Tải bản đầy đủ (.doc) (175 trang)

Đảng lãnh đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015 (Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.11 KB, 175 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công
trình nghiên cứu của riêng tác giả.
Các số liệu, trích dẫn trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng. Luận án không trung lặp với các
công trình khoa học đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NCS Nguyễn Thị Hiền


MỤC LỤC

Trang

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.2. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG VỀ ĐÀO
TẠO GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG (2001 - 2006)

5


12
12
28
32

2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng về đào
tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao
32
đẳng (2001 - 2006)
2.2. Chủ trương của Đảng về đào tạo giảng viên lý luận chính
40
trị cho các trường đại học, cao đẳng (2001 - 2006)
2.3. Đảng chỉ đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các
51
trường đại học, cao đẳng (2001 - 2006)
Chương 3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐÀO TẠO GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁC TRƯỜNG ĐẠI
HỌC, CAO ĐẲNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
(2007 - 2015)
75
3.1. Tình hình mới và chủ trương của Đảng về đào tạo giảng
viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng
75
(2007 - 2015)
3.2. Đảng chỉ đạo đào tạo giảng viên lý luận chính trị cho các
trường đại học, cao đẳng trong tình hình mới (2007 - 2015) 87
Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
113
4.1. Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo giảng viên lý luận
chính trị cho các trường đại học, cao đẳng (2001 - 2015)

113
4.2. Một số kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo
giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao
136
đẳng (2001 - 2015)
KẾT LUẬN
153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

155
156
172


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
Bộ Giáo dục và Đào tạo
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chủ nghĩa xã hội
Giảng viên lý luận chính trị
Nhà xuất bản
Trang
Xã hội chủ nghĩa

CHỮ VIẾT TẮT
BGDĐT
CNH, HĐH

CNXH
GV LLCT
Nxb
Tr
XHCN


5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Thách thức của cuộc đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, thù
địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đội ngũ cán bộ lý luận, trong đó, GV LLCT trong các trường đại học, cao đẳng
giữ vị trí quan trọng.Sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch nhằm thực
hiện âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
hướng tới mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, xóa bỏ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã đặt ra
nhiệm vụ rất nặng nề đối với cán bộ tư tưởng, lý luận nói chung, GV LLCT
trong các trường đại học, cao đẳng nói riêng. Muốn giữ gìn, bảo vệ và phát triển
nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết đội
ngũ cán bộ lý luận được đào tạo phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực sự
giỏi về chuyên môn, tinh thông nghiệp vụ. GV LLCT ở các trường đại học, cao
đẳng là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ tư tưởng lý luận. Thông qua vai trò
trang bị những kiến thức khoa học về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước cho sinh viên, góp phần tuyên
truyền, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, nâng cao chất
lượng đào tạo GV LLCT có ý nghĩa cấp thiết và rất quan trọng.
Công tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng đã
đạt được những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế
nhất định. Ở các trường đại học, cao đẳng, giáo dục lý luận chính trị được tiến

hành một cách đồng thời cùng với giáo dục các khoa chuyên ngành, trau dồi các
tri thức chuyên môn nghề nghiệp cho sinh viên, nhằm góp phần thực hiện mục
tiêu giáo dục là đào tạo ra những cán bộ khoa học trẻ không chỉ giỏi về chuyên
môn, nghiệp vụ mà còn tốt cả về phẩm chất chính trị, tư tưởng và đạo đức, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN. Tuy


6
nhiên, trong thời gian qua, công tác giáo dục lý luận chính trị trong các nhà trường
đang bộc lộ những mặt hạn chế. Nội dung, chương trình lạc hậu, phương pháp
giảng dạy theo lối áp đặt, người học tiếp nhận thụ động, dạy và học theo lối kinh
viện, giáo điều, lý luận không gắn với thực tiễn, thực hành; một bộ phận GV
LLCT còn hạn chế về cả kiến thức, kỹ năng và phương pháp sư phạm; tài liệu, cơ
sở vật chất nghèo nàn. Tại các cơ sở đào tạo GV LLCT cũng ít nhiều tồn tại tình
trạng trên. Điều này, ảnh hưởng rất lớn đến tình hình giảng dạy cũng như chất
lượng giáo dục lý luận chính trị nói chung, ở các trường đại học, cao đẳng nói
riêng. Từ đó, đặt ra yêu cầu vô cùng bức thiết phải đổi mới công tác giáo dục lý
luận chính trị, mà trước hết phải nâng cao chất lượng đào tạo GV LLCT cho các
trường đại học, cao đẳng. Bởi, đào tạo là một trong những khâu trọng yếu, đột phá
tác động trực tiếp đến chất lượng GV LLCT.
Cùng với những thăng trầm của lịch sử, đào tạo GV LLCT đã có những
biến đổi nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục lý luận chính trị ở các
trường đại học, cao đẳng qua từng thời kỳ, tuy nhiên, số lượng và chất lượng đào
tạo không phải bao giờ cũng đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn giáo dục.
Các cơ sở đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng là không nhiều;
công tác đào tạo, quản lý đào tạo GV LLCT còn nhiều mặt lỏng lẻo, chưa thực
sự thống nhất về chương trình nội dung; nhận thức, nhu cầu xã hội của học sinh
phổ thông đối với các chuyên ngành lý luận chính trị còn hạn chế; chất lượng
đầu vào thấp, đầu ra hạn chế về vị trí việc làm. Đó là những vấn đề cần được
quan tâm, trong khi yêu cầu về chất lượng giáo dục lý luận chính trị trong nhà

trường đang đặt ra ngày càng cao và bức thiết.
Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, giải pháp nhằm tăng cường sự
lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung,
trong đó có đào tạo GV LLCT. Đó là những chủ trương, quan điểm chỉ đạo quan
trọng nhằm tiếp tục đổi mới đào tạo GV LLCT đáp ứng yêu cầu nâng cao chất
lượng giáo dục lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân.


