Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tác động của chính sách cắt giảm thuế đối với ô tô xe máy khi thực hiện cam kết trong khối ASEAN.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.57 KB, 27 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Sau khi kết thúc chiến tranh lạnh, nền kinh tế thế giới đã chuyển từ đối
đầu sang đối thoại. Từ đó đã dẫn tới hình thành các khu vực kinh tế, các liên
minh kinh tế, trong đó lớn nhất là tổ chức thương mại thế giới là ngôi nhà chung
của thế giới. Các nước khi tham gia vào các khu vực kinh tế, tổ chức kinh tế thì
đều được hưởng những ưu đãi của các nước thành viên dành cho nhau.
Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng quốc tế hoá toàn cầu đó,
năm 1995 Việt Nam gia nhập ASEAN và gia nhập WTO vào năm 2007. Khi
gia nhập vào các tổ chức kinh tế, thương mại thì Việt Nam được hưởng nhiều
ưu đãi từ các quốc gia thành viên khác trong tổ chức ngược lại Việt Nam cũng
phải có những ưu đãi lại cho các quốc gia thành viên khác. Khi gia nhập vào
các tổ chức thương mại thì hàng hoá, vốn và lao động luân chuyển giữa các
quốc gia dễ dàng hơn. Một trong những bước đệm để luân chuyển hàng hoá,
vốn, và lao động là các rào cản thương mại và phi thương mại dần giảm
xuống tiến tới xoá bỏ. Trong rào cản thương mại thì tiêu biểu là thuế nhập
khẩu, gia nhập vào tổ chức kinh tế khu vực, thương mại thế giới thì thuế suất
được cắt giảm theo lộ trình cam kết. Khi thuế suất được cắt giảm thì có nhiều
tác động khác nhau tới chủ thể của nền kinh tế, bao gồm các doanh nghiệp
nhập khẩu, doanh nghiệp lắp ráp sản xuất trong nước, chính phủ, và cuối cùng
là người tiêu dùng.
Là một sinh viên chuyên ngành quản trị kinh doanh quốc tế em xin
chọn đề tài “ tác động của chính sách cắt giảm thuế đối với ô tô xe máy khi
thực hiện cam kết trong khối ASEAN.” Để thấy rõ ảnh hưởng của thuế nhập
khẩu đối với đối với các doanh nghiệp lắp ráp và sản xuất ô tô trong nước.
1


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu : ngành ô tô Việt Nam


Phạm vi nghiên cứu :
- Tác động của thuế nhập khẩu đối với ngành ô tô Việt Nam
- Thời gian nghiên cứu sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN
3. Phương pháp và kết cấu của đề án
Phương pháp sử dụng trong đề án : phân tích, tổng hợp, thống kê và so
sánh ….
Kết cấu của đề án bao gồm 3 chương
Chưong I: Tác động của chính sách cắt giảm thuế đối với ô tô và xe
máy khi thực hiện cam kết trong khối ASEAN
Chương II: Phân tích tác động của chính sách cắt giảm thuế nhập khẩu
ô tô theo cam kết khi Việt Nam gia nhập ASEAN
Chương III: Một số giải pháp tăng cường ảnh hưởng tích cực của chính
sách thuế

2


CHƯƠNG I
TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH CẮT GIẢM THUẾ
ĐỐI VỚI Ô TÔ VÀ XE MÁY KHI THỰC HIỆN CAM KẾT
TRONG KHỐI ASEAN

I. TÁC ĐỘNG TỪ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
1. Các cam kết về thuế quan trong khuôn khổ hội nhập.
a. Đối với ô tô nhập khẩu nguyên chiếc
Theo cam kết tại CEPT/ AFTA các loại xe ô tô chở người 10 chỗ trở lên
và xe tải đều đã được cắt giảm xuống mức 5% vào năm 2006. Riêng đối với
các loại xe dưới 9 chỗ sẽ được căt giảm xuống múc 0 % vào năm 2018.
Xe thiết kế đặc biệt nhập khẩu nguyên chiếc từ các nước thuộc khối
ASEAN sẽ được hưởng thuế suất 5%, thay cho mức 10% cũ. Dòng xe du lịch

loại dưới 9 chỗ ngồi sẽ có mức thuế 60-70% trong những năm tiếp từ 2011
đến 2013, thay cho mức 83% hiện hành.
Danh mục hàng hóa và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của
Việt Nam để thực hiện Hiệp định CEPT/AFTA giai đoạn 2008-2013 vừa được
Bộ Tài chính ban hành, các mặt hàng ôtô, xe máy đồng loạt được điều chỉnh
thuế suất.
Theo đó, các loại xe thiết kế đặc biệt để đi trên tuyết, xe hạng golf, kể
cả xe chở người có khoang chứa hành lý và ô tô đua đều được áp dụng thuế
suất 5%, thay cho mức 10% hiện hành.
Các dòng xe du lịch loại dưới 9 chỗ ngồi có dung tích xi-lanh từ 1,0 trở
lên vẫn áp dụng thuế suất cũ 83% như đối với các nước nằm ngoài khối
ASEAN. Thuế suất này được giữ nguyên trong 3 năm 2008, 2009 và 2010.

3


Đến năm 2011-2012 thuế được giảm xuống còn 70% và đến năm 2013 chỉ
còn 60%.
b. Đối với linh kiện và phụ tùng ô tô
Đối với các loại linh kiện phụ tùng ô tô nhập khẩu từ các nước ASEAN,
mức thuế mới áp dụng chung cho giai đoