Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường Đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.66 KB, 20 trang )

Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị trong các trường Đại học, cao đẳng ở
nước ta hiện nay


Vũ Thanh Bình


Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính
Luận án TS. ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nhĩa duy vật lịch sử
Mã số: 62 22 80 05
Người hướng dẫn: PGS. TS. Phạm Ngọc Anh, PGS.TS. Dương Văn Thịnh
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị (LLCT) trong các trường Đại học, Cao đẳng ở nước ta.
Phân tích thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ
ở nước ta hiện nay; đánh giá ưu điểm, hạn chế của đội ngũ và chỉ ra nguyên nhân
hạn chế. Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên các môn LLCT trong các trường ĐH, CĐ ở Việt Nam thời gian tới.

Keywords. Triết học; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Lý luận chính trị; Chủ nghĩa duy vật
biện chứng; Chủ nghĩa duy vật lịch sử; Đội ngũ giảng viên

Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tốc độ phát triển nhanh chóng của cuộc CMKHCN hiện đại, sự phát triển kinh tế tri thức
cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo những thời cơ, những
vận hội to lớn cho các quốc gia lớn, nhỏ trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, bên


cạnh đó, không ít những khó khăn, thách thức cũng đang trở thành những rào cản to lớn, nếu
các nước không tìm ra cách thức nhanh chóng vượt qua. Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức
- quá trình đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó trực tiếp là nguồn lực con người. Nhận
thức sâu sắc điều đó, trong công cuộc đổi mới đất nước, ĐCSVN đã đặt con người ở vị trí
trung tâm. Trong chiến lược phát triển con người, Đảng khẳng định: phát triển GDĐT cùng
với phát triển khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu. GDĐT, đặc biệt giáo dục bậc cao
(đại học) là chìa khoá mở cửa tiến tới tương lai; đầu tư cho GDĐT là đầu tư cho sự phát triển.
Đặt con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng
luôn xác định vấn đề mấu chốt của công cuộc đổi mới là phải kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không
phải từ bỏ mục tiêu CNXH, mà làm cho CNXH được nhận thức đúng đắn và được xây dựng
hiệu quả. Đổi mới không phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim
chỉ nam cho hành động cách mạng.
Với tầm quan trọng đặc biệt, nội dung khoa học cao của các môn Lý luận chính trị, yêu
cầu đối với chất lượng đội ngũ truyền tải nội dung kiến thức các môn LLCT đến người học,
đến thế hệ trẻ là rất cao. Đảng, Nhà nước cũng hết sức quan tâm, bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên LLCT theo hướng chuẩn hoá, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy. Song, có một hiện thực không thể không
thừa nhận là đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ nước ta còn xa mới đáp ứng
đầy đủ những yêu cầu nêu trên. Chính vì thế, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT
trong các trường ĐH, CĐ đang là một vấn đề thực tiễn bức xúc đặt ra hiện nay. Do vậy cần
phải các nghiên cứu khoa học phân tích những vấn đề lý luận, làm lrõ thực trạng của đội ngũ
giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ; đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ, đóng góp thiết thực cho sự phát triển của GDĐT trong sự nghiệp chấn hưng đất nước.
Một công trình như vậy vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, vừa có tính thời sự nóng hổi. Với
những lý do đó, chúng tôi lựa chọn “Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên các môn lý luận
chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của
luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật

lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Những năm qua, tuy chưa có một công trình chuyên luận nào công bố về vấn đề này,
song có khá nhiều các công trình nghiên cứu có liên quan. Có thể phân loại thành những
nhóm công trình như sau:
Các công trình nghiên cứu về lý luận chính trị
“Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa" (1991), Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, Nxb
Sự thật, Hà Nội; “Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng vững bước tiến vào thế
kỷ XXI” (1998), Lê Khả Phiêu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Đổi mới bước phát triển tất
yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (1999), Nguyễn Khánh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; “Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình mới” (2000),
Phạm Đình Nghiệp, Nxb Thanh niên; “Ổn định chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới ở
Việt Nam” (2004), Nguyễn Văn Cư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Đổi mới sâu rộng,
phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam” (2006), Tập I, II, Phan Văn Khải, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội; “Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn - Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” (2010), GS. TS. Hoàng Chí Bảo chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
"Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin" (2010), GS. TS. Hoàng Chí
Bảo chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; "Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới" (2010), GS. TS. Hoàng Chí Bảo chủ
biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; "Văn hoá và con người Việt Nam trong đổi mới và hội
nhập quốc tế" (2010), GS. TS. Hoàng Chí Bảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội… Trong
những công trình này, trên cơ sở tổng kết quá trình đổi mới ở Việt Nam với những thành tựu,
hạn chế, thời cơ, thách thức…, các tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về CNXH,
về con đường đi lên CNXH, nghiên cứu và giải quyết hàng loạt những vấn đề lý luận nóng
bỏng, gắn lý luận với tổng kết thực tiễn, đưa ra hàng loạt những nhận thức khoa học mới.
- Các công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng dạy và học các môn lý luận chính
trị:
Đề tài KX 10-08, “Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin ở Việt
Nam - Những vấn đề chung”, Hà Nội 2002, do GS.TS Nguyễn Hữu Vui, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, đề tài trình bày một cách tổng quát

về đội ngũ giảng viên Mác-Lênin, về những phương pháp giảng dạy truyền thống thường gặp
ở đội ngũ và khẳng định: muốn đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác-
Lênin một cách hiệu quả, vấn đề phải được bắt đầu từ chính đổi mới tư duy, nhận thức của
đội ngũ giảng viên về phương pháp giảng dạy, về sự cần thiết phải đổi mới phương pháp.
Muốn vậy, cần thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chuyên môn
cho đội ngũ. Đó cũng là một trong những phương thức nâng cao chất lượng đội ngũ, từ đó, có
tác động tích cực ngược lại đối với đổi mới phương pháp giảng dạy.
- Ban Khoa giáo Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa học, mã số KHBĐ-2003-20:“Rà
soát và đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung một số nội dung giáo dục đạo đức công dân, chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhà trường ở từng cấp học”. Đây là một công
trình nghiên cứu có mục tiêu tìm ra các giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học các
môn lý luận chính trị, đạo đức công dân trong các bậc học khác nhau. Theo nhóm tác giả, đội
ngũ giảng viên Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường ĐH, CĐ nước ta hiện nay
tuy tăng nhanh về số lượng, song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đào tạo. Tình trạng dạy
vượt giờ, quá tải khiến một số đông đội ngũ không có thời gian đầu tư, hoàn thiện chuyên môn,
ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của đội ngũ.
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Hội thảo Khoa học: “Thực trạng và giải
pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học và cao đẳng”. Hội thảo đã đánh giá, phân tích
thực trạng giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các
trường ĐH, CĐ, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học
tập các môn khoa học này. Rất nhiều nhà khoa học tham gia Hội thảo đã tập trung nghiên cứu
về đội ngũ giảng viên, đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao chất lượng đội ngũ, coi đó là
một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao một bước chất lượng giảng dạy các môn
học khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Ban Tuyên giáo Trung ương, Đề tài nghiên cứu khoa học: “Tình hình giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, cao đẳng
và chủ trương, giải pháp cho thời gian tới” (10-2007). Đề tài đã nghiên cứu một cách tổng
quát về đội ngũ giảng dạy các môn khoa học này với tư cách là một trong những yếu tố quan
trọng, trực tiếp tác động đến chất lượng quá trình dạy và học. Nhóm nghiên cứu cho rằng,

bên cạnh hàng loạt các ưu điểm về gia tăng học hàm, học vị trong đội ngũ, thì hạn chế lớn
nhất của số đông đội ngũ này là sức ì lớn, chậm đổi mới tư duy, ngại trau dồi kiến thức, ít
chịu tìm tòi phương pháp giảng dạy phù hợp với những đối tượng khác nhau, chậm đổi mới
phương pháp giảng dạy. Đặc biệt, tâm lý coi các môn học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
là môn học phụ, nhất là trong các trường kỹ thuật cũng là một trong những nguyên nhân cản
trở đổi mới phương pháp.
- Cụm đề tài nghiên cứu khoa học về đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong trường ĐH, CĐ các khối ngành khác
nhau:
+ Trường Đại học Nông nghiệp I (2006), Đề tài: “Đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối
ngành Nông-Lâm - Ngư”.
+ Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2006), Đề tài: “Đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối
ngành Sư phạm”.
+ Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (2006), Đề tài:“Đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối
ngành kỹ thuật”.
+ Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Đề tài: “Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối ngành
Khoa học Xã hội và Nhân văn”.
Điểm chung của các đề tài này là dựa trên thức nhận rằng, sinh viên ở mỗi khối ngành
học đều có đặc thù riêng. Do vậy, giảng dạy các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho những đối tượng này cũng cần có phương pháp thích hợp. Trên cơ sở đó, đề tài tập
trung đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với đặc thù sinh viên của từng khối ngành…
- Các công trình nghiên cứu về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị:
- Luận án tiễn sĩ Triết học: “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý
luận Mác-Lênin ở các trường chính trị tỉnh” (2001) của nghiên cứu sinh Nguyễn Đình Trãi.
- Đề tài KX 10-09 do GS Phạm Tất Dong làm chủ nhiệm: “Đổi mới quy hoạch đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khoa học Mác-Lênin - kiến nghị và giải
pháp”.
Nhìn chung, những đánh giá mạnh dạn mà nhóm tác giả nêu lên đã gợi mở một hướng
tiếp cận về một hiện tượng khá phổ biến trong thực trạng đội ngũ giảng viên các môn khoa
học Mác - Lênin, song ít được chú ý tới. Đó cũng là một trong những định hướng nghiên cứu,
mà khi giải quyết các vấn đề thuộc về nội dung của luận án chúng tôi hết sức chú trọng.
Một cách tổng quát, khi khảo cứu các công trình đã liệt kê, có thể rút ra những kết luận cơ
bản sau:
- Trước chúng tôi và cùng với chúng tôi đã và đang có những nghiên cứu về vấn đề chất
lượng đội ngũ giảng viên các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn
LLCT trong các trường ĐH, CĐ ở nước ta hiện nay. Do vậy, các công trình nghiên cứu về
đội ngũ giảng viên các môn LLCT nói chung tương đối đa dạng và có những đóng góp nhất
định, đáng ghi nhận.
- Các nhà nghiên cứu đi trước phần lớn và chủ yếu nghiên cứu về đội ngũ giảng viên các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - có nghĩa là nghiên cứu về đội ngũ trong
trạng thái khá ổn định khi các giảng viên đảm nhận giảng dạy theo chương trình chưa tích
hợp 5 môn LLCT thành 3 môn, trong đó có môn mới là môn “Đường lối cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam”.
- Do mỗi công trình có mục tiêu nghiên cứu khác nhau, cho nên vấn đề chất lượng đội
ngũ giảng viên các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các môn khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng được trình bày ở những mức độ nông, sâu khác
nhau. Vẫn tồn tại rất nhiều khoảng trống trong nghiên cứu, hoặc có rất nhiều nội dung nghiên
cứu mới chỉ được đề cập khá sơ sài, ở mức độ đặt vấn đề; hoặc có những nội dung nghiên
cứu chưa được đặt trong một hệ thống, một chỉnh thể để nhận biết những mối quan hệ bản
chất, chi phối, quy định, ràng buộc
- Trong các nghiên cứu nêu trên, cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy
đủ, hệ thống, toàn diện về vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên các môn LLCT trong các
trường ĐH, CĐ ở nước ta như đề tài luận án mà chúng tôi đã lựa chọn. Do đó, chúng tôi
mạnh tiến hành nghiên cứu về vấn đề này trên cơ sở tiếp thu những thành quả nghiên cứu đã
có, tiếp tục khỏa lấp các khoảng trống, nhận chân, làm rõ những gì cần tiếp tục đi sâu phân

tích, luận giải, nhằm đưa ra những những giải pháp căn bản, cốt yếu, có giá trị đối với việc
nâng cao chất lượng đội ngũ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị; thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ ở nước ta
hiện nay, đề xuất một số quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng của đội ngũ này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường ĐH, CĐ ở nước ta.
- Phân tích thực trạng chất lượng của đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ
ở nước ta hiện nay; đánh giá ưu điểm, hạn chế của đội ngũ, phân tích và chỉ ra nguyên nhân
hạn chế.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên các môn
LLCT trong các trường ĐH, CĐ ở Việt Nam thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Chất lượng đội ngũ giảng viên các môn LLCT trong các trường ĐH, CĐ ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung khoa học: luận án nghiên cứu những yếu tố, những điều kiện làm nên và
quy định chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị.
- Về phạm vi thời gian: từ năm 2001 đến nay.
- Về không gian nghiên cứu: các trường ĐH, CĐ trên phạm vi cả nước.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước về GDĐT, về đội ngũ
giảng viên, về chất lượng đội ngũ giảng viên; về giảng dạy lý luận chính trị…
Luận án được triển khai, nghiên cứu trên cơ sở của vận dụng phương pháp luận biện
chứng và các phương pháp như: Phương pháp lịch sử - logíc; phương pháp trừu tượng - cụ
thể; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp so sánh và hệ thống hoá. Ngoài ra, các

phương pháp khác như đối chiếu, thống kê, điều tra xã hội học cũng được vận dụng phù
hợp với từng nội dung của luận án.
6. Đóng góp khoa học của luận án
- Luận án góp phần làm rõ những khái niệm cơ bản liên quan đến chất lượng đội ngũ
giảng viên LL; tiêu chí xác định chất lượng và những yêu cầu về chất lượng đội ngũ giảng
viên LLCT các trường ĐH, CĐ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá một cách khoa học thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường ĐH, CĐ ở nước ta. Dựa trên những phân tích lý luận và thực tiễn, luận án nêu lên một
số phương hướng, giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường ĐH, CĐ ở nước ta thời gian tới.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu hoặc phục vụ công tác giảng dạy cho những
vấn đề có liên quan.
- Kết quả nghiên cứu của luận án cũng có thể là căn cứ cho công tác chỉ đạo việc đào tạo,
bồi dưỡng, quản lý xây dựng chương trình, kế hoạch định kỳ bồi dưỡng giảng viên lý luận
chính trị, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đội ngũ giảng viên các môn LLCT trong các
trường ĐH, CĐ ở nước ta từ năm 2011 đến năm 2020.
7. Kết cấu lớn của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Ttài liệu tham khảo, Phụ lục, luận án được cấu trúc thành 3
chương, 6 tiết:
Chƣơng 1. Chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và và tầm quan trọng của việc
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị.
Chƣơng 2. Chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao
đẳng ở nước ta hiện nay - thực trạng và những vấn đề đặt ra.
Chƣơng 3. Quan điểm và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay.

Chƣơng 1
CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

1.1. Chất lƣợng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị - một số vấn đề lý luận
1.1.1. Đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
1.1.1.1. Khái niệm "giảng viên", "giảng viên lý luận chính trị"
* Khái niệm "giảng viên"
Hiện nay, theo quan niệm của GDĐT hiện đại, khái niệm "giảng viên" cũng như vai trò
giảng viên đã được mở rộng hơn, theo đó, giảng viên thực hiện ba vai trò trong quá trình đào
tạo:
Vai trò của người thúc đẩy: Đây là vai trò rất quan trọng của giảng viên, phù hợp với
nguyên tắc lấy người học làm trung tâm, trong đó nhiệm vụ của giảng viên là gợi mở, khuyến
khích, giúp đỡ, thúc đẩy sinh viên từng bước tự nhận thức, từ đó rút ra phương pháp và những
kiến thức cần thiết áp dụng trong thực tiễn, giải quyết công việc hiệu quả.
- Vai trò của người tổ chức: Giảng viên cần tổ chức tốt từng khâu cũng như toàn bộ quá
trình giảng dạy của mình, từ xác định nhu cầu, thiết kế đào tạo đến chuẩn bị bài giảng và tiến
hành công việc giảng dạy.
* Khái niệm "giảng viên lý luận chính trị"
Từ việc phân tích, làm rõ khái niệm “lý luận” và “chính trị”, khái niệm “lý luận chính trị”
được hiểu như sau: lý luận chính trị là hệ thống lý luận, quan điểm, tư tưởng về chính trị,
mang tính toàn diện, có tác dụng định hướng, chỉ đạo toàn bộ hoạt động chính trị của một Nhà
nước, một quốc gia, giai cấp.
Giảng viên lý luận chính trị là những giảng viên trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo,
cung cấp những tri thức khoa học, nhằm hình thành cho người học thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan cách mạng, thông qua việc truyền thụ những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng CSVN; trên cơ sở đó,
giúp cho người học có tư duy khoa học, đạo đức cách mạng, năng lực sáng tạo trong hoạt
động thực tiễn.
1.1.1.2. Khái niệm "đội ngũ giảng viên lý luận chính trị"
Trên cơ sở khái niệm “đội ngũ” và “đội ngũ giảng viên”, “lý luận chính trị”, “đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị” được hiểu là “một lực lượng giảng viên đông đảo, nằm trong đội
ngũ giảng viên, thực hiện nhiệm vụ giảng dạy các môn lý luận chính trị, nhằm góp phần hoàn
thành mục tiêu giáo dục là đào tạo nên những thế hệ sinh viên Việt Nam phát triển toàn diện, vừa

hồng, vừa chuyên”.
1.1.2. Chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
1.1.2.1. Khái niệm "chất lượng"
Đối với khái niệm “chất lượng” có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Có thể liệt kê những
góc độ tiếp cận căn bản nhất sau:
Thứ nhất, chất lượng là sự vượt trội.
Thứ hai, chất lượng là sự phù hợp với tiêu chí.
Thứ ba, chất lượng là sự đáp ứng và phù hợp với mục đích.
Thứ tư, chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích.
Thứ năm, chất lượng với tư cách giá trị chuyển đổi.
Theo chúng tôi, “chất lượng là khái niệm chỉ mức độ của một tập hợp các thuộc tính căn
bản, thống nhất hữu cơ, cấu thành nên sự vật, đảm bảo cho sự vật khả năng đáp ứng tốt nhất
những mục đích xác định".
1.1.2.2. Khái niệm "chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị"
Chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị là khái niệm chỉ mức độ của một tập hợp
các thuộc tính căn bản, thống nhất hữu cơ, thể hiện bản chất, đặc trưng cơ bản của đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị với tư cách là chủ thể của hoạt động giáo dục lý luận chính trị
trong các trường đại học, cao đẳng, quyết định trực tiếp đến hiệu quả của quá trình giáo dục
lý luận chính trị.
1.1.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
1.1.3.1. Khái niệm “tiêu chí”
“Tiêu chí”, theo Từ điển tiếng Việt (2004) là “tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết,
xếp loại một sự vật, một khái niệm”.
1.1.3.2. Định hướng nội dung tiêu chí đánh giá
Chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT được đánh giá qua các tiêu chí sau:
(1) Được đào tạo cơ bản, theo đúng quy định về chuyên ngành, về bằng cấp, về học hàm,
học vị mà Bộ GDĐT đã quy định.
(2) Có năng khiếu nghề nghiệp (giảng dạy LLCT), thể hiện ở năng lực nắm bắt thông tin
về chính trị - xã hội nhạy bén, chính xác; biết tổng kết thực tiễn để áp dụng vào giảng dạy,
làm cho bài giảng có sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; đồng thời, có khả năng diễn đạt,

truyền đạt nội dung lý luận đó trong sinh viên.
(3) Về kinh nghiệm giảng dạy, để giảng dạy lý thuyết, phải ít nhất có hai năm kinh
nghiệm trong chuyên ngành giảng dạy, đồng thời phải được Khoa, Bộ môn thẩm định, kiểm
tra và đánh giá từ loại khá trở lên.
(4) Có năng lực trong công tác nghiên cứu khoa học, thể hiện trong các sản phẩm nghiên
cứu khoa học: Đề tài nghiên cứu, bài báo khoa học, khả năng tổ chức, hướng dẫn công tác
nghiên cứu khoa học cho sinh viên…
(5) Có đạo đức, lối sống phù hợp với lý tưởng của dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
(6) Có ý chí và khả năng để từng bước học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và các yêu cầu khác phục vụ cho công tác giảng dạy.
(7) Biết/thông thạo ít nhất một ngoại ngữ phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa
học.
(8) Thể hiện rõ tính đảng và tính khoa học trong quá trình giảng dạy các môn LLCT.
(9) Giảng viên LLCT phải là người tâm huyết với nghề nghiệp, yêu nghề, đam mê giảng
dạy và nghiên cứu khoa học, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
1.2. Tầm quan trọng và những yếu tố ảnh hƣởng đến việc nâng cao chất lƣợng đội
ngũ giảng viên lý luận chính trị
1.2.1. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị
1.2.1.1. Góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho sinh viên của đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị
Thông qua vai trò giảng dạy, truyền thụ kiến thức, giáo dục đạo đức, thế giới quan, nhân
sinh quan cách mạng của đội ngũ giảng viên LLCT có chất lượng, sinh viên có thể định hướng
giá trị, định hướng hoạt động thực tiễn, giúp sinh viên coi trọng giá trị chân lý, sức khoẻ, trách
nhiệm công dân, tính thật thà, trọng chữ tín.
1.2.1.2. Định hướng các giá trị, chuẩn mực tư tưởng, đạo đức lối sống mới cho sinh viên
của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
Thông qua quá trình giảng dạy các môn LLCT của đội ngũ giảng viên LLCT hướng vào
mục tiêu trang bị cho sinh viên thế giới quan, nhân sinh quan cách mạng, hình thành ở sinh

viên những quan niệm về ý nghĩa, mục đích phấn đấu của con người: Phấn đấu, đấu tranh
để xây dựng một xã hội không còn áp bức bóc lột, một xã hội công bằng, văn minh, nhân
văn.
1.2.1.3. Góp phần nâng cao chất lượng hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cách
mạng và phương pháp luận khoa học cho sinh viên của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
Giảng dạy các môn LLCT, giảng viên không chỉ cung cấp cho sinh viên thế giới quan,
nhân sinh quan cách mạng, mà còn cung cấp cho họ phương pháp nhận thức và hành động
một cách khoa học - đó là phương pháp biện chứng. Có phương pháp đúng, sinh viên có
những định hướng đúng đắn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tham gia tích cực vào
thực tiễn cuộc sống, nhận thức và cải tạo thực tiễn. Để làm được điều này thì đội ngũ
giảng viên LLCT phải có trình độ tức là phải có chất lượng.
1.2.1.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị góp phần nâng cao sức
mạnh lực lượng tham gia nghiên cứu, tư vấn chính sách cho Đảng, Nhà nước
Đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ nhất là trong các trường đại học lớn,
là một bộ phận của giới nghiên cứu lý luận Việt Nam, đã đang tích cực tham gia nghiên cứu,
đưa ra những luận cứ khoa học cho việc xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển thắng lợi.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý
luận chính trị
1.2.2.1. Ảnh hưởng của những điều kiện trong nước
Thứ nhất, những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của đất nước thời kỳ đổi
mới
Thứ hai, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về giáo dục lý luận chính trị cho
sinh viên và xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị
1.2.2.2. Ảnh hưởng của những nhân tố quốc tế
Những diễn biến mới trên trường quốc tế tác động tới nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên LLCT trên hai phương diện:
Thứ nhất, đội ngũ giảng viên LLCT có điều kiện cập nhật thông tin, kiến thức, phương
pháp giảng dạy mới; thúc đẩy đội ngũ giảng viên LLCT không ngừng nâng cao trình độ,
nhận thức, nâng cao tính đảng, tính khoa trong nghiên cứu lý luận, có điều kiện mở rộng

