Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam– thực trạng và giải pháp phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.55 KB, 45 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................................
...........................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN......................................................................................................3
1. Khái niệm và lợi ích của xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam................................3
1.1.

Khái niệm xuất khẩu hàng hóa...........................................................................3

1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với Việt Nam..................................................6
2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản...................................................................................7
2.1. Nông sản chịu ảnh hưởng lớn của các điều kiện tự nhiên:....................................7
2.2. Nông sản mang tính thời vụ:....................................................................................7
2.3. Nông sản mang tính phân tán:.................................................................................8
2.4. Các mặt hàng nông sản có tính tươi sống:..............................................................8
2.5. Nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người:......................................8
2.6. Nông sản rất phong phú và đa dạng về chủng loại và chất lượng:.......................9
3. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới..................................................................9
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM.....13
1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây.....13
1.1. Kết quả xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây.............13
1.2. Kết quả xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sau khi gia nhập
WTO................................................................................................................................19
2. Cơ hội và thách thức với xuất khẩu nông sản Việt Nam............................................28
2.1. Cơ hội.......................................................................................................................28
2.2. Thách thức...............................................................................................................31
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CHO CÁC
MẶT HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM..............................................34
1. Định hướng phát triển trong thời gian tới.................................................................34


2. Giải pháp xúc tiến phát triển hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam.................37
KẾT LUẬN.........................................................................................................................42
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................43



LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay hoạt động xuất khẩu trở nên vô cùng quan trọng trong hoạt
động thương mại đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Thông qua
hoạt động xuất khẩu, các quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân
công lao động, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ
cấu kinh tế và đặc biệt là tạo công ăn, việc làm cho người lao động.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược
trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực
hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Có đẩy mạnh
xuất khẩu, mở cửa nền kinh tế thì Việt Nam mới có điều kiện thực hiện thành
công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và ổn định đời sống nhân dân.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam xây dựng và
phát triển thị trường trong nước, hoà nhập thị trường thế giới để khai thác
nguồn lực thị trường toàn diện cả trong và ngoài nước. Đặc biệt Việt Nam
hiện là một nước trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa, 80% dân số làm
nông nghiệp nên các sản phẩm nông nghiệp khá dồi dào. Nếu các doanh Việt
Nam nghiệp kinh doanh xuất khẩu thực hiện tốt việc xuất khẩu sản phẩm
nông nghiệp ra thị trường thế giới sẽ góp phần nâng cao thu nhập và đời sống
cho các vùng sản xuất nông nghiệp tạo nhiều công ăn việc làm và làm lành
mạnh hoá cán cân thanh toán của nền kinh tế tạo cơ hội cho nền kinh tế tăng
trưởng toàn diện .
Từ đặc điểm có nền kinh tế của một nước nông nghiệp với dân số chủ
yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt Nam đã xác định

nông sản là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu
rất cần thiết cho phát triển kinh tế đất nước. Chính vì vậy, nhà nước đã tạo
1


điều kiện thuận lợi khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản.
Nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, em xin được lựa
chọn đề tài : “ Thị trường xuất khẩu nông sản Việt Nam– thực trạng và giải
pháp phát triển”
Đề tài này đã tổng kết được những lý luận cơ bản về hoạt động xuất khẩu,
phân tích và đánh giá tình hình xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam. Trên
cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị và giải pháp cơ bản để đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam.
Kết cấu đề án ngoài mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I : Những vấn đề cơ bản về thị trường xuất khẩu hàng nông sản.
Chương II : Thực trạng xuất khẩu nông sản ở Việt Nam .
Chương III : giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu cho các mặt hàng nông
sản của Việt Nam.

2


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
1.

Khái niệm và lợi ích của xuất khẩu nông sản đối với Việt Nam.


1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu: Xuất khẩu hàng hóa là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ
Việt Nam. Hoặc đưa vào khu vực dặc biệt nằm trên lãnh thồ Việt Nam được
coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
Theo quan niệm của các doanh nghiệp thì xuất khẩu là việc bán hàng
hóa, sản vật ra thị trường nước ngoài nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng
nước ngoài.
Như vậy có thể hiểu xuất khẩu là việc bán hàng hóa, dịch vụ ra nước ngoài
dựa trên lợi thế so sánh của mình nhằm mục đích kiếm lợi. Hoạt động xuất
khẩu là việc bán hàng hóa, dịch vụ cho các quốc gia khác trên cơ sở dùng tiền
tệ làm phương tiện thanh toán. Tiền tệ có thể là ngoại tệ với một hoặc cả hai
quốc gia.
Hàng hóa xuất khẩu: Là hàng hóa sản xuất để đưa ra thị trường , mua
bán trao đổi trên thị trường nhưng là thị trường nước ngoài . Hàng hóa này
phải di chuyển qua biên giới của quốc gia. Đồng thời cũng phải đáp ứng được
tiêu chuẩn, chất lượng mà thị trường nhập khẩu đó đòi hỏi. Như vậy so với
hàng hóa sản xuất để bán trên thị trường nội địa nó phức tạp hơn nhiều.
Giá cả xuất khẩu: Là mức giá của hàng hóa xuất khẩu, nó được đưa ra
dựa trên mức giá quốc tế và có sự chấp nhận của cả hai bên xuất nhập khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu: Được hiểu là tổng giá trị hàng hjóa xuất khẩu của
một doanh nghiệp, một đơn vị kinh tế hay một quốc gia trong một khoảng thời
gian nhất định.
3


Hạn ngạch xuất khẩu: Là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước,
được hiểu là quy định của nhà nước về sản lượng hay giá trị của một mặt
hàng, hay nhóm mặt hàng sang một thị trường nhất định, trong một khoảng
thời gian nhất định thông qua hình thức cấp giấy phép xuất khẩu ( Quota xuất
khẩu ).

Hợp đồng xuất khẩu: Là hợp đồng mua bán hàng hóa được kí kết giữa
một bên là thương nhân Việt Nam với một bên là thương nhân nước ngoài.
Các chủ thể của hợp đồng là ngừơi mua, người bán phải có trụ sở đăng kí kinh
doanh tại các nước khác nhau, thông thừơng là có quốc tịch khác nhau.
Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương,
đã xuất hiện rất lâu và ngày càng phát triển. Nó diễn ra trên tất mọi lĩnh vực,
trong mọi điều kiện. Từ lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng cho đến lĩnh vực
công nghệ khoa học. Dù ở lĩnh vực nào nó cũng nhằm đem lại lợi ích cho các
quốc gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rộng cả về không gian và
rhời gian. Nó có thể diễn ra trong thời ngắn song cũng có thể kéo dài hàng
năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãn thổ của một quốc gia hoặc
nhiều quốc gia khác nhau.
Các hình thức xuất khẩu:
Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức xuất khẩu hàng hóa dịch vụ do doanh
nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các
khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình mà không cần qua các
tổ chức trung gian. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là các doanh nghiệp
có thể liên hệ trực tế với nhau, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình
bán hàng để có thể chủ động trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Hình rhức này giúp các doanh nghiệp giảm được khoản chi phí trung gian.
Xuất khẩu ủy thác: Đơn vị xuất khẩu (bên nhận ủy thác) nhận xuất khẩu
một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và được hưởng một khoản
4


theo thỏa thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (bên ủy thác). Đơn vị có hàng
xuất khẩu khong phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư vào vircj bán hàng ra
nước ngoài nên rủi ro kinh doanh không cao, nhưng họ không trực tiếp liên hệ
với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không thể chủ động sản xuất
hàng hóa.

Buôn bán đối lưu: Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng
hàng hóa mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương nhau. Mục đích xuất
khẩu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được
một lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Giúp doanh nghiệp
tránh được những biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng
thời có lợi khi doanh nghiệp không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng
nhập khẩu của mình.
Xuất khẩu theo nghị định thư: Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất
khẩu theo chỉ tiêu của nhà nước một hoặc một số hàng hóa nhất định cho
chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được kí giữa 2 chính phủ.
Cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí
trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng, và thường không có rủi
ro trong thanh thư.
Xuất khẩu tại chỗ: Là hình thức kinh doanh mà hàng hóa xuất khẩu
không cần vượt qua biên giới quốc gia khách hàng vẫn có thể mua được.
Doanh nghiệp xuất khẩu không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán
với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp. Hình thức
này thường được áp dụng với các quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều
tổ chức nước ngoài đóng tại quốc gia đó.
Gia công quốc tế là hình thức xuất khẩu trong đó có một một bên nhập
nguyên liệu hoặc bán sản phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia
5


công) dể chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu
được một khoản lệ phí như thỏa thuận của cả 2 bên. Bên nhận gia công
thường là các nước đang phát triển có lực lượg lao động dồi dào, có tài
nguyên phong phú.
Tái xuất khẩu: Với hình thức này một nước sẽ xuất khẩu những hàng

hóa đã nhập từ một nước khác sang nước thứ 3. Hình thức này được áp dụng
khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập
khẩu. Doanh nghiệp ở nước tái xuất khẩu có thể thu được một khoản lợi
nhuận lớn mà không phải tổ chức kinh doanh.
1.2. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với Việt Nam.
Việt Nam là nước nông nghiệp, với 80% dân số tham gia vào lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp. Có khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện rất tốt cho cây
nông nghiệp và sản phẩm vùng nhiệt đới phát triển. Khi xuất khẩu các mặt
hàng nông sản ra thị trường thế giới sẽ đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích.
Về luận Việt Nam có thể hưởng được các kết quả trong lý thuyết về lợi
thế so sánh tuyệt đối và tương đối và học thuyết về sự cân đối giữa các yếu tố
trong kinh doanh quốc tế. Như lao động rẻ, dồi dào, tỷ lệ lao động tham gia
vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp lớn, có kinh nghiêm sản xuất lâu đời; có
điều kiện tự nhiên thích hợp với sự sinh trưởng và phát riển của nhiều loại sản
phẩm nông nghiệp…
Liên kết các hoạt động kinh tế của Việt Nam với nền kinh tế thế giới vì
hoạt động ngoại thương là bước đầu tiên để thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp
cận với những tiến bộ của khoa học công nghệ tiên tiến của thế giới. Giúp Việt
Nam thực hiện chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, khu vực
hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế Việt Nam.
Tạo điều kiện để tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân.
Thúc đẩy các ngành phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như nghành phân bón,
6


công nghiệp chế biến nông sản phát triển. Tạo thêm công ăn việc làm cho
người lao động.
Qua xuất khẩu nông sản giúp cho Việt Nam thúc đẩy tiến bộ công nghệ
khoa học trong sản xuất chế bíến và bảo quản các mặt hàng nông sản sau thu
hoạch, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp Việt Nam