7
Đặc biệt gần đây nhất, Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban
Bí thư, Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên
cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trong tình hình mới nhấn mạnh: Học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nội dung quan
trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng về mặt tư tưởng, vừa có vai trò
nền tảng, vừa có vị trí then chốt trong tình hình hiện nay. Do đó, đào tạo, bồi
dưỡng, tập huấn cán bộ tư tưởng lý luận, có cơ chế, chế độ phù hợp cho đội
ngũ GV LLCT là nhiệm vụ cấp thiết.
Cho đến nay, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV LLCT các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên,
các công trình trên chủ yếu tập trung khai thác phạm vi đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao trình độ cho đội ngũ hiện đang công tác tại các trường đại học,
cao đẳng. Hiện tại, nghiên cứu dưới mã chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam, chưa có công trình nào nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng về
đạo tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng.
Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Đảng lãnh đạo đào
tạo giảng viên lý luận chính trị cho các trường đại học, cao đẳng từ năm
2001 đến năm 2015” làm luận án tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng
Cộng sản Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo GV LLCT cho các
trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015. Từ đó, đúc kết một số
kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.


8
Thứ hai, làm rõ tác động của tình hình thế giới, trong nước đến quá
trình Đảng lãnh đạo đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng
(2001 - 2015).
Thứ ba, phân tích, luận giải chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng về đào tạo
GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng (2001 - 2015).
Thứ tư, nhận xét và đúc kết một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng lãnh
đạo đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng (2001 - 2015).
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động lãnh đạo của Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường đại
học, cao đẳng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Luận án nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về đào tạo GV
LLCT cho các trường đại học, cao đẳng. Đối tượng đào tạo là sinh viên bậc đại
học hệ chính quy tập trung các chuyên ngành: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế
chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tư tưởng Hồ Chí Minh và
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng đào tạo GV LLCT được tập trung
nghiên cứu trên các mặt: Công tác tuyển sinh; bổ sung, cập nhật chương trình,

nội dung, tổ chức quản lý quá trình đào tạo, xây dựng đội ngũ giảng viên; đầu
tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập; thực hiện tốt
chế độ, chính sách nhằm thu hút người học vào học các chuyên ngành đào tạo
GV LLCT.
Đào tạo sinh viên các chuyên ngành lý luận chính trị bậc đại học nằm
trong tổng thể chủ trương, chiến lược, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đào


9
tạo đại học. Do đó, bên cạnh việc khai thác những chủ trương, sự chỉ đạo của
Đảng về đào tạo sinh viên chuyên ngành lý luận chính trị, luận án còn khai
thác những chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về đào tạo đại học.
Về thời gian:
Luận án tập trung nghiên cứu khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm
2015. Tác giả chia thành 2 giai đoạn: 2001 - 2006 và 2007 - 2015. Vì năm
2001 là năm diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Đại hội nhấn mạnh
nhiệm vụ phát triển đội ngũ giáo viên nói chung, coi trọng chất lượng và đạo
đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ.
Năm 2007 là năm ban hành Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 01/8/2007,
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khóa X) của Đảng Về
công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới, trong đó khẳng định:
Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, nâng cao trình độ khoa học, bản lĩnh chính trị
và phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy các bộ môn
khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Năm 2015 là năm thực hiện Kết luận số 94-KL/TW ngày 28/3/2014 của
Ban Bí thư Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống
giáo dục quốc dân với yêu cầu: Đổi mới mạnh mẽ việc đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên lý luận chính trị, bảo đảm sát hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu tiếp tục đổi
mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân. Xây dựng cho
được đội ngũ giáo viên lý luận chính trị tâm huyết, yêu nghề, tuyệt đối trung

thành, có niềm tin, có kiến thức mới gắn với thực tiễn. Đây là nhân tố quyết định
sự thành công của việc tiếp tục đổi mới học tập lý luận chính trị trong nhà trường.
Bên cạnh đó, để bảo đảm tính hệ thống và đạt được mục đích nghiên
cứu, luận án có đề cập một số nội dung về đào tạo GV LLCT cho các trường
đại học, cao đẳng trước mốc thời gian nói trên.


10
Về không gian:
Luận án nghiên cứu thực tiễn đào tạo GV LLCT tại các cơ sở đào tạo
trên phạm vi cả nước. Trong đó, chủ yếu tập trung khảo sát ở các cơ sở đào
tạo GV LLCT: Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Sư phạm Hà Nội,
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận, thực tiễn
Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo giảng viên nói chung, trong đó có
đào tạo GV LLCT.
Cơ sở thực tiễn
Luận án được thực hiện trên cơ sở thực tiễn hoạt động lãnh đạo của
Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng (2001 - 2015).
Đồng thời, dựa trên số liệu báo cáo tổng kết của Đảng, các cơ quan Nhà nước,
các cơ sở đào tạo và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học
có liên quan đã được công bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu: Phương pháp lịch sử và phương
pháp lôgic, kết hợp nhuần nhuyễn hai phương pháp đó trong toàn bộ nội dung
luận án. Tuy nhiên, chương 2, chương 3 thiên nhiều về phương pháp lịch sử,
chương 4 thiên nhiều về phương pháp lôgic.

Phương pháp phân tích tổng hợp: Làm rõ những chủ trương, chỉ đạo,
nhận xét và kinh nghiệm. đào tạo GV LLCT trong 15 năm qua phân tích 2
giai đoạn: 2001 - 2006 và 2007 - 2015, trong đó, tác giả luận án sử dụng
phương pháp phân tích tổng hợp nhiều hơn ở nội dung viết về nhận xét sự
lãnh đạo của Đảng và kinh nghiệm rút ra.