thông tin, nâng cao trình độ ngoại ngữ và tin học.
Thứ hai, có thể những nhân tố trên tác động xấu dẫn đến khuynh hướng dao động, hoài
nghi về CNXH và chủ nghĩa Mác-Lênin; hoài nghi đối với tính cách mạng, khoa học của đội
ngũ giảng viên LLCT, đối với CNXH và sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, đối
với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2.2.3. Ý thức tự hoàn thiện, tự rèn luyện, trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực của đội
ngũ giảng viên lý luận chính trị
Trước hết, đội ngũ giảng viên LLCT phải nhận thức được tầm quan trọng, vai trò các môn LLCT
trong hệ thống các môn học của các trường đại học, cao đẳng nói chung và đối với đối tượng của quá
trình giáo dục là sinh viên nói riêng.
Thứ hai, nhận thức sâu sắc vai trò của đội ngũ giảng viên trong quá trình giáo dục nói
chung và từ nhiệm vụ và vai trò đặc thù của đội ngũ giảng viên LLCT nói riêng.
Thứ ba, nhận thức đúng đặc thù của các môn LLCT. Các môn LLCT là những môn khoa
học lý luận chính trị - xã hội có tính trừu tượng, khái quát hoá cao, được biểu hiện ở nhiều
khía cạnh.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
1. Hoàn thành thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Việt Nam lựa chọn
con đường đi lên CNXH. Trong quá trình xây dựng CNXH, Đảng CSVN xác định chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tinh thần của toàn xã hội. Để thực hiện thành
công CNXH, phải có những con người XHCN “vừa hồng, vừa chuyên” - vừa có năng lực
chuyên môn vững vàng, lại vừa có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị.
2. Để đạt hiệu quả cao trong hoạt động giáo dục các môn LLCT, vấn đề chất lượng và
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường ĐH, CĐ được đặt ra. Nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT chính là nâng cao, hoàn thiện chất lượng các thuộc
tính cấu thành đội ngũ.
3. Thông qua hoạt động tích cực trong quá trình giảng dạy các môn LLCT cho sinh viên,
đội ngũ giảng viên LLCT có vai trò quan trọng trong việc củng cố ở họ niềm tin vào mục
tiêu, lý tưởng mà toàn Đảng, toàn dân theo đuổi, giúp cho mỗi sinh viên có lập trường, tư
tưởng vững vàng, không bị ảnh hưởng, dao động trước những biến động chính trị trên thế

giới cũng như sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường.
4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT chịu sự ảnh hưởng, quy định của nhiều
yếu tố khác nhau, trong đó nổi bật phải kể đến những điều kiện kinh tế, văn hóa - xã hội trong
nước, những điều kiện quốc tế đang vận động, chuyển biến mạnh mẽ và của chính nhận thức,
ý thức của đội ngũ. Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT một cách hiệu quả,
cần phải tính đến những yếu tố nói trên.

Chƣơng 2
CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG HIỆN NAY
- THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1. Thực trạng chất lƣợng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trƣờng đại
học, cao đẳng ở nƣớc ta hiện nay
2.1.1. Về cơ cấu
2.1.1.1. Về số lượng: Theo thống kê chưa đầy đủ, đến năm 2010, cả nước đã có 412 đại
học, học viện, trường đại học, cao đẳng. Chúng tôi đã khảo sát 146 trường đại học và 156
trường cao đẳng (tổng số tất cả là 302/412 trường), thì số lượng giảng viên LLCT là 3.031
người.
2.1.1.2. Về độ tuổi, giới tính: Về cơ cấu độ tuổi, khảo sát 302 trường đại học, cao đẳng
vào cuối năm 2010, chúng tôi thu nhận được kết quả như sau: Dưới 40 tuổi là 1391/3041
giảng viên (chiếm 52,7%); từ 41 đến 50 tuổi là 821/3041 giảng viên (chiếm 29,99%); từ 51
đến 60 tuổi là 325/3041 giảng viên (chiếm 10,68% ).
2.1.1.3. Cơ cấu theo chuyên ngành giảng dạy: Bức tranh về cơ cấu theo chuyên ngành
giảng dạy cũng cho thấy nhiều bất cập: Số lượng giảng viên Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác-Lênin là 1.846/3.041 người (chiếm 60.7%); giảng viên Tư tưởng Hồ Chí Minh là
522/3.041 người (chiếm 17.1%) và giảng viên Đường lối cách mạng của Đảng CSVN là
673/3.041 người (chiếm 22.13%).
2.1.2. Năng lực chuyên môn
2.1.2.1. Về năng lực giảng dạy
Năng lực giảng dạy bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, song có hai yếu tố căn bản, chi

phối, bổ trợ cho nhau là kiến thức và phương pháp giảng dạy.
- Về kiến thức: Đối với giảng viên LLCT, ngoài việc nắm vững, nắm chắc, hiểu sâu kiến
thức chuyên ngành, cần phải có kiến thức mở rộng- những tri thức về các môn khoa học
LLCT và các môn thuộc ngành khoa học xã hội - nhân văn. Về vấn đề kiến thức môn học, tri
thức khoa học, đội ngũ giảng viên LLCT vừa có những chỗ mạnh căn bản, lại vừa có những
điểm yếu cần khắc phục. Phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu nội dung này của năng lực
chuyên môn trong đội ngũ giảng viên LLCT chính là cách thức tốt nhất, nhằm nâng cao năng
lực chuyên môn cho đội ngũ.
- Về phương pháp giảng dạy: Dưới góc độ triết học, với tính cách là phương tiện nhận
thức, "phương pháp là cách thức tái hiện lại đối tượng nghiên cứu trong tư duy".
2.1.2.2. Về năng lực nghiên cứu khoa học
Ở bậc đại học, giảng dạy và nghiên cứu khoa học là hai mặt của một quá trình nhận thức.
Một giảng viên không nghiên cứu khoa học thì không thể coi là một giảng viên giỏi. Ngược
lại, một nhà nghiên cứu mà không có điều kiện giảng dạy, truyền đạt kết quả đã nghiên cứu
được, thì tác dụng thực sự của các kết quả nghiên cứu sẽ bị hạn chế.
2.1.3. Trình độ được đào tạo
2.1.3.1. Trình độ theo quy chuẩn và đào tạo nâng cao
Đến nay, về căn bản, đội ngũ giảng viên LLCT đều được đào tạo chuyên ngành lý luận
chính quy từ cử nhân trở lên. Tuy nhiên, do lịch sử để lại, nhiều giảng viên trong đội ngũ
(nhất là trong độ tuổi từ 50-60) đã được đào tạo từ nhiều nguồn với nhiều chuyên ngành khác
nhau (ở một số thời điểm, công tác tuyển chọn, bố trí sử dụng cán bộ có lúc chưa được chuẩn
hoá).
2.1.3.2. Tập huấn, bồi dưỡng
Hàng năm, Ban Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Khoa giáo Trung ương, Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) đều tổ chức các lớp bồi
dưỡng về lý luận, về đường lối, quan điểm của Đảng, cập nhật tình hình trong nước và quốc
tế; tập huấn về nội dung chương trình, giáo trình mới ban hành; đồng thời, đảm bảo cho việc
giáo dục lý luận được cập nhật những thành tựu mới và đúng đường lối, định hướng phát
triển của đất nước, không để xảy ra những sai sót về quan điểm trong giảng dạy.
2.1.4. Phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị

2.1.4.1. Phẩm chất đạo đức, đạo đức nghề nghiệp
- Phẩm chất đạo đức: Về căn bản, đội ngũ giảng viên LLCT có đạo đức cách mạng, có lối
sống giản dị, trong sạch, gần gũi, tích cực giúp đỡ đồng nghiệp trong công tác, cuộc sống
hàng ngày, trong lúc khó khăn, hoạn nạn với tình đồng chí trong sáng, có ý thức tự trọng,
vươn lên về mọi mặt, tâm huyết với nghề nghiệp mình đã chọn và được tôn trọng trong các
quan hệ xã hội, cộng đồng và địa phương nơi cư trú.
- Đạo đức nghề nghiệp: Đạo đức nghề nghiệp là một hình thái ý thức xã hội, nó ra đời
cùng với sự phát triển của một nghề nhất định của xã hội. Đạo đức nghề nghiệp luôn bị chế
ước, chi phối của những giá trị đạo đức xã hội và những điều kiện chủ quan và khách quan
của một nghề nghiệp xã hội nhất định.
2.1.4.2. Bản lĩnh chính trị
Được hình thành từ rất sớm, ngay từ những năm 50 (XX), nên đội ngũ giảng viên LLCT
có bề dày truyền thống và đều là những giảng viên đã được lựa chọn, tuyển chọn khá kỹ
càng. Thời kỳ đầu (những năm 50, 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ XX), 100% giảng
viên Mác-Lênin là đảng viên.
2.2. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng chất lƣợng đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị
2.2.1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu có môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội thuận lợi để
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị với những yếu kém, hạn chế
của đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội
Hiện nay xuất hiện mâu thuẫn giữa yêu cầu có nền tảng kinh tế, văn hóa - xã hội thuận
lợi để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị với những yếu kém, hạn chế
trong cơ chế quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội, vì:
Thứ nhất, sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu và cuộc khủng hoảng của
CNXH hiện thực làm ảnh hưởng đến niềm tin, suy giảm nhiệt huyết phấn đấu cho lý
tưởng cộng sản, cho CNXH.
Thứ hai, cơ chế thị trường đã đem lại sự phát triển kinh tế cho đất nước, song mặt trái
của cơ chế thị trường cũng đã bộc lộ một cách gay gắt… đã tác động không nhỏ đến giảng
viên LLCT làm cho mục tiêu sống, lý tưởng, ý thức chính trị… bị giảm sút.
Thứ ba, những bất cập của thực tế xã hội, trong đó, nạn tham nhũng, sự tha hóa của một bộ