trên thị trường quốc tế, thúc đẩy cuộc cách mạng đổi mới cơ cấu cây trồng, vật
nuôi loại bỏ các sản phẩm kếm hiệu quả, chất lượng, thực hiện tốt yêu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về mặt thương mại sẽ giúp cho Việt Nam phát triển công nghệ kinh
doanh, nắm bắt và làm quen với các thông lệ quốc tế đi đến thực hiện tốt các
quan hệ thương mại quốc tế.
2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản.
2.1. Nông sản chịu ảnh hưởng lớn của các điều kiện tự nhiên:
Đất đai , khí hậu thời tiết, địa hình nguồn nước… hay nói một cách cụ
thể hơn là các điều kiện tự nhiên tác động trực tiếp đến sự tăng trưởng và phát
triển của cây trồng. Từ đó tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng, giá cả,
nguồn hàng nông nghiệp cho xuất khẩu. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi thì
năng suất và chất lượng sẽ cao. Và ngược lại, nếu thời tiết không thuận lợi thì
năng xuất và chất lựng nông sản đều giảm và giá cao.
2.2. Nông sản mang tính thời vụ:
Việc sản xuất thu hoạch nông sản thường được tiến hành theo mùa vụ
rõ ràng, cụ thể với từng loại cây và từng khu vực nhằm đảm bảo phù hợp với
điều kiện thời tiết ở nơi sản xuất. Năng suất, chất lượng, giá cả của nông sản
có sự biến động tùy thuộc vào từng mùa vụ. Vào chính vụ sản lượng lớn, chất
lượng đồng đều, phong phú về chủng loại, giá rẻ. Trái vụ hoặc thời tiết không
thuận lợi thì sản lượng thấp, chất lượng không đồng đều, giá cao.
7


2.3. Nông sản mang tính phân tán:
Mỗi loại cây khác nhau phù hợp với điều kiện thời tiết khí hậu khác
nhau. Do đó sẽ trồng và phát triển ở những vùng khác nhau như: chè phù hợp
trồng ở vùng núi phía Bắc, cà phê phù hợp với các vùng đất ở Tây Nguyên,
Đắc Lắc, Đắc Nông, gạo được trồng ở các vùng đồng bằng, trung du ( đồng
bằng bắc bộ, đồng bằng sông cửu long,) … Nông sản phân tán ở các vùng

nông thôn và trong tay hàng triệu nông dân, nhưng sức tiêu thụ lại tập trung ở
thành phố và các khu công nghiệp. Phương thức lưu thông hàng nông sản là
phân tán –tập trung, nông thôn-thành thị. Vì vậy việc bố trí thu mua, chế biến,
vận chuyển phải phù hợp với các đặc điểm nói trên.
2.4. Các mặt hàng nông sản có tính tươi sống:
Dễ bị hỏng, kém chất lượng. Hơn nữa chủng loại, số lượng, chất lượng
cũng rất khác nhau. Vì vậy khi thu mua cần đặc biệt lưu phân lý loại, chế biến
bảo quản, vận chuyển, có phương thức kinh doanh phù hợp với đặc điểm của
từng loại. Thu mua nhanh chóng, kịp thời tránh hao tổn. Giá cả hàng nông sản
xuất khẩu phụ thuộc vào chất lượng. chất lượng hàng nông sản không những
phụ thuộc vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu bảo quản
chế biến. Vì vậy các doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến việc chế biến và
bảo quản nông sản.
2.5. Nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của con người:
Chất lượng hàng nông sản tác động trực tiếp đến sức khỏe của người
tiêu dùng. Nên yêu cầu về chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được đặc biệt
coi trọng và được quy định chặt chẽ trong quá trình sản xuất chế biến, bảo
quản. Ngày nay chất lượng trở thành công cụ cạnh tranh khá hiệu quả và để
xâm nhập vào các thị trường khó tính thì đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng
cao, đáp ứng được các tiêu chuẩn cần thiết mà thị trường nhập khẩu đặt ra.
8


2.6. Nông sản rất phong phú và đa dạng về chủng loại và chất lượng:
Mỗi loại hàng khác nhau thì có điều kiện sinh trưởng, phát triển khác
nhau, thu mua chế biến theo cách rỉêng. Vì vậy chất lượng không đồng đều .
Ngay trong mỗi mặt hàng thì chất cũng đã được quy định rất nhiều loại khác
nhau. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá trên về cùng một mặt hàng trên thị
trường thế giới cũng rất khác nhau. VD: Đối với mặt hàng gạo hiện nay được
chia làm 6 loại chính. Thị trường Châu Âu quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài.

Thị trường Châu Á lại quen tiêu dùng loại gạo chất lượng trung bình hạt dài.
Thị trường Châu Phi quen tiêu dùng gạo hấp (luộc sơ) có chất lượng không
cao và không được chấp nhận ở các thị trường còn lại. Thị trường Trung Đông
quen tiêu dùng gạo thơm. Thị trường Lào quen tiêu dùng gạo nếp…
3. Đặc điểm thị trường hàng nông sản thế giới.
Hầu hết các mặt hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu ăn, uống của con
người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, nhu cầu hàng
nông sản có phẩm cấp cao ngày càng tăng, nhu cầu hàng có phẩm cấp thấp
ngày càng giảm xuống. Tuy nhiên hàng nông sản phục vụ cho nhu cầu thiết
yếu của con người vẫn giữ vai trò quan trọng và không thể thiếu được đối với
sự tồn tại của con người.
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc gia xuất khẩu hàng nông sản.
nhưng các nước đang phát triển là những nước xuất khẩu hàng nông sản chủ
yếu. Tuy nhiên hàng nông sản được xuất khẩu từ các nước này chủ yếu là các
mặt hàng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên có gía trị xuất khẩu chưa cao.
Những nước không có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp là
những nước chính nhập khẩu hàng nông sản. Đây có thể là các nước chậm
phát triển, đang phát triển hoặc phát triển. Tuy nhiên nhu cầu của mỗi nước
đối với hàng nông sản rất khác nhau. Thông thường các nước chậm phát triển
và đang phát triển có nhu cầu nhập khẩu một số lượng lớn sản phẩm lương
9