11
Phương pháp so sánh: Tác giả luận án sử dụng để so sánh chủ trương,
sự chỉ đạo của Đảng và kết quả (số liệu) giữa các giai đoạn: Trước năm 2001,
2001 - 2006, 2007 - 2015.
5. Những đóng góp mới của luận án
Thứ nhất, phân tích, luận giải làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của
Đảng về đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng từ năm 2001
đến năm 2015.
Thứ hai, đánh giá ưu điểm, hạn chế, tìm ra nguyên nhân của những ưu
điểm hạn chế đó trong quá trình Đảng lãnh đạo đào tạo GV LLCT cho các
trường đại học, cao đẳng từ năm 2001 đến năm 2015.
Thứ ba, đúc kết một số kinh nghiệm có giá trị, cung cấp luận cứ cho
Đảng tham khảo hoạch định chủ trương và chỉ đạo đào tạo GV LLCT cho các
trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho đổi
mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về đào tạo GV LLCT trong tình
hình mới.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch
định chủ trương, sự chỉ đạo về đào tạo GV LLCT cho các trường đại học, cao
đẳng trong các năm tiếp theo.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả đã
công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận án được kết cấu gồm 4 chương, 9 tiết.


12
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình của tác giả nước ngoài nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận án
Trong quá trình xây dựng CNXH ở LiênXô và một số nước Đông Âu,
cũng như các nước khác trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về
phương pháp và nội dung giáo dục tư tưởng, một số đã được dịch ra tiếng Việt.
Cuốn sách Nghệ thuật diễn giảng (1976) [135] đã khẳng định: Một
trong những hình thức quan trọng và thích hợp nhất để phổ biến kiến thức
chính trị, khoa học là bài giảng. Theo E.Phancôvích, những bài giảng được
chuẩn bị cẩn thận và truyền đạt tốt sẽ giúp cho người nghe có thêm kiến thức
mới trong từng lĩnh vực, biết tư duy sâu rộng và hiểu rõ hơn những hiện
tượng phức tạp của tự nhiên và xã hội. Giảng viên cần phải lao động miệt
mài, sáng tạo để đạt được kỹ năng diễn giảng. Muốn như vậy, giảng viên cần
phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên.
X.G.Lucônhin và V.V.Xêrêbriannicốp (Chủ biên, 1981), Phương pháp
giảng dạy các môn khoa học xã hội [123]. Công trình đã tổng kết những kinh
nghiệm giảng dạy khoa học xã hội ở các trường cao đẳng quân sự, sự vận
dụng những phương pháp và hình thức tiên tiến trong giảng dạy khoa học xã
hội, nhằm phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho tất cả giảng viên, đặc biệt là

đối với những giảng viên mới bước vào môi trường sư phạm. Với họ, sự
trưởng thành về nhân cách phụ thuộc vào sự tham gia các hoạt động giảng
dạy và nghiên cứu khoa học.
Khi nghiên cứu về cơ sở của hoạt động tuyên truyền tư tưởng của đảng
cộng sản, các nhà khoa học đã đi sâu phân tích làm rõ các đặc điểm và những


13
yêu cầu dưới góc độ tâm lý học, giáo dục học đối với hoạt động này. Nhà giáo
dục Xôviết nổi tiếng V.A.Cruchetxki (1981), Những cơ sở tâm lý học [72],
khẳng định: Nhiệm vụ quan trọng nhất của giáo dục cộng sản chủ nghĩa là
hình thành ở thế hệ trẻ niềm tin và tình cảm cộng sản chủ nghĩa vững chắc và
hành vi đạo đức dựa trên cơ sở niềm tin vào tình cảm đó. Chỉ có thể giải
quyết được nhiệm vụ đó bằng cách dựa trên những tri thức về quy luật tâm lý
của sự hình thành nhân cách tích cực và có mục đích, về những quy luật phát
triển đạo đức của nó cũng như sự hiểu biết đầy đủ những đặc điểm cá nhân.
Nhà giáo dục Xôviết M.I.Calinin (1983), Về giáo dục cộng sản chủ
nghĩa [66] đã nhấn mạnh một trong những phương pháp giáo dục tư tưởng quan
trọng là sử dụng và phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục đối với ý thức con
người. Theo M.I.Calinin, giáo dục và bồi dưỡng những phẩm chất cao quý đó là
một yếu tố hết sức quan trọng trong sự nghiệp giáo dục cộng sản. M.I.Calinin
cũng đã khẳng định: Cần phải đến với từng người, đánh giá họ, làm nổi bật
những mặt tốt của họ bởi vì không thể chỉ giáo dục dựa trên mặt tiêu cực.
Như vậy, muốn nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục tư tưởng, phải
đảm bảo đầy đủ các điều kiện cơ bản: Có sự am hiểu sâu sắc đặc điểm tâm lý
của đối tượng, phải khêu gợi được tính tích cực, tự giác của đối tượng và bản
thân chủ thể làm công tác giáo dục tư tưởng phải có trình độ, năng lực, phương
pháp luận khoa học và phẩm chất đạo đức trong sáng. Điều này chỉ có được
thông qua quá trình đào tạo và tự đào tạo.
Frederich K.S.Leung (2007), “Đào tạo giáo viên ở vùng Đông Á”,

Chuyên san Giáo dục quốc tế [105]. Công trình tập trung nghiên cứu về
những vấn đề liên quan đến đào tạo giáo viên vùng Đông Á bao gồm xu
hướng đại học hóa toàn bộ giáo viên các cấp, chương trình đào tạo giáo viên,
vấn đề bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên. Việc xây dựng một lý thuyết Đông
Á về đào tạo giáo viên trên cơ sở nhìn lại truyền thống lịch sử về đào tạo giáo