phận cán bộ có chức quyền… nay đã trở thành phổ biến. Chính những hình ảnh tiêu cực đang
diễn ra ngoài nhà trường, hoặc phản ánh qua báo chí… tác động tiêu cực đến niềm tin vào tương
lai của CNXH của một bộ phận giảng viên LLCT.
2.2.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có cơ chế chính sách đồng bộ, chiến lược phát
triển hợp lý, quá trình đào tạo hiệu quả cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
lý luận chính trị với những bất cập trong chiến lược phát triển, trong cơ chế chính sách và
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
Những hạn chế, bất cập trong chiến lược phát triển, cơ chế chính sách là một trong những
nguyên nhân, những trở ngại chính đối với yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
LLCT và cần phải có những giải pháp phù hợp để giải quyết.
2.2.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất cho việc nâng cao năng lực
chuyên môn của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị với những hạn chế về điều kiện vật
chất
Nguồn kinh phí cho nghiên cứu khoa học hạn hẹp ở một số trường, do cơ chế phân bổ
kinh phí… giảng viên LLCT rất khó tiếp cận với nghiên cứu khoa học, hoặc trong rất
nhiều trường hợp, chỉ có thể được nhận một nguồn kinh phí hạn hẹp, không thể tạo ra
hiệu quả nghiên cứu cần thiết.
Các trường dù tạo điều kiện cho giảng viên LLCT đi tập huấn, đào tạo và bồi dưỡng, song
nhiều khi trong điều kiện kinh phí hết sức hạn hẹp và trong điều kiện thu nhập hoặc thấp, hoặc
chưa cao của giảng viên LLCT, kinh phí eo hẹp đó không thúc đẩy được giảng viên đi học.
Việc đi học nâng cao về tin học, ngoại ngữ, sau đại học… cũng phụ thuộc vào kinh phí nhà
trường.
Công tác khảo sát thực tiễn, đi thực tế của giảng viên LLCT nhiều trường cũng bị cắt,
hoặc cắt giảm kinh phí. Do vậy, các chuyến đi được tổ chức sơ sài, qua loa, không phát
huy tác dụng.
Đối với cải tiến, đổi mới phương pháp cũng đòi hỏi người giảng viên phải có một sự
đầu tư lớn. Nhưng do hàng loạt lý do vật chất, mà giảng viên LLCT luôn gặp khó khăn
nhất định trong thực hiện yêu cầu này.
2.2.4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về ý thức tự giáo dục, tự bồi dưỡng, rèn luyện
nâng cao trình độ với sự hạn chế về ý thức tự học, tự bồi dưỡng cũng như sự nỗ lực

vươn lên của một bộ phận giảng viên lý luận chính trị
Tự giáo dục là một yếu tố quan trọng trong quá trình phấn đấu, vươn lên, tự hoàn
thiện của mỗi con người. Tự giáo dục đối với giảng viên LLCT vô cùng cần thiết, bao
gồm khả năng tự nhận thức, tự đánh giá, tự kiểm tra, tự điều tiết của mỗi giảng viên. Mặt
trái của cơ chế thị trường, những giá trị bị đảo lộn trong thời kỳ quá độ, chuyển đổi cơ chế
cũng làm cho một số giảng viên sa sút phẩm chất đạo đức, chạy theo đồng tiền, chạy theo
những cám dỗ vật chất tầm thường, không có ý thức tự vươn lên, thiếu ý thức trau dồi nghề
nghiệp, đạo đức nghề nghiệp.
Một bộ phận giảng viên LLCT đã có thâm niên công tác, bề dày kinh nghiệm… lại cũng ỷ
lại vào thế mạnh vốn có, có suy nghĩ giản đơn rằng, với những kiến thức đã có, với những kinh
nghiệm đã tích luy được là đã có đủ điều kiện để hoàn thành công việc chuyên môn, không cần
phấn đấu học tập nâng cao trình độ hơn nữa.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
1. Đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường đại học, cao đẳng đã trải qua một quá trình
hình thành, xây dựng, trưởng thành lâu dài, có bề dày truyền thống, đã không chỉ hoàn thành
tốt nhiệm vụ giảng dạy, mà còn có những đóng góp to lớn vào thành tựu chung của ngành
giáo dục, của GDĐH, góp phần ổn định chính trị, không để xảy ra những biến động trong sinh viên.
Trước những biến động bất lợi của tình hình thế giới, sự phức tạp của các tác động kinh tế -xã
hội… phần đông đội ngũ giảng viên LLCT vẫn giữ vững lập trường, bản lĩnh chính trị, niềm
tin vào CNXH, có lý tưởng trong sáng, không ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức, đạo đức
nghề nghiệp, xứng đáng với tư cách người thầy cao quý đứng trên bục giảng.
2. Có một thực tế là tuy đạt được những tiêu chí cơ bản về chất lượng, nhưng bên cạnh
đó, đội ngũ giảng viên LLCT cũng còn một số tồn tại, bất cập nhất định cần phải khắc phục:
Tỷ lệ giới chưa cân bằng, hụt hẫng về độ tuổi, số lượng giảng viên còn thiếu hụt, việc phân
bổ giảng viên theo chuyên ngành giảng dạy còn nhiều bất hợp lý. Một bộ phận giảng viên có
sức y
̀
, không có ý thức phấn đấu vươn lên, chậm đổi mới phương pháp, ít cập nhật kiến thức


3. Để khắc phục hiệu quả, giải quyết về căn bản những yếu kém trong chất lượng đội ngũ
giảng viên LLCT, đều chủ yếu nhất là phải xác định được, xác định đúng nguyên nhân. Đó
chính là các nguyên nhân cơ bản, cụ thể xuất phát từ những mâu thuẫn sau: Mâu thuẫn giữa
yêu cầu có nền tảng kinh tế, văn hóa - xã hội thuận lợi để nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị với những yếu kém, hạn chế trong cơ chế quản lý kinh tế, văn hóa
- xã hội; mâu thuẫn giữa yêu cầu phải có cơ chế chính sách đồng bộ, chiến lược phát triển
hợp lý, quá trình đào tạo hiệu quả cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị với những bất cập trong chiến lược phát triển, trong cơ chế chính sách và công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ; mâu thuẫn giữa yêu cầu về điều kiện cơ sở vật chất đầy đủ cho
việc nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị với những điều
kiện vật chất còn hạn chế
Giải quyết những mâu thuẫn đó, triệt tiêu những nguyên nhân ảnh hưởng tiêu cực đến
chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT, đòi hỏi vừa phải có một hệ thống các giải pháp đồng
bộ, toàn diện, thiết thực, vừa phải có những khâu then chốt, đột phá, trên cơ sở sự nỗ lực, cố
gắng của từng giảng viên LLCT, của toàn bộ đội ngũ và của các cấp, các ngành liên quan từ
trong tư duy, nhận thức đến hành động.