thực. Những sản phẩm này có yêu cầu về chất lượng không cao, giá rẻ và chỉ
cần một sự thay đối nhỏ về giá cả sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn trong hành vi tiêu
dùng của người dân tại các nước này. Ngược lại, tại các nước phát triển, người
tiêu dùng chỉ chấp nhận sản phẩm có chất lượng cao mặc dù giá đắt.
Thị trường nhập khẩu hàng nông sản đã và đang bị thu hẹp lại. Hiện tại
các nước phát triển có nhu cầu nhập khẩu hàng nông sản lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên các nước này đã và đang thực hiện một cách phổ biến và sâu rộng

chế độ trợ cấp cho sản xuất nông nghiệp ở mức độ cao, bảo hộ thị trường nông
sản nội địa dưới nhiều hình thức. Chẳng hạn: Năm 1995,1996 số tiền trợ giá
cho nông sản xuất khẩu chỉ riêng của EU đã bằng 80% tổng số tiền trợ giá của
tất cả các thành viên thuộc WTO. Cơ chế trợ cấp và trợ giá quá cao cho hàng
nông sản ở các nước đang phát triển đã gây sự bóp méo giá cả hàng nông sản
xuất khẩu, hạn chế tác động của quy luật thị trường và giảm đi ưu thế cạnh
tranh hàng nông sản của các nước đang phát triển vốn nhờ vào lao động rẻ. Cơ
chế này không những làm tăng khả năng xuất khẩu hàng nông sản của các
nước này mà còn hạn chế nhập khẩu nông sản của các nước này. Đây thực tế
là một bất lợi lớn đối với sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu khẩu nông sản
của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam).
Trước sức ép của xu hướng tự do hoá thương mại buộc các nước phát
triển phải nhất trí sự cần thiết giảm trợ giá cho các mặt hàng nông sản xuất
khẩu, mở rộng tự do hoá thị trường nông sản thế giới ở một cuộc họp tại Mỹ
vào tháng 11 năm 1999. Điều này dường như dẫn tới một tương lai sáng sủa
hơn cho sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các nước đang phát
triển. Tuy nhiên, giờ đây sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của các
nước đang phát triển lại phải đối mặt với những rào chắn khác, đó là những
quy định chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm và môi trường sinh thái mà
trong nhiều trường hợp người ta xem đó là hình thức bảo hộ trá hình nhằm
10


ngăn cản hàng nông sản của các nước đang phát triển tràn vào thị trường các
nước phát triển.
Các nước Châu Phi cũng có nhu cầu nông sản lớn nhưng khả năng thanh
toán hạn hẹp. Trong khi đó Liên Hợp Quốc chỉ còn hỗ trợ nhập khẩu lương
thực cho những nước có khủng hoảng chính trị.
Tình hình trên làm cho thị trường nông sản bị thu hẹp trong khi nguồn
cung cấp nông sản khá dồi dào ở các nước Châu á, Mỹ La Tinh, Tây Âu, Bắc

Mỹ đã đẩy kinh doanh nông sản trên thị trường thế giới vào tình trạnh cạnh
tranh quyết liệt khiến cho giá nông sản xuất khẩu trên thị trường thế giới
giảm, gây bất lợi cho những người sản xuất nông nghiệp và cho những nước
xuất khẩu nông sản.
Theo như đã phân tích ở trên, thị trường nông sản thế giới đang bị thu
hẹp, nguồn cung cấp hàng nông sản trên thị trường thế giới ngày càng dồi dào,
cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu nông sản nguyên liệu diễn ra ngày càng
gay gắt buộc các nước đang phát triển phải xuất khẩu nông sản nguyên liệu
cho các nước phát triển với giá thấp (các nước đang phát triển sẽ chế biến lại
để xuất khẩu). Mặt khác hàng nông sản chế biến sâu của các nước đang phát
triển lại phải cạnh
tranh với hàng nông sản xuất khẩu cùng loại của các nước phát triển ở thế yếu
hơn do hạn chế về công nghệ chế biến và khả năng đầu tư cho công nghệ chế
biến nông sản xuất khẩu. Trong những điều kiện này, ưu thế cạnh tranh trên
thị trường thế giới thuộc về các nước phát triển. Các nước này đã trở thành
người chi phối và chiếm ưu thế trong quan hệ buôn bán nông sản trên thị
trường.
Hiện tại thiệt thòi đang thuộc về các nước đang phát triển. Tuy nhiên theo
đánh giá của tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hợp Quốc (FAO)
11


với tốc độ phát triển như hiện nay (dân số thế giới tăng trưởng với tốc độ cao
nhưng đất đai sử dụng cho nông nghiệp lại giảm cùng với quá trình công
nghiệp hoá làm cho tốc độ tăng bình quân nhu cầu tiêu thụ sản phẩm nông
nghiệp lớn hơn tốc độ tăng bình quân sản lượng nông sản trên thị trường thế
giới) thì đến năm 2010 cầu về hàng nông sản trên thị trường thế giới sẽ vượt
xa cung. Điều này mở ra một cơ hội mới cho các nước đang phát triển xuất
khẩu nông sản nói chung và Việt Nam nói riêng có thể đẩy mạnh xuất khẩu
nông sản trong tương lai.