14
viên và những giá trị văn hóa tiềm ẩn của vùng Đông Á là rất cần thiết.
Masahairo Arimoto (2007), “Các trường sư phạm ở Nhật trước ngã ba
đường - Những thử thách và cơ hội trong thế kỷ XXI”, Chuyên san Giáo dục
quốc tế [128]. Tác giả đưa ra các nghiên cứu chi tiết về hệ thống các trường
đại học, cao đẳng và học viện đào tạo giáo viên ở Nhật Bản, bối cảnh lịch sử
của các trường sư phạm; những khác biệt chính giữa đại học sư phạm và các
đại học đa ngành, đồng thời nêu rõ những điểm mạnh cũng như những vấn đề
vướng mắc của hệ thống này.
David G.IMIG - Hiệp hội các trường ĐH, CĐ Sư phạm Hoa Kỳ (2011),
Hiện trạng giáo dục sư phạm trong thế kỷ XXI ở nước Mỹ [73]. Tác giả đã tập
trung phân tích những nhân tố luật pháp và chính trị tác động đến đào tạo giáo
viên và hoạt động của các trường sư phạm ở Mỹ. Theo đó, chương trình đào
tạo giáo viên theo kiểu truyền thống cần được xem xét lại. Những nhân tố gây
ảnh hưởng tới việc đào tạo giáo viên vẫn còn chưa được xác định thật rõ và
vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh hiệu quả của những phương thức đào
tạo khác nhau như xây dựng chương trình bốn năm hay là năm năm học và
những cách tiếp cận khác nhau như lấy học sinh làm trung tâm hay lấy thầy
giáo làm trung tâm. Chương trình đào tạo hiện nay đã thất bại trong việc tạo
ra một đội ngũ giáo viên có đủ năng lực vượt qua những thử thách và yêu cầu
ngày càng cao của nghề giáo để đáp ứng nhu cầu của nhà trường hiện đại.
Các công trình trên đều nhấn mạnh vai trò của người giảng viên trong
quá trình đào tạo. Tất cả những kỹ năng, nhân cách, tri thức của giảng viên

đều được hình thành thông qua đào tạo, bồi dưỡng. Để đáp ứng nhu cầu của
xã hội thì chương trình đào tạo giảng viên ở mỗi giai đoạn cần có sự thay đổi.
Các công trình đề cao tính thích ứng của chương trình đào tạo với thực trạng
và nhu cầu giáo dục, đào tạo.


15
1.1.2. Các công trình của tác giả trong nước nghiên cứu có liên quan
đến đề tài luận án
- Nhóm công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, Đảng
lãnh đạo đào tạo, bồi dưỡng giảng viên các trường đại học, cao đẳng.
Đại học Sư phạm - Đại học Quốc gia Hà Nội (1996), Nâng cao chất
lượng đào tạo giáo viên phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa
đất nước, Kỷ yếu hội thảo khoa học [85], các nhà khoa học đã đề cập đến
nhiều vấn đề khác nhau liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc nâng cao
chất lượng giáo viên và vai trò của trường sư phạm trong thực hiện nhiệm vụ
này. Các ý kiến tham luận thống nhất cho rằng: Chất lượng giáo dục phụ
thuộc chặt chẽ vào chất lượng đào tạo giáo viên, sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác đào tạo giáo viên tại các
trường sư phạm - với tư cách là đòn bẩy để tạo nên sự đổi mới của cả hệ
thống giáo dục. Những giải pháp được đưa ra tại Hội thảo tập trung vào
chương trình, nội dung và phương pháp đào tạo giáo viên, coi đây là những
khâu đột phá nhằm thiết thực đổi mới quá trình đào tạo giáo viên để đáp ứng
những biến đổi về kinh tế, xã hội đất nước.
Cuốn sách Trí thức Giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Văn Sơn (2002) [145]. Theo tác giả, đội ngũ
trí thức giáo dục đại học Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản: Là lực lượng trực
tiếp tham gia vào quá trình đào tạo ở bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục quốc
dân; đối tượng tác động chủ yếu của người trí thức giáo dục đại học là những sinh
viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh; mục đích lao động là nhằm đào tạo ra

những người lao động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt; trí thức giáo dục đại học
vừa là nhà giáo vừa là nhà khoa học, nhà chính trị. Từ việc đánh giá thực trạng về
cơ cấu, chất lượng của trí thức giáo dục đại học, tác giả đưa ra phương hướng, giải
pháp cơ bản để phát triển đội ngũ trí thức giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu về
nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình CNH, HĐH đất nước.


16
Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng
tới tương lai - Vấn đề và giải pháp [22]. Theo các tác giả, một trong các giải
pháp phát triển giáo dục trong những năm tới là phải củng cố, phát triển đội
ngũ nhà giáo. Việc đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là khâu
đột phá có ý nghĩa quyết định. Cần coi trọng việc bồi dưỡng năng lực, cải tiến
phương pháp giảng dạy cho nhà giáo để thích ứng, phù hợp với đặc điểm mỗi
địa phương và giáo dục lòng yêu người, yêu nghề cho nhà giáo.
Cuốn sách Giáo dục đại học - Quan điểm và giải pháp của Lê Đức
Ngọc (2005) [133] khi đề cập đến vấn đề đổi mới công tác giáo viên để nâng
cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học và cao đẳng, đã cho rằng: Có
hai lý do chính làm cho vấn đề đội ngũ nhà giáo trở thành mối quan tâm hàng
đầu của nhà trường ĐH. Thứ nhất, trình đội của đội ngũ quyết định chất
lượng và khả năng của một trường trong nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ xã
hội trong nền kinh tế hàng hóa. Thứ hai, chi phí lương và phụ cấp cho đội ngũ
này là khoản chi lớn nhất của mỗi trường đại học, nó gắn liền với vấn đề chất
lượng, hiệu quả và hiệu suất đào tạo. Từ đó, tác giả đề nghị: Cần có một tổ
chức để thực hiện việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên.
Nguyễn Thị Thu Hương (2012), “Xây dựng đội ngũ giảng viên trong
trường đại học - Thực trạng và giải pháp”, bài viết đăng trên Tạp chí Khoa học,
Đại học Quốc gia Hà Nội [118]. Từ việc đánh giá thực trạng đội ngũ và công tác
quản lý đội ngũ giảng viên trong trường đại học, tác giả đã đề xuất những giải
pháp nhằm xây dựng đội ngũ giảng viên trong các trường đại học ở Việt Nam.