Chƣơng 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC
CAO ĐẲNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. Những quan điểm cơ bản nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị
3.1.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải gắn với xây dựng
môi trường kinh tế - xã hội, văn hóa lành mạnh
Môi trường kinh tế - xã hội, văn hoá lành mạnh là một trong những tiền đề vật chất và
tinh thần cơ bản để giúp cho giảng viên LLCT có điều kiện tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu,
giác ngộ được mục tiêu lý tưởng của Đảng và phấn đấu, vươn lên về mọi mặt. Môi trường
kinh tế - xã hội, văn hoá lành mạnh còn là nơi góp phần giáo dục, bồi dưỡng và nâng cao tri
thức khoa học, rèn luyện khả năng tư duy cho giảng viên LLCT, góp phần làm cho đời sống

tinh thần của giảng viên LLCT luôn ở trạng thái cân bằng, ổn định, lạc quan, tin yêu cuộc
sống, phấn đấu học tập, công tác tốt, nêu cao lòng tự hào dân tộc và lý tưởng.
3.1.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải trên cơ sở một
chiến lược lâu dài, song có lộ trình, bước đi phù hợp và những khâu then chốt, đột phá
Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên LLCT tuy được Đảng và Nhà nước, Bộ
Giáo dục và Đào tạo quan tâm, ra một số quyết định kịp thời; tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là
những kế hoạch mang tính lâu dài, hay những chiến lược phát triển bền vững, mà chủ yếu là
những bước đi mang tính thời điểm, ngắn hạn, không thể lấp đầy ngay những khoảng trống
đang tồn tại về chất lượng.
3.1.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải trên cơ sở đảm
bảo sự cân đối trong cơ cấu, kết hợp hài hòa giữa năng lực chuyên môn, trình độ được đào
tạo và phẩm chất chính trị, đạo đức
Với vai trò là chủ thể của quá trình dạy học, đội ngũ giảng viên LLCT là yếu tố rất cơ bản
quyết định chất lượng và hiệu quả giảng dạy các môn khoa học LLCT trong các trường đại
học, cao đẳng nước ta. Trên cơ sở nghiên cứu về thực trạng đội ngũ giảng viên LLCT, một
điều dễ nhận thấy là chính sự mất cân đối trong cơ cấu, sự kết hợp chưa hài hòa giữa năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức… là một trong những lý do căn bản làm cho đội ngũ giảng
viên LLCT dù đã trải qua một quá trình xây dựng và trưởng thành với rất nhiều thành quả, thì
trong thời điểm hiện tại vẫn vừa thiếu về số lượng, vừa có những hạn chế nhất định trong
trình độ, năng lực chuyên môn. Vì thế, đặt ra yêu cầu cấp thiết nâng cao chất lượng của đội
ngũ giảng viên LLCT, nhằm đáp ứng nhu cầu GDĐH ngày càng được mở rộng và đang trong
quá trình hội nhập quốc tế.
3.1.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải gắn với khắc
phục những hạn chế trong nhận thức của các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và
chính quyền về vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên lý luận chính trị và của chính bản
thân đội ngũ
Mặc dù trong những năm gần đây, nhận thức đó đã có những thay đổi nhất định, được cải
thiện tương đối, theo chiều hướng đi lên, nhưng đó mới chỉ là những thay đổi chưa căn bản.
Từ đó, cần chú ý:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và Ban

Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng về tầm quan trọng, sự cần thiết của giáo dục LLCT
cho sinh viên.
Thứ hai, khắc phục kịp thời việc coi nhẹ các môn LLCT.
Thứ ba, bồi dưỡng, trang bị cho các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và Ban
Giám hiệu các trường đại học, cao đẳng những quan điểm đúng đắn về trí thức, về giảng
viên, chính sách đào tạo, đãi ngộ, sử dụng trí thức - giảng viên.
Thứ tư, có bộ quy chế quy định nghiêm minh hơn nữa về trách nhiệm và hình thức khen
thưởng, kỷ luật, nếu các cơ quan quản lý giáo dục, các cấp ủy Đảng và Ban Giám hiệu các
trường đại học, cao đẳng không thực hiện đúng, đủ hoặc thực hiện đúng, đủ các yêu cầu chỉ
đạo đối với xây dựng, nâng cao chất lượng giáo dục LLCT và đội ngũ giảng viên LLCT trong
nhà trường.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lƣợng đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị
3.2.1. Nâng cao bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, tư tưởng, đạo đức cho đội
ngũ giảng viên lý luận chính trị
Ðể có được bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng, đạo đức nhà giáo trong sáng, cần có
sự quan tâm tác động nhiều chiều và cả chính sự nỗ lực phấn đấu trong mỗi giảng viên LLCT.
Vì thế, cần thực hiện tốt những biện pháp sau:
Thứ nhất, cần có có những văn bản pháp quy về bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp,
đạo đức giảng viên LLCT, quy định rõ tiêu chuẩn đạo đức giảng viên LLCT và có cơ chế xử
lý, khen thưởng nghiêm minh và phải được thi hành nghiêm chỉnh.
Thứ hai, đẩy tự phê bình và phê bình, vì ý thức nghề nghiệp, ý thức chính trị, ý thức đạo
đức, hành vi đạo đức trước hết là ý thức và hành vi tự nguyện, tự giác của chính mỗi người.
Thứ ba, quan tâm và chú trọng đến công tác phát triển Đảng trong đội ngũ giảng viên
LLCT, đặc biệt là đối với giảng viên trẻ.
Thứ tư, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, vì tham nhũng và tình trạng suy
thoái đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân trong xã hội ảnh hưởng trực tiếp tới mỗi con người
trong xã hội, trong đó có giảng viên LLCT.
3.2.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn giảng viên lý luận chính trị theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa

Việc đổi mới công tác đào tạo cơ bản trong hệ thống các cơ sở đào tạo này là hết sức cần
thiết. Cần phải chú trọng những đổi mới sau:
Thứ nhất, ưu tiên đầu tư cho các trường, các khoa có đào tạo những chuyên ngành LLCT
về cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục; thực hiện chính sách ưu đãi đối với giảng viên và sinh
viên các ngành khoa học LLCT.
Thứ hai, đặt yêu cầu tuyển chọn phù hợp với yêu cầu đặt ra cho giảng viên LLCT ngay từ
tuyển sinh đầu vào.
Thứ ba, ưu tiên tuyển dụng, quy hoạch đội ngũ giảng viên trong các cơ sở đào tạo nói trên
đảm bảo về chất lượng, vì đây là nhân tố đầu tiên, trực tiếp quyết định và ảnh hưởng lâu dài
tới chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT.
Thứ tư, đổi mới căn bản nội dung, chương trình đào đạo, phương pháp giảng dạy, học tập,
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên LLCT theo hướng lấy người học làm trung
tâm, học tập tích cực, biến quá trình đào tạo thành quá trình “tự đào tạo”
Thứ năm, tích cực giáo dục đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh chính trị, giáo dục tinh thần
lao động tận tâm vì xã hội, tinh thần tương trợ tập thể, tinh thần đấu tranh không khoan
nhượng chống các hiện tượng tiêu cực trong nhà trường và ngoài xã hội, bảo vệ những giá trị
chân chính, cao quý của xã hội, của nhân loại, cố gắng tự giác rèn luyện để trở thành nhà giáo
không chỉ biết “dạy chữ” mà còn biết “dạy người”.
3.2.3. Đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo động lực khuyến khích đội ngũ giảng
viên lý luận chính trị không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, tu dưỡng đạo đức
nghề nghiệp
Để nhanh chóng tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt trong đội ngũ giảng viên
LLCT, về cơ chế chính sách, hết sức lưu ý sửa đổi, hoàn thiện những cơ chế chính sách chủ yếu
sau:
Một là, cơ chế chính sách tuyển dụng, bố trí, sử dụng.
Hai là, cơ chế chính sách đối với việc học tập nâng cao trình độ.
Ba là, cơ chế chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học.
Bốn là, cơ chế chính sách khuyến khích đổi mới phương pháp giảng dạy.
3.2.4. Phát huy và nâng cao tính tích cực, tính tự giác của bản thân đội ngũ giảng viên
lý luận chính trị trong nâng cao năng lực chuyên môn, rèn luyện nhân cách