12


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM
1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm
gần đây.
1.1. Kết quả xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong những năm gần đây.
Trong bối cảnh mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập
khẩu của các nước là thước đo đánh giá kết quả của quá trình hội nhập quốc tế
và phát triển trong mối quan hệ tùy thuộc vào nhau giữa các quốc gia. Sự độc
lập phát triển của mỗi quốc gia là sự phụ thuộc của quốc gia đó vào thế giới
phải cân bằng với sự phụ thuộc của thế giới vào quốc gia đó. Hoạt động xuất
nhập khẩu là yếu tố quan trọng nhằm phát huy mọi nguồn nội lực, tạo thêm
vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, tăng thêm việc làm, thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có
những chuyển biếm tích cực như: Sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, Cơ
cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng
hóa, giảm tỷ trọng loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua
chế biến. Thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam càng ngày càng mở
rộng và thay đổi về cơ cấu thị trường. Sự thay đổi đó thể hiện rất rõ ở kết quả
xuất khẩu nông sản cuả Việt Nam năm 2007, 2008, và những tháng đầu năm
2009.
Trong những năm qua, hoat động xuất khẩu nông sản đã có những
chuyển biếm tích cực như sự tăng lên về kim nghạch xuất khẩu, Cơ cấu các
mặt hàng xuất khẩu cũng được cải thiện theo chiều hướng đa dạng hóa, giảm
13



tỷ trọng loại hàng hóa chưa qua chế biến tăng tỷ trọng hàng đã qua chế biến.
Thị trường xuất khẩu hàng húa của Việt Nam càng ngày càng mở rộng và
thay đổi về cơ cấu thị trường. Trong số các nước ở Châu Á như Nhật Bản và
ASEAN đóng vai trò lớn, tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa
của ta sang các nước đó cũng đó thay đổi theo hướng giảm dần và tăng ở các
nước khối EU và Châu Mỹ.
Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2007
là năm thành công trong xuất khẩu nông sản. Đến thời điểm 12/12/2007, kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của cả nước đã đạt 11,5 tỷ USD, tăng
19,5% so cùng kỳ năm trước, vượt kế hoạch cả năm 5,6%. Trong đó, kim
ngạch nông sản ước đạt khoảng 5,7 tỷ USD, so cùng kỳ năm trước tăng 24%,
thủy sản ước đạt 3,4 tỷ USD, tăng 11,8% so cùng kỳ và đạt 95% kế hoạch,
lâm sản ước đạt trên 2,3 tỷ USD, tăng 20% so cùng kỳ và đạt 99% kế hoạch.
Tính đến hết tháng 11/2007, các mặt hàng đều có kim ngạch xuất khẩu tăng
so cùng kỳ năm trước, nhiều mặt hàng tăng rất mạnh như cà phê tăng 1,7 lần,
mặt hàng lạc, đường, dầu mỡ động thực vật tăng 2-3 lần. So kế hoạch năm,
gạo, cà phê, điều và sản phẩm gỗ đã đạt và vượt kế hoạch năm cả về lượng và
giá trị, một số mặt hàng khác khó đạt được mục tiêu kế hoạch là rau quả, cao
su và lạc.
Đặc biệt, đến hết tháng 11/2007, xuất khẩu gạo đã hoàn thành chỉ tiêu
với sản lượng xuất khẩu xấp xỉ năm trước (4,5 triệu tấn) nhưng kim ngạch
xuất khẩu tăng 18% (kim ngạch 1,45 tỷ USD). Cà phê Việt Nam vượt ngưỡng
xuất khẩu 1 triệu tấn với tổng giá trị kim ngạch 1,63 tỷ USD (cao hơn mức dự
kiến xuất khẩu của cả năm là 26%). Như vậy, cà phê là mặt hàng có mức tăng
trưởng xuất khẩu mạnh nhất trong tất cả các mặt hàng nông lâm thủy sản so
với dự kiến kế hoạch năm 2007. Hiện đã có tới 5 mặt hàng là thủy sản, gỗ và
sản phẩm gỗ, cà phê, gạo và cao su đạt giá trị xuất khẩu từ 1-3 tỷ USD.
14



Kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong năm 2007 đã đạt được những
kết quả tích cực cả về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Tổng kim nghạch xuất
khẩu cả năm đạt 48,387 tỷ USD, tăng 21,5% so với năm 2006 ( kế hoạch của
chínhnh phủ đề ra là 46,7 tỷ USD, tăng 17,4%). Trong đó tỷ trọng hàng húa
chế biến, chế tạo, có hàm lượng công nghệ và chất xám cao tăng dần, tỷ trọng
hàng hóa chưa qua chế biến giảm dần. Nông nghiệp Việt Nam vẫn phátt triển
theo hướng tích cực với tốc độ tăng trưởng 3,25%, giá trị sản xuất nông
nghiệp chiếm 19,8% GDP cả nước. Sau một năm gia nhập WTO, bức tranh
xuất khẩu nông sản đẹp hơn bao giờ hết với tổng giá trị xuất khẩu ước đạt
12,6 tỷ USD, tăng 20% so với năm 2006, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước và đó vượt mục tiêu đề ra cho năm 2010 tới 1,5 tỷ USD.
Tuy thị trường xuất khẩu năm 2008 có nhiều biến động, nhưng kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản năm 2008 đạt 16,24 tỷ USD, tăng 22,7%
so với năm 2007, đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay. Trong đó
các mặt hàng nông sản ước 8,42 tỷ USD, tăng 34%; lâm sản và gỗ đạt 3,0 tỷ
USD, tăng 13,4%; mặt hàng thuỷ sản 4,5 tỷ USD, tăng 19,6%. 6 mặt hàng đạt
kim ngạch trên 1 tỷ USD cụ thể là: gạo 2,87 tỷ USD, cà phê 2,0 tỷ USD, cao
su 1,6 tỷ USD, đồ gỗ 2,8 tỷ USD, tôm gần 1,5 tỷ USD, cá tra trên 1 tỷ USD.
Đặc biệt, mặt hàng điều có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đạt trên 908 triệu
USD, tăng 38,8% so với năm 2007. Hầu hết hàng nông sản năm nay đều xuất
khẩu tăng mạnh với nhiều mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỷ USD trở lên
như thủy sản, gạo, cà phờ, cao su, sản phẩm gỗ. Nhưng Việt Nam vẫn bị thất
bại trong việc tìm kiếm, trinh phục thị trường mới. Khó khăn ở cỏc thị trường
truyền thống buộc doanh nghiệp phải tìm tòi, xâm nhập thị trường mới, nhưng
kết quả khụng mấy lạc quan. Vỡ vậy các doanh nghiệp quyết định quay về
các thị trường truyền thống như: Nga, Đông Âu, Tây Âu, Trung Đông và Ai
Cập, Đài Loan, Mỹ. Nhật Bản… Tuy nhiờn khối lượng nhập khẩu vào các thị
15