Một trong những giải pháp mà tác giả đưa ra đó là đào tạo giảng viên cho các
trường đại học. Giáo dục Việt Nam chuyển từ đào tạo theo “cung” (đào tạo những
gì cơ sở đào tạo có, giảng viên có) sang đào tạo theo “cầu” (đào tạo theo nhu cầu
của khách hàng); củng cố hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Cần có một kênh
riêng để đào tạo, bồi dưỡng; phát triển đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, có bề
dày kinh nghiệm quản lý và công tác thực tiễn và có nghiệp vụ sư phạm.


17
Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy và việc xây dựng đội
ngũ giảng viên đại học hiện nay của tác giả Ngô Văn Hà (2013) [106]. Trên
cơ sở phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về người thầy giáo, tác giả đã
nêu lên một số luận đề về đặc điểm lao động của giảng viên; công tác giảng
dạy là loại lao động đặc thù; “người giảng viên đại học phải kết hợp trong bản
thân mình những phẩm chất năng lực của một nhà khoa học và một nhà giáo
dục - dạy học; nhiệm vụ của họ không chỉ là đào tạo nhân lực có trình độ cao
cho đất nước mà còn là chỗ dựa về khoa học cho các viện nghiên cứu và các
cơ sở sản xuất kinh doanh”. Đạo đức cách mạng của người giảng viên là sự
say mê với công việc giảng dạy, nghiên cứu, trung thực trong khoa học, tìm
tòi sáng tạo, có khát vọng chinh phục đỉnh cao của trí thức.
Luận án tiến sĩ Triết học, Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo
dục đại học Việt Nam hiện nay của Trần Thị Lan (2014) [121]. Tác giả quan
niệm, trí thức giáo dục đại học Việt Nam là một lực lượng xã hội hay một nhóm
xã hội - nghề nghiệp đặc thù, tiêu biểu của trí thức, là chủ thể của lĩnh vực giáo
dục đại học, có nhiệm vụ giảng dạy; nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển
giao công nghệ, tổ chức, quản lý hoạt động sư phạm nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ cao và phát triển nhân tài cho đất nước. Đánh giá
thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam và
những vấn đề đặt ra; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng
lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội

nhập quốc tế, phát triển kinh tế tri thức và đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Trong đó, không thể không kể đến giải pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ này.
Luận án tiến sĩ Khoa học giáo dục, Phát triển đội ngũ giảng viên Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế của
Nguyễn Văn Lượng (2015) [124]. Luận án tập trung khảo sát, nghiên cứu
thực trạng và đề xuất giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Phần thực trạng, tác giả đã đi sâu
phân tích nội dung, hình thức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giảng viên


18
trong đó có đề cập đến các hệ đào tạo và các khóa bồi dưỡng. Tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng, thực hiện chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, nâng cao năng lực
hội nhập quốc tế là một trong những giải pháp mà tác giả đã đề xuất. Tác giả
cho rằng đây là giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của giảng viên cả về
năng lực chuyên môn lẫn kiến thức, nghiệp vụ sư phạm, đáp ứng khung năng
lực của giảng viên. Vì vậy, để thực hiện hiệu quả giải pháp nêu trên cần đổi
mới các yếu tố cấu thành quá trình đào tạo, đề ra cách thức thực hiện và điều
kiện để thực hiện biện pháp đó. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài
là phát triển đội ngũ giảng viên tại hệ thống của Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh trên địa bàn thủ đô Hà Nội nên tác giả chưa khái quát được
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở tầm vĩ mô.
Gần đây nhất, luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đảng bộ Công an Trung ương lãnh đạo xây dựng đội ngũ giảng
viên các học viện, trường đại học Công an nhân dân từ năm 2001 đến năm
2010 của Nguyễn Thị Thu Trang (2017), đã khảo sát thực trạng, làm rõ những
yếu tố tác động đến công tác xây dựng đội ngũ giảng viên trong các học viện,
trường Công an nhân dân. Bên cạnh đó, luận án phân tích, làm rõ chủ trương
của Trung ương Đảng, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an
về xây dựng đội ngũ giảng viên các học viện, trường Công an nhân dân từ

năm 2001 đến năm 2010. Những chủ trương, sự chỉ đạo của Trung ương
Đảng về xây dựng đội ngũ giảng viên sẽ được kế thừa và khai thác, phân tích,
làm rõ hơn, phù hợp với nội dung nghiên cứu của nghiên cứu sinh.
Ngoài những công trình nêu trên, có thể kể đến một số bài nghiên cứu
của các học giả đăng trên tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tiêu biểu như: Nguyễn Văn
Duệ (1997), “Đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học - thực trạng và kiến nghị”,
Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (11) [75]; Nguyễn Duy Yên (2004), “Đổi mới
giáo dục trước hết phải đổi mới từ những người làm giáo dục”, Tạp chí Khoa
giáo, (10) [179]; Đinh Thị Minh Tuyết (2010), “Xây dựng và phát triển đội
ngũ giảng viên đại học”, Tạp chí Giáo dục, (250) [173]. Nhìn chung, các tác


