Duy Lượng, Nxb Giáo
dục, 2009.
9. Tạp chí TAND, số 2, 2006; số 3 năm 2008; số 2 năm 2007.
10. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 10, năm 2006; 11 năm 2007; 5, năm 2005.
11. Tạp chí luật học số 4, 11, năm 2006
12. Tạp chí dân chủ pháp luật số 3,1 năm 2006, số 3, 11 năm 2007.
13. Thongtinphapluadansu.wordpress.vn


25


×