trường nay cũng rất hạn chế. Theo ông William Troy, Công ty Thương mại
Toàn cầu (Mỹ) cho biết, sỡ dĩ khả năng thâm nhập thị trường Mỹ của hàng
nụng sản Việt Nam cũn hạn chế, chính là do năng lực cạnh tranh kém. Trong
khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng nụng sản của Việt Nam sang các nước
thuộc khối ASEAN vẫn luụn phập phù, dao động từ 400 - 900 triệu USD/năm
với mặt hàng chủ yếu là gạo
Kết quả xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2008

STT

Triệu USD

Trị giá

Số lượng

1

Thủy sản

4,500

2

Gạo

4,500


3

Cà phê

1,100

4

Rau quả

5

Cao su

730

2,000

780

6

Hạt tiêu

100

350

120


7

Nhân điều

170

940

190

8

Chè các loại

115

155

130

9

Mây, tre, cói & thảm

2,700

3,500

10


Sản phẩm gỗ

2,800

3,200

4,500
2,300

1,200

370

Tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 3 tháng đầu năm năm
2009 đạt 3,47 tỷ USD, tăng 3,1% so với Quý I năm 2008. Trong đó, Các mặt
hàng xuất khẩu chính như: gạo, xuất khẩu quý I đạt trên 1,7 triệu tấn, kim
ngạch 785 triệu USD, tăng 71% về lượng và 76% về kim ngạch so cùng kỳ
năm ngoái. Tổng lượng cà phê xuất khẩu 419 nghìn tấn với giá trị 634 triệu
USD, tăng 21,37 % về lượng. Cao su ước 115 ngàn tấn với trị giá 158 triệu
USD. Sản phẩm chè với tổng xuất khẩu đạt 22 nghìnn tấn và 28 triệu USD, cả
khối lượng và giá trị đều tăng hơn 5% so với cùng kỳ năm 2008. Hạt điều
16


xuất khẩu ước 29 nghìn tấn với trị giỏ 130 triệu USD. Hạt Tiêu xuất khẩu
tháng 3 năm 2008 đạt 9 nghin tấn, đưa khối lượng tiêu xuất khẩu quý I lớn 24
nghìn tấn với giá trị trên 60 triệu USD, tăng 58% về lượng. Tổng kim ngạch
xuất khẩu lâm sản và đồ gỗ ước 572 triệu USD; trong đó, gỗ và sản phẩm gỗ
527 triệu USD; sản phẩm mây tre, cuối tháng 42 triệu USD. Giá trị xuất khẩu
thuỷ sản tháng 3 đạt 300 triệu USD, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu quý I lờn

744 triệu USD.
Kế hoạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm 2009
STT

Mặt hàng xuất khẩu

Triệu USD

Trị giá

Số lượng

1

Thủy sản

Tr USD

4,500

2

Gạo

1000 T

2,850

4,500


3

Cà phê

1000 T

2,300

1,200

4

Rau quả

Tr USD

370

5

Cao su

1000 T

2,000

780

6


Hạt tiêu

1000 T

350

120

7

Nhân điều

1000 T

940

190

8

Chè các loại

1000 T

155

130

9


Mây, tre, cói & thảm

Tr USD

230

110

Sản phẩm gỗ

Tr USD

2800

Trong kế hoạch điều hành năm 2009, Bộ Công Thương Việt Nam dự kiến cơ
cấu thị trường xuất khẩu năm 2009, như sau:
Khu vực thị trường châu Á và châu Đại Dương: Dự báo xuất khẩu vào
các thị trường chính như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan sẽ giảm so với
năm 2008, đặc biệt là thị trường ASEAN do xuất khẩu xăng dầu sang thị
trường này giảm. Kế hoạch năm 2009, xuất khẩu hàng hóa vào thị trường
châu Á đạt 31,6 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008; khu vực thị trường châu
17


Đại Dương dự kiến giảm còn bằng 91,8% so với năm 2008 đạt 3,9 tỷ USD
cũng bởi nguyên nhân xuất khẩu xăng dầu sang thị trường này giảm.
Việc thực hiện đầy đủ các cam kết theo CEPT/AFTA đã và đang tạo điều kiện
cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào thị trường các nước nêu trên, song do
kim ngạch xuất khẩu vào ASEAN tăng chậm so với tốc độ tăng trưởng bình
quân, trong khi kim ngạch nhập khẩu từ ASEAN tăng tương đối nhanh nên