19
giả nêu trên đều có chung quan điểm khi xem nhà giáo ở bậc đại học là lực
lượng nòng cốt xây dựng cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan tiến bộ,
trang bị tri thức và phương pháp tư duy khoa học, khả năng làm việc độc lập,
sáng tạo cho người học. Các tác giả nhận định, để nâng cao chất lượng đội
ngũ nhà giáo cần tập trung đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà
giáo theo hướng chuẩn hóa và hiện đại hóa; việc bố trí, sử dụng nhà giáo phải
hợp lý, coi trọng năng lực sáng tạo thực sự về chuyên môn nghiệp vụ đồng
thời phải tạo lập hệ thống động lực cho đội ngũ nhà giáo.
“Một số biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên trẻ” của Nguyễn Thế
Mạnh (2009) [127]; “Chính sách quốc gia về phát triển đội ngũ giảng viên đại
học Việt Nam” của Trần Khánh Đức (2009) [104]. Các công trình nghiên cứu
đã chỉ rõ việc phát triển đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu,
đạt chuẩn về chất lượng để thực hiện tốt mục tiêu, nội dung và kế hoạch đào
tạo, đáp ứng nhu cầu vừa tăng quy mô, vừa nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục đại học. Đổi mới và hiện đại hóa phương pháp dạy - học, chuyển từ
việc truyền đạt kiến thức thụ động “Thầy giảng, trò chép” sang hướng dẫn
tiếp cận tri thức một cách có hệ thống, người học chủ động tư duy phân tích,

tổng hợp, phát triển năng lực riêng của cá nhân. Đổi mới chương trình đào tạo
và bồi dưỡng giảng viên, chú trọng rèn luyện giữ gìn, nâng cao phẩm chất nhà
giáo. Khẩn trương đào tạo, bổ sung đội ngũ giảng viên có chất lượng cao để
đáp ứng mục tiêu đến năm 2020, 100% giảng viên có trình độ thạc sĩ; tăng chỉ
tiêu giảng viên có trình độ tiến sĩ lên 60%. Chú trọng đào tạo giảng viên nữ,
lựa chọn sinh viên giỏi để bổ sung cho đội ngũ giảng viên và tiếp tục đào tạo
học đạt trình độ cao.
Như vậy, các công trình trên tuy nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau
nhưng đều nhấn mạnh vai trò trung tâm của người giảng viên trong hoạt động
giáo dục. Chất lượng giáo dục phụ thuộc chặt chẽ vào chất lượng đào tạo giáo
viên.Việc đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo là khâu đột phá có ý


20
nghĩa quyết định. Những nội dung và giải pháp trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
giảng viên mà các tác giả đưa ra có ý nghĩa tham khảo cho tác giả luận án.
- Nhóm công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị cho các trường đại học, cao đẳng
Đề tài khoa học, Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý
luận chính trị các trường đại học, cao đẳng do Tô Huy Rứa (chủ nhiệm,
1994) [144], nhóm nghiên cứu đã khảo sát thực trạng đội ngũ GV LLCT ở các
trường đại học lớn ở các khu vực trung tâm; phân tích các chương trình đào
tạo GV LLCT của một số trường đại học, học viện khu vực Hà Nội, đồng
thời, đánh giá khái quát năng lực đào tạo lý luận Mác - Lênin của các trường
nêu trên; lấy đó làm cơ sở đề xuất khung chương trình đào tạo đội ngũ GV
LLCT với những bổ sung, thay đổi phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng
dạy và học các môn lý luận chính trị trong thời kỳ hiện tại.
Đề tài nghiên cứu khoa học, Đổi mới quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học Mác - Lênin - Kiến nghị và
giải pháp do Phạm Tất Dong (Chủ nhiệm, 1996) [74]. Với mục tiêu đưa ra

những giải pháp nhằm đổi mới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên các
môn khoa học Mác - Lênin, đề tài đã làm rõ yêu cầu nâng cao chất lượng
giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, đánh giá thực trạng của đội ngũ
giảng viên các môn khoa học Mác - Lênin trong các trường đại học, cao đẳng
của cả nước, chỉ ra ưu điểm, hạn chế của đội ngũ, nguyên nhân hạn chế. Công
trình đưa ra kiến nghị đổi mới chương trình từ mâu thuẫn khi đưa ra cùng một
lúc phải đáp ứng nhiều mục tiêu: “Mặc dù phải tuân thủ những yêu cầu chung
của sách giáo khoa chuẩn, song vẫn có sự thay đổi số lượng tiết học, thời gian
của chương trình”[74, tr.40]. Đây là một điều không thể thực hiện trong điều
kiện hiện nay.
Luận án tiến sĩ Triết học (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh của Nguyễn


21
Đình Trãi [167] đã chỉ ra những yêu cầu, biểu hiện đặc thù của công tác giảng
dạy lý luận Mác - Lênin, khảo sát sâu thực trạng năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh; chỉ
ra những nguyên nhân của những yếu kém về năng lực tư duy lý luận của cán
bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh; từ đó, đề xuất
những phương phướng và giải pháp cơ bản để nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ này. Đối với giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng, tạo
nguồn cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin, tác giả cho rằng công tác này đã
đạt được những kết quả to lớn, nhưng còn nhiều hạn chế, chưa thực sự đáp
ứng dược các yêu cầu thực tiễn, nhất là thực tiên đổi mới. Tuy nhiên, tác giả
chưa đi sâu vào luận bàn về công tác đào tạo, bồi dưỡng như thế nào để đạt
hiệu quả cao nhất.
Luận án tiến sĩ Triết học, Xây dựng đội ngũ trí thức khoa học Mác Lênin trong các trường đại học ở nước ta hiện nay của Phạm Văn Thanh
(2001) [146], đã khẳng định vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức khoa học
Mác - Lênin trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Tác giả luận án