Tinh thần trách nhiệm của giảng viên LLCT không chỉ xuất phát từ ý thức nghĩa vụ, mà
còn từ niềm tin hứng thú, sự say mê với công việc, từ tình cảm gắn bó, trân trọng với nghề
nghiệp, từ lòng khát khao muốn truyền đạt tri thức, niềm tin của mình cho các thế hệ sinh
viên. Vì thế, cần phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ bằng những tác động sau:
Một là, củng cố niềm tin cho đội ngũ giảng viên LLCT vào sự cao cả, cần thiết của nghề
nghiệp mà họ đang đảm nhận.
Hai là, xây dựng, củng cố môi trường công tác lành mạnh, tạo động lực cho giảng viên
LLCT an tâm phấn đấu, không ngừng vươn lên.
Ba là, tăng cường nhận thức cho đội ngũ giảng viên về sự cần thiết của việc hình thành,
củng có những phẩm chất, tính cách cần có của giảng viên LLCT phù hợp với đặc thù của
hoạt động giáo dục mà họ thực hiện.
Bốn là, cần tạo ra và kết hợp những động lực tinh thần và vật chất cho đội ngũ giảng viên
LLCT tích cực, hăng say phấn đấu.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường đại
học, cao đẳng ở nước ta hiện nay với cả thành tựu, hạn chế; chỉ rõ những vấn đề đặt ra, luận
án đưa ra những quan điểm cơ bản, làm cơ sở để định ra những giải pháp chủ yếu, nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT:
1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các trường đại học và cao đẳng là
một yêu cầu cấp thiết hiện nay. Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng đội ngũ này một cách hiệu
quả, thực chất, cần phải quán triệt những quan điểm quan trọng, có tính định hướng như:
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị phải gắn với xây dựng môi trường
kinh tế - xã hội, văn hóa lành mạnh; trên cơ sở một chiến lược lâu dài, song có lộ trình,
bước đi phù hợp với những khâu then chốt, đột phá; đồng thời, trên cơ sở đảm bảo sự cân đối
trong cơ cấu, kết hợp hài hòa giữa năng lực chuyên môn, trình độ được đào tạo và phẩm chất
chính trị, đạo đức; gắn với khắc phục những hạn chế trong nhận thức của các cơ quan quản lý giáo
dục, các cấp ủy Đảng và chính quyền về vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ giảng viên lý luận chính
trị và của chính bản thân đội ngũ. Đây chính là những phương hướng lớn, bao quát, mang tính
định hướng, dựa trên đó, cần có một hệ thống giải pháp cụ thể, phù hợp, đảm bảo tính đồng

bộ.
2. Trên nền tảng những quan điểm tổng quát, một hệ thống giải pháp phù hợp, bám sát
các quan điểm chỉ đạo, bao quát được nội dung vấn đề chất lượng đội ngũ giàng viên LLCT
là hết sức cần thiết. Đó là các giải pháp: Nâng cao bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp, tư
tưởng, đạo đức cho đội ngũ giảng viên LLCT; đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
giảng viên LLCT theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa; đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách,
tạo động lực khuyến khích đội ngũ giảng viên LLCT không ngừng nâng cao năng lực chuyên
môn, tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp; phát huy và nâng cao tính tích cực, tính tự giác của bản
thân đội ngũ giảng viên LLCT trong nâng cao năng lực chuyên môn, rèn luyện nhân cách.
Những giải pháp này luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua, lại. Do vậy, muốn
nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT, không được coi thường, hoặc xem nhẹ bất kỳ
giải pháp nào. Chúng phải được thực hiện đồng bộ, trong sự tương tác nhất định, cùng gắn bó
và nếu thực hiện tốt sẽ nâng cao một bước chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường đại học, cao đẳng nước ta, góp phần thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng GDĐH,
CĐ nói riêng, chất lượng giáo dục Việt Nam nói chung.

KẾT LUẬN
1. Trong các trường ĐH, CĐ ở nước ta hiện nay, đội ngũ giảng viên LLCT là một đội ngũ
đông đảo, đang tích cực tham gia vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, “vừa
hồng, vừa chuyên” cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước - đào tạo ra những thế hệ
sinh viên vừa có tri thức, kỹ năng, lại có phẩm chất đạo đức tốt. Giảng viên LLCT không chỉ
có nhiệm vụ truyền tải tri thức, mà còn có trách nhiệm truyền lửa, truyền niềm tin, để sinh
viên hăng hái phấn đấu, phục vụ, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì
thế, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT được coi là ưu tiên hàng đầu. Để nâng cao
chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT, cần nâng cao chất lượng những yếu tố cấu thành chất
lượng như: Cơ cấu, trình độ được đào tạo; trình độ, năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức.
2. Kết quả phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT trong các
trường đại học và cao đẳng nước ta hiện nay cho thấy: Một mặt, xu hướng trẻ hóa đội ngũ
ngày càng rõ nét; tỷ lệ đào tạo sau đại học được nâng cao; đội ngũ không ngừng trau dồi năng

lực chuyên môn, đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao năng lực tự học, tự bồi dưỡng, có
bản lĩnh chính trị, bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng, có đạo đức tốt, là những tấm gương cho
sinh viên noi theo; mặt khác, chất lượng còn thiếu hụt nhiều; tỷ lệ học hàm, học vị vẫn cần
tiếp tục nâng cao hơn nữa; cần tiếp tục nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học và tiếp cận
những phương pháp giảng dạy hiện đại; khả năng cập nhật thông tin, trau dồi những tri thức
ngoài chuyên ngành còn hạn chế… Những hạn chế này của đội ngũ giảng viên LLCT đặt ra
yêu cầu phải nâng cao chất lượng đội ngũ.
3. Thực trạng trên đồng thời cho thấy: Nếu không khắc phục những hạn chế, yếu kém
trong đội ngũ giảng viên LLCT, thời gian tới, đội ngũ giảng viên LLCT khó lòng hoàn thành
tốt sứ mệnh, trách nhiệm của mình. Trên cơ sở làm rõ nguyên nhân của những hạn chế và
những mâu thuẫn cần giải quyết để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên LLCT, luận án đề
xuất một hệ thống quan điểm và giải pháp mang tính căn bản, đồng bộ, toàn diện; luận án đưa
ra những giải pháp cụ thể, nhằm giải quyết những hạn chế căn bản, phát huy những thành quả
đã có trong chất lượng đội ngũ, từ đó có thể nâng cao một bước đáng kể chất lượng đội ngũ
giảng viên LLCT trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay.


References
1. Hoàng Anh (2006), Giáo dục Lý luận Mác-Lênin với việc hình thành và phát triển
nhân cách ở sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, Luận án
tiến sĩ chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Bác Hồ với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ (1985), Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2004), Chỉ thị số 40 - CT/TW về nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, Hà Nội.
4. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2008), Thông báo kết luận số 125-TB/TW về đề án Tình
hình giảng dạy, học tập các bộ môn khoa học Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường đại học, cao đẳng, chủ trương và giải pháp cho thời gian tới, Hà Nội.
5. Ban Chấp hành Trung ương (2009), Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về tiếp tục
thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và

đào tạo đến năm 2020, Hà Nội.
6. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng (2010), Đề án: Công tác giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác-Lênin trong các trường đại học, cao đẳng, Hà Nội.
7. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2003), Kỷ yếu hội thảo Khoa học - Thực tiễn:
Thực trạng và giải pháp đổi mới nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn
khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học và cao đẳng, Hà
Nội.
8. Nguyễn Duy Bắc (2004), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về dạy và học môn học
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. GS. TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên, 2010), Dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội -
nhân văn - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. GS. TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên, 2010), Bản chất cách mạng và khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. GS. TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên, 2010), Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. GS. TS. Hoàng Chí Bảo (chủ biên, 2010), Văn hoá và con người Việt Nam trong đổi
mới và hội nhập quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 34-CT/TW về tăng cường công tác chính trị trong
trường học, Hà Nội.
14. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Giáo dục Đại học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
15. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2004), Báo cáo về tình hình Giáo dục của Chính phủ, Hà
Nội.
16. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện chỉ thị số 34-CT/TW
về tăng cường công tác chính trị trong trường học, Hà Nội.
17. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Ban Khoa giáo TW (2006), Báo cáo tổng kết ba năm thực
hiện nghị quyết TW5 khoá IX về công tác tư tưởng Lý luận (phần lý luận) giai đoạn
2005-2006, Hà Nội.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án Đổi mới giáo dục đại học Việt Nam, giai đoạn
2006-2020, Hà Nội.

19. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Đề án Đổi mới kết cấu nội dung chương trình, giáo
trình các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học,
cao đẳng khối không chuyên ngành Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
20. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
23. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Nghị quyết số 05-NQ/BCSĐ ngày 6/1/2010 của Ban
Cán sự Đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo về Đổi mới quản lý Giáo dục đại học giai đoạn
2010-2012, Hà Nội.
25. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Giáo dục 2005, Hà Nội.
26. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Báo cáo Tổng kết năm học 2009-2010 và triển khai
nhiệm vụ năm học 2010 - 2011 khối các trường đại học, cao đẳng, Hà Nội.
27. Benedict J. Tria Kerkvliet (2003), Việt Nam: Xã hội, kinh tế, môi trường,
Nxb.Australian National University.
28. Chính phủ (2001), Chiến lược phát triển Giáo dục 2001 - 2010, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
29. Chính phủ (2005), Quyết định của Chính phủ về việc phê duyệt đề án Xây dựng, nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 - 2010, Hà
Nội.
30. Chính phủ (2005), Nghị quyết số 14 ngày 2/11/2005 của Chính phủ về việc Đổi mới
một cách cơ bản và toàn diện Giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020, Hà
Nội.
31. Chính phủ (2009), Chỉ thị số 296/CT-TTg ngày 27/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
Đổi mới quản lý giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, Hà Nội.

32. Nguyễn Văn Cư (2004), Ổn định chính trị - xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Dư (2004), Giáo dục lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Bộ phận
quan trọng nhất của giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong giai đoạn hiện
nay - Thực trạng và giải pháp, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá VII),
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản
Việt Nam lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn Kiện hội nghị Trung ương lần thứ hai (khoá
VIII), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn Kiện hội nghị Trung ương lần thứ sáu (khoá
IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới. Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị Trung ương lần thứ năm (Khoá
X), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Báo cáo Tổng kết 20 năm thực hiện cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng khối

ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn.
46. Vương Tất Đạt (2004), Báo cáo chuyên đề tại hội thảo Khoa học - Thực tiễn về: Xây
dựng đội ngũ giảng viên các môn Khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh -
khâu đột phá để nâng cao chất lượng giảng dạy, Hà Nội.
47. Nguyễn Đình Đức (1996), Những yếu tố khách quan và chủ quan tác động đến tư
tưởng chính trị của sinh viên - Thực trạng và giải pháp, Luận án Phó tiến sĩ triết học.
48. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của Thứ kỷ XXI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Phạm Minh Hạc (2001), Phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Triết học (2000), Giáo trình Đạo đức
học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Lương Đình Hòe (2004), Vấn đề nâng cao chất lượng học và thi môn Triết học Mác-
Lênin ở Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Ngãi, Luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
52. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn Khoa học
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác-Lênin, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Nguyễn Phương Hồng (1997), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Phan Văn Khải (2006), Đổi mới sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam,
Tập I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Phan Văn Khải (2006), Đổi mới sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam,
Tập II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Nguyễn Khánh (1999), Đổi mới bước phát triển tất yếu đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Cốc Văn Khang (1994), Cuộc đọ sức giữa hai chế độ xã hội - bàn về chống diễn biến
hòa bình, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
58. Lý Lâm và Ngô Ngọc Trương (1997), Kiên trì và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa
(tài liệu phục vụ nghiên cứu), Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.

59. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
60. V.I.Lênin (1974), Toàn tập, tập 4, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
61. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb. Tiến Bộ, Mátxcơva.
62. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. V.I.Lênin (2006), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. V.L.Lisốp ski và A.V. Mitriev (1974), Nhân cách của sinh viên, Nxb. Đại học Tổng hợp
Lêningrat.
65. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 16, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. C.Mác - Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, tập 20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. C.Mác - Ph.Ăngghen (1999), Toàn tập, tập 39, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. V.A.Métvêđép (1996), Êkíp Goócbachốp - nhìn từ bên trong, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội
72. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
73. Hồ Chí Minh (1980), Về giáo dục thanh niên, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
74. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
77. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 8, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
82. Hồ Chí Minh (2005), Bàn về giáo dục, Nxb. Lao động, Hà Nội.
83. Phạm Đình Nghiệp (2000), Giáo dục tư tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Việt Nam
trong tình hình mới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
84. Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nxb.
Sự thật, Hà Nội.

85. Vũ Hữu Ngoạn (chủ biên - 2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong Văn kiện Đại hội IX
của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
86. O.Bôgômôlốp (11/1987), "Chủ nghĩa xã hội thế giới trên con đường cải tổ", Tạp chí
Người Cộng sản, (16).
87. Lê Khả Phiêu (3/1997), "Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cơ hội để thanh
niên đóp góp tài năng trẻ", Tạp chí Giáo dục và Thời đại.
88. Lê Khả Phiêu (1998), Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng vững bước
tiến vào thế kỷ XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Giáo dục Việt Nam,
.
90. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2004), Nghị quyết số
37/2004/QH 11 của Quốc hội về Giáo dục, Hà Nội.
91. Tô Huy Rứa (1994), Đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giảng viên lý luận chính
trị các trường đại học, cao đẳng, đề tài NCKH.
92. Stupisin - V.Kuđriasevb(1990), "Xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền", Tạp chí
Thông tin khoa học xã hội, (4).
93. Tập thể tác giả (1996), Cải cách thể chế chính trị, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Lê Văn Thai (2006), Báo cáo tổng kết đề tài Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
95. Bùi Văn Thảo (2007), Nâng cao chất lượng dạy và học các môn Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh ở Trường Đại học Kỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ.
96. Ngọc Thao (2004), "Chuyển biến trong thực hiện quy chế dân chủ ở Lào Cai", Tạp chí
Xây dựng Đảng, (7).
97. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 494/QĐ-TTg về việc phê duyệt đề án Một
số biện pháp nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập các bộ môn khoa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học,cao đẳng và môn Chính trị trong các
trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, Hà Nội.
98. “Tổng quan lý luận về dân chủ và dân chủ hóa" (1990), Tạp chí Thông tin lý luận, (12).
99. Nguyễn Phú Trọng (1995), Sự lãnh đạo và hoạt động của Đảng trong điều kiện cơ chế
thị trường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Nguyễn Phú Trọng (2006), Đổi mới và phát triển - những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
101. Trường Đại học Bách khoa Hà Nội (2006), Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao
đẳng khối ngành Kỹ thuật, Hà Nội.
102. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2005), Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập
các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng mô hình hoá khối ngành
Kinh tế - Quản trị Kinh doanh, Hà Nội.
103. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2007), Đề án Xây dựng hệ thống Phim, ảnh, tư liệu
cho việc giảng dạy, học tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong
các trường đại học, cao đẳng, Hà Nội.
104. Trường Đại học Nông nghiệp I (2006), Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng
khối ngành Nông - Lâm - Ngư, Hà Nội.
105. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2006), Đề án Đổi mới phương pháp giảng dạy, học
tập các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh các trường đại học, cao đẳng
khối ngành Sư phạm, Hà Nội.
106. Đào Duy Tùng (1994), Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, lưu hành nội bộ, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
107. Thái Duy Tuyên (1999), Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
108. Tuyên truyền (1995), tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Từ điển Việt Nam (1971), Nxb. Khai trí, Sài Gòn.
110. Từ điển học sinh (1972), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
111. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
112. Từ điển Bách khoa Việt Nam (2002), tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
113. Từ điển Tiếng Việt (2004), Nxb. Hán Nôm, Hà Nội.
114. Nguyễn Quang Uẩn - Trần Quốc Thành - Trần Hữu Luyến (1996), Tâm lý học đại
cương, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
115. K.Đ.Usinxki (1948), Toàn tập, tập 2, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.

116. V.I.Vaxilenco (1975), Thế giới quan khoa học và những vấn đề lý luận của việc xây
dựng thế giới quan khoa học trong xã hội xã hội chủ nghĩa, Nxb. Matxcơva.
117. Nguyễn Hữu Vui (2002), Đổi mới phương pháp giảng dạy các môn khoa học Mác-
Lênin ở Việt Nam - Những vấn đề chung, đề tài NCKH.
118. Huỳnh Khái Vinh (2001), Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. T.L.Xmecôp (1985), “Những vấn đề cấp bách của việc hình thành thế giới quan Mác-
Lênin", Tạp chí Giáo dục lý luận, (3).
120. Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh.



×