nhập siêu từ khu vực này tiếp tục tăng.
Khu vực thị trường châu Âu: Năm 2009, xuất khẩu những hàng hóa chủ
yếu vào thị trường EU dự báo sẽ giảm như dệt may, giày dép vì nhu cầu tiêu
dùng giảm do khủng hoảng kinh tế các mặt hàng có khả năng tăng là sản
phẩm nhựa, hàng điện tử, hàng thủy sản. Tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến
đạt 13,3 tỷ USD, tăng 15%.
Khu vực thị trường châu Mỹ: Do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ nên
tăng trưởng nhập khẩu của Hoa Kỳ năm 2009 dự báo sẽ giảm (trừ những
nhóm hàng nhiên liệu và một số nông sản có thể vẫn tăng do vẫn có nhu cầu
tiêu dùng và tăng giá) nhất là đối với các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt
Nam như may mặc, giày dép, vali, túi xách, đồ gỗ, đồ điện tử, cáp điện, sản
phẩm nhựa, hạt điều, cà phê. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt
14,6 tỷ USD, tăng 13% so với năm 2008, trong đó Hoa Kỳ đạt 12,7 tỷ USD,
tăng 10%.
Các mặt hàng như sản phẩm gỗ, dệt may, giày dép, cà phê, thủy sản vẫn
là những mặt hàng đóng góp lớn vào tăng trưởng.
Khu vực thị trường châu Phi: Dự báo tình hình phát triển kinh tế tại khu vực
này có thuận lợi ở một số thị trường và không có đột biến trong chính sách
thương mại, đòi hỏi ở thị trường này không quá khắt khe, vì vậy đây là thị

18


trường rất tiềm năng cho Việt Nam, năm 2009 phấn đấu xuất khẩu đạt 2,3 tỷ
USD, tăng 89% so với năm 2008.
1.2. Kết quả xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của Việt Nam sau khi gia
nhập WTO
a. Gạo
Mặt hàng nông sản Việt Nam nhìn chung có sức cạnh tranh trên thị
trường trong nước và thị trường quốc tế. Trong 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ

lực thì có hơn một nửa là hàng nông sản, bao gồm: gạo, cà phê, nhân điều, hồ
tiêu, rau quả, lạc nhân, chè. Một số mặt hàng xét về quy mô có thể tác động
đến thị trường và giá cả trên thế giới như gạo, cà phê Robusta, hồ tiêu, cao su,
nhân điều. Sau một năm gia nhập WTO, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức nhưng nông sản Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu
đáng kể.
Trong các mặt hàng nông sản thì gạo chiếm tỷ trọng cao nhất (23,8%),
gạo không những góp phần ổn định tình hình lương thực trong nước mà còn
chiếm tỷ lệ cao trong sản lượng lương thực thế giới. Mặt hàng này đã đem lại
cho nền kinh tế Việt Nam nguồn ngoại tệ tương đối cao đồng thời góp phần
làm tăng vị thế của Việt Nam trong thị trường thế giới. Điều đó cho thấy mặt
hàng lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam
cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều năm, Việt Nam luôn là nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ 2
trên thế giới, có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các cường quốc sản xuất lúa gạo
như Thái Lan và Ân Độ. Năm 2007, gạo Việt Nam đã tăng gần 10% về giá so
với năm trước, từng bước theo kịp Thái Lan và dần thâm nhập vào các thị
trường có giá cả cao như Nhật Bản.

19


Trong giai đoạn năm 2000 đến năm 2007, năm 2005 là năm đầu tiên Việt
Nam xuất khẩu vượt con số 5 triệu tấn, với mức giá xuất khẩu khá cao bình
quân từ 245-275
USD/tấn (xuất khẩu 5,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1,4 tỷ USD,
tăng 28% về lượng và 58% về giá trị). Hiện nay, gạo Việt Nam có mặt trên
100 nước chiếm 20% thị phần gạo thế giới. Bên cạnh đó, giá trị gạo của ta
cũng ngày càng được đánh giá cao hơn. Nếu so sánh năm 2006 và năm 2007
ta thấy, lượng gạo xuất khẩu hai năm đều như nhau, nhưng giá bình quân xuất

khẩu năm 2007 cao hơn, do đó đưa giá trị xuất khẩu năm 2007 tăng 16,7%.
Trong xu thế hội nhập, nếu bỏ hết rào cản, lượng gạo giao dịch sẽ tăng thêm
10-15%/năm và giá gạo tăng 25-35%/năm.
Nhìn chung, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam từng bước được đẩy mạnh qua
các năm. Song, so với các nước xuất khẩu gạo trên thế giới, giá gạo của ta
luôn bị hạ mức thấp hơn.
Thị trường gạo thế giới năm 2008 biến động mạnh. Giá gạo chia làm 2
xu hướng rõ rệt: tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, và giảm mạnh trong 7
tháng cuối năm. Tính chung trong cả năm, giá gạo thế giới tăng khoảng 20 40%. Thị trường gạo thế giới 5 tháng đầu năm 2008 biến động mạnh, giá gạo
tăng gần 200% . Gạo trở thành mặt hàng tăng giá mạnh nhất trong số các loại
hàng hoá trong 6 tháng đầu năm 2008 do nhu cầu xuất khẩu tăng, trong khi
nguồn cung hạn hẹp bởi nhiều nước xuất khẩu lớn hạn chế hoặc cấm xuất
khẩu. Tại Việt nam, sản lượng thóc năm 2008 tăng 3% lên 37 triệu tấn, cao
hơn mức 36,6 triệu tấn dự báo trước đây, tạo cơ hội gia tăng xuất khẩu gạo.
Khả năng xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2008 tăng 13% so với mục tiêu đề ra
trước đây, đạt 4,5 triệu tấn. Chính phủ Việt Nam đã ra nhiều biện pháp hỗ trợ
người trồng lúa, trong bối cảnh tồn kho lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long