đã đề xuất một hệ giải pháp nhằm từng bước tăng cường số lượng, đồng
thời nâng cao chất lượng đối ngũ này. Luận án cũng đề cập đến vấn đề chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng tại các cơ sở đào tạo lý luận chính trị như một
giải pháp có tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa
học Mác - Lênin. Kết quả nghiên cứu của công trình này là cơ sở để tác giả
luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu.
Đề tài KX 10-08, Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học
Mác - Lênin ở Việt Nam - Những vấn đề chung do Nguyễn Hữu Vui (Chủ
nhiệm, 2002) [176]. Đề tài nghiên cứu đổi mới phương pháp dưới một góc độ
hẹp - “giảng dạy”, đề tài trình bày một cách tổng quát về đội ngũ giảng viên
Mác - Lênin, về những phương pháp giảng dạy truyền thống thường gặp ở đội
ngũ và khẳng định: Muốn đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học


22
Mác - Lênin một cách hiệu quả, vấn đề phải được bắt đầu từ chính đổi mới tư
duy, nhận thức của đội ngũ giảng viên về phương pháp giảng dạy, về sự cần
thiết phải đổi mới phương pháp. Muốn vậy, cần thường xuyên bồi dưỡng,
nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chuyên môn cho đội ngũ. Đó cũng là
một trong những phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ, từ đó, có tác
động tích cực ngược lại đối với đổi mới phương pháp giảng dạy.
Đề tài khoa học Phương thức đào tạo đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị ở Phân viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay do Vũ Đình
Hòe chủ nhiệm (2002) [114]. Đề tài tập trung đánh giá thành tựu và hạn chế
trong hoạt động đào tạo đội ngũ GV LLCT cho các trường đại học, cao đẳng,
các trường chính trị tỉnh, thành ở Phân viện Báo chí và Tuyên truyền giai
đoạn từ 1990 đến 2002. Trong đó, đặc biệt chú ý đến các giải pháp chung nhằm
đổi mới phương thức đào tạo đội ngũ giảng viên lý luận chính trị: Thứ nhất, cần
đổi mới chương trình, nội dung đào tạo; thứ hai, cần đầu tư vào việc viết xuất
bản các giáo trình, tài liệu phục vụ cho dạy và học chuyên ngành; thứ ba, nâng

cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy; thứ tư, nâng cao chất lượng học tập và
rèn luyện của sinh viên theo hướng biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào
tạo; thứ năm, cần đổi mới quản lý quá trình đào tạo; thứ sáu, tăng cường cơ sở
vật chất phục vụ việc dạy và học. Những giải pháp này có ý nghĩa tham khảo đối
với đề tài luận án.
Ban Khoa giáo Trung ương với đề tài: Rà soát và đề xuất hướng sửa đổi,
bổ sung một số nội dung giáo dục đạo đức công dân, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường ở từng cấp học (2003) [12]. Đây là một
công trình nghiên cứu có mục tiêu tìm ra các giải pháp, nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học các môn lý luận chính trị, đạo đức công dân trong các bậc học
khác nhau. Để hoàn thành mục đích nêu trên, đề tài đã tập trung nghiên cứu về
thực trạng đội ngũ giáo viên, giảng viên giảng dạy các môn học này. Theo nhóm
tác giả, đội ngũ giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường


23
đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay tuy tăng nhanh về số lượng, song vẫn chưa
đáp ứng được nhu cầu đào tạo. Tình trạng dạy vượt giờ, quá tải khiến một số
đông đội ngũ không có thời gian đầu tư, hoàn thiện chuyên môn, ảnh hưởng
đáng kể đến chất lượng của đội ngũ. Để bổ sung sự thiếu hụt trên, cần tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV LLCT.
Hội thảo Khoa học, Thực trạng và giải pháp đổi mới, nâng cao chất
lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các trường đại học và cao đẳng do Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương tổ chức (2003) [20]. Hội thảo đã đánh giá, phân tích thực trạng giảng dạy,
học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường
đại học, cao đẳng, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy, học tập các môn khoa học này. Rất nhiều nhà khoa học tham gia Hội
thảo đã tập trung nghiên cứu về đội ngũ giảng viên, đề xuất các giải pháp cụ thể
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, coi đó là một trong những điều kiện

quan trọng để nâng cao một bước chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Luận án tiến sĩ, Kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học
trong giảng dạy lý luận chính trị ở các trường sỹ quan bậc đại học Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay của Nguyễn Văn Thạo (2005) [147]. Trên cơ sở
phân tích thực trạng kết hợp tính định hướng chính trị với tính khoa học trong
giảng dạy các môn lý luận chính trị, luận án đã đề ra một số giải pháp như:
Xây dựng đội ngũ giảng viên; tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình,
phương pháp, phương tiện giảng dạy lý luận chính trị. Tác giả cho rằng những
giải pháp đó cũng chính là giải pháp phát huy vai trò đội ngũ giảng viên trong
đổi mới giảng dạy lý luận chính trị. Đó là thành công nổi bật của luận án. Tuy
nhiên, luận án chưa chỉ ra được những nội dung cần đổi mới trong sự kết hợp
giữa tính định hướng chính trị với tính khoa học trong giảng dạy lý luận chính
trị; chưa phân tích sự kết hợp này như là vai trò nổi bật của đội ngũ giảng


24
viên các môn lý luận chính trị.
Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối ngành
Nông - Lâm - Ngư Đại học Nông nghiệp I chủ trì (2006) [78]; Đề án Đổi mới
phương pháp giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối ngành sư phạm Đại học Sư
phạm Hà Nội (Chủ trì, 2006) [84]; Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại
học, cao đẳng khối ngành kỹ thuật Đại học Bách khoa Hà Nội chủ trì (2006)
[77]; Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối ngành
khoa học Xã hội và Nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội chủ trì (2006) [79].
Các đề tài này chủ yếu phân tích đặc thù riêng của sinh viên ở mỗi
ngành học. Do vậy, giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh cho những đối tượng này cũng cần có phương pháp thích hợp. Trên cơ
sở đó, đề tài tập trung đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy các môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với đặc thù
sinh viên của từng khối ngành. Một trong những giải pháp được các đề tài chú
trọng là giải pháp về đội ngũ giảng dạy, trong đó đặc biệt chú ý vấn đề nâng cao
năng lực chuyên môn cho đội ngũ dựa trên việc nắm bắt những đặc điểm riêng
biệt cả về ưu điểm lẫn hạn chế của đội ngũ trong từng khối ngành khác nhau.
Những phân tích, luận giải về đặc điểm của giảng viên Mác - Lênin trong các
khối ngành khác nhau của các đề tài gợi mở cho tác giả luận án về hướng tiếp
cận nghiên cứu thực trạng đội ngũ GV LLCT.
Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Đề tài Tình hình giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao
đẳng và chủ trương, giải pháp cho thời gian tới [16]. Nhằm đưa ra các định hướng
lớn và giải pháp tổng thể nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các môn khoa học


25
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng, đề tài đã
nghiên cứu một cách tổng quát về đội ngũ giảng dạy các môn khoa học này với tư
cách là một trong những yếu tố quan trọng, trực tiếp tác động đến chất lượng quá
trình dạy và học. Vì vậy, giải pháp đề xuất là cần thiết phải đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ này cả về trình độ chuyên môn lẫn phẩm chất chính trị.
Đề tài khoa học thuộc Hội đồng khoa học các Ban Đảng do Nguyễn
Tiến Hoàng chủ nhiệm năm 2007, Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
chỉ đạo, quản lý việc giảng dạy các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng [109], đã đánh giá thực
trạng công tác chỉ đạo của các cơ quan Trung ương và các trường đại học, cao
đẳng đối với việc giảng dạy các môn lý luận chính trị. Nhìn chung, công trình
đã chỉ ra được thực trạng công tác chỉ đạo của các cơ quan trung ương và của
Bộ Giáo dục và Đào tạo đối với việc giảng dạy các môn lý luận chính trị.

Thực trạng công tác chỉ đạo đó cũng chính là thực trạng ban hành các chính
sách công cụ về giáo dục lý luận chính trị của Đảng và Nhà nước hiện nay đối
với các trường đại học, cao đẳng. Đây chính là vấn đề được tác giả luận án kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn.
Luận án tiến sĩ Quản lý giáo dục Quản lý đào tạo giảng viên lý luận
chính trị đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới hiện nay của Nguyễn Thị Thu Thủy
(2012) [163], đã hệ thống hóa lý luận về quản lý đào tạo nói chung, quản lý
đào tạo GV LLCT nói riêng; nghiên cứu lý luận và phân tích một cách khách
quan, tương đối đầy đủ, toàn diện về thực tiễn quản lý đào tạo GV LLCT, đối
chiếu với những yêu cầu, kỳ vọng về nguồn nhân lực có trình độ cao trong
lĩnh vực lý luận; xác định được mô hình cấu trúc năng lực, phẩm chất đặc thù
của GV LLCT, đánh giá đúng thực trạng và chỉ ra những bất cập trong đào
tạo, quản lý đào tạo GV LLCT. Trên cơ sở đó, luận án đề xuất các giải pháp
quản lý đào tạo GV LLCT theo hướng tiếp cận mục tiêu và phản ánh những đặc
thù của ngành nghề trên cơ sở đáp ứng những yêu cầu của đất nước trong thời kỳ


26
đổi mới gồm 8 giải pháp. Công trình đã cung cấp một số khái niệm công cụ như
GV LLCT, đặc trưng của khoa học lý luận chính trị và yêu cầu về phẩm chất và
năng lực đối với GV LLCT. Từ đó đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu mà quá trình đào tạo
GV LLCT cần hướng tới.
Luận án tiến sĩ Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay của Vũ Thanh Bình
(2012) [28] đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội
ngũ GV LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta; phân tích thực
trạng chất lượng của đội ngũ GV LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở
nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra một số phương hướng nhằm
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong điều kiện hiện nay
ở nước ta. Nhìn chung, công trình đã đặt ra yêu cầu về năng lực chuyên môn,

năng lực sư phạm, phẩm chất đạo đức, của đội ngũ GV LLCT. Từ đó, đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ này. Đào tạo GV LLCT
nhằm nâng cao trình độ là một nội dung được công trình đề cập đến. Tuy nhiên,
do giới hạn phạm vi đề tài gồm đội ngũ GV LLCT hiện đang công tác tại các
trường đại học, cao đẳng. Nên công trình chỉ đề cập đến đào tạo ở góc độ nâng
cao trình độ cho đội ngũ này. Tức là đào tạo sau đại học.
Đề tài khoa học, Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính
trị ở Việt Nam hiện nay do PGS, TS Trương Ngọc Nam chủ nhiệm (2015) [132],
đi sâu phân tích những nội dung cơ bản: Thứ nhất, về vị trí, vai trò, phẩm chất và
năng lực của đội ngũ GV LLCT. Công trình phân tích những yêu cầu về phẩm
chất và năng lực đặc thù của giảng viên lý luận chính trị, những tiêu chí đánh giá
chất lượng đào tạo GV LLCT, các nhân tố tác động đến chất lượng đào tạo giảng
viên lý luận chính trị hiện nay; thứ hai, thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với
hoạt động đào tạo - bồi dưỡng GV LLCT hiện nay; thứ ba, đề xuất những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng GV LLCT hiện nay. Đề tài là
nguồn tư liệu tham khảo cho tác giả xác định nội hàm đào tạo GV LLCT cho các


×