20


còn nhiều, và giá lúa gạo giảm mạnh. Trong năm 2008, Việt Nam đã ký hợp
đồng xuất khẩu 5,1 triệu tấn gạo, đã giao 4,65 triệu tấn, đạt kim ngạch xuất
khẩu 2,9 tỷ USD, gấp hơn hai lần so với năm 2007 (1,4 tỷ USD). Giá gạo xuất
khẩu của Việt Nam trong năm 2008 cũng đạt mức cao, bình quân là 550
USD/tấn, gần gấp đôi so với năm trước
Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Trung Đông

2002


2003

2004

2005

2006

2007

2008

894,2 372,6 435,4

301,9 149,9

49,6

117,3

27,59

9.77

10,72

5,57

3,33


1,15

4,20

20,65

9,39

6,69

5,72

3,94

1,24

2,87

Khối lượng gạo XK
vào Trung Đông
(nghìn tấn)
Tỷ trọng trong tổng
lượng gạo XK của
Việt Nam(%)
Tỷ trọng trong tổng
lượng gạo NK của
Trung Đông (%)
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam cho biết: Ước tính
tháng 3/2009, cả nước xuất khẩu 560.000 tấn gạo, nâng tổng lượng gạo xuất
khẩu quý I lên hơn 1,6 triệu tấn. Như vậy kim ngạch gạo xuất khẩu trong quý

I đạt 727 triệu USD, tăng 57,5% về lượng và 63,1% về giá trị so với cùng kỳ
năm 2008. Theo ông Nguyễn Trí Ngọc - Cục trưởng Cục Trồng trọt (Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), trong năm nay, tổng sản lượng lúa
cả nước có thể đạt 38 triệu tấn thóc, trong đó 9 triệu tấn thóc (tương đương

21


4,5-5 triệu tấn gạo) có thể dùng để xuất khẩu. Trước mắt, vụ đông xuân ở
miền Nam đã đạt khoảng 9,5 triệu tấn thóc.
Theo dự báo của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hiệp quốc
(FAO) đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam trong năm nay: Khủng hoảng tài
chính toàn cầu sẽ ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu gạo của Việt
Nam.
FAO cho rằng trong bối cảnh các nước phải tăng cường dự trữ lương thực
trước những rủi ro từ khủng hoảng, trong năm 2009, Việt Nam có thể xuất
khẩu được 5 triệu tấn gạo.Cũng theo FAO, năm 2009, tuy giá gạo không tăng
đột biến như năm 2008 nhưng vẫn tiếp tục ở mức cao. So với năm 2003, giá
gạo tăng khoảng hai lần do nhu cầu gạo của các nước tăng cao trong khi
nguồn cung không tăng.
Hiện giá phân bón và các vật tư nông nghiệp đã giảm tới 50%, trong khi
giá xuất khẩu không giảm nhiều. Đây quả là tín hiệu tích cực đối với nông
dân và doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam và là cơ hội để bù đắp phần
nào thiệt hại mà nhà nông và doanh nghiệp đã gặp phải trong năm 2008.
Diện tích trồng lúa của Việt Nam hiện là 7,5 triệu ha, sản lượng khoảng
39 triệu tấn. Do vậy, mục tiêu xuất khẩu 4,8 triệu tấn gạo trong năm nay là
hoàn toàn có thể đạt được. Nhưng sản lượng xuất khẩu có khả năng chỉ tăng
vào nửa cuối năm 2009. Thời điểm đó, việc đàm phán hợp đồng với các thị
trường mới, đặc biệt là các nước châu Phi mới được hoàn thành.
Còn theo dự báo của Trung tâm Thông tin Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn, các thị trường lớn, truyền thống của Việt Nam có khả năng sẽ mua
khoảng 50% sản lượng gạo xuất khẩu này.

22


b. cà phê.
Ngoài gao ra, cà phê cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam. Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà
phê Việt Nam trong năm 2009 ước đạt 980 nghìn tấn với giá trung bình
khoảng 1.800 USD/T, tương đương với kim ngạch khoảng 1,764 tỉ USD,
giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về trị giá so với năm 2008. Hiện nay, Việt
Nam có khoảng 520.000 ha cà phê (riêng các tỉnh Tây Nguyên chiếm 90%
diện tích). Năm 2007 Việt Nam xuất khẩu được trên 1,2 triệu tấn cà phê, đạt
kim ngạch xuất khẩu 1,8 tỷ USD, năm 2008 mặc dù chịu ảnh hưởng của suy
thoái kinh tế thế giới, nhưng vẫn xuất khẩu được 954.000 tấn, đạt kim ngạch
1,95 tỷ USD (giảm 22,4% về lượng, nhưng tăng 2,1% về giá trị so với cùng
kỳ năm 2007). Tính trung bình cả năm 2008, giá cà phê xuất khẩu của Việt
Nam đạt 2.044 USD/ tấn, tăng 31% so với năm 2007, trong đó, có lúc lên
đỉnh điểm là 2.240 USD/ tấn. Theo số liệu thống kê, trong tháng 2/2009, Việt
Nam xuất khẩu được 152,7 nghìn tấn cà phê, trị giá 234 triệu USD, tăng
12,31% về lượng và tăng 11,48% về trị giá so với tháng 1/2009. Tính chung 2
tháng đầu năm 2009, xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 289 nghìn tấn, với kim
ngạch 44 triệu USD, tăng 16,62% về lượng, nhưng giảm 4,41% về trị giá so
với cùng kỳ năm 2008.
Xuất khẩu cà phê vào một số thị trường của Việt Nam 2 tháng năm 2009
Thị trường XK
Ai Cập
Ân Độ
Anh

Bồ Đào Nha
Đan Mạch

2 tháng năm 2009
Lượng (Tấn)
Trị giá (USD)
1.012
1.614.550
2.472
3.518.287
8.565
13.101.566
1.038
1.692.008
271
425.884
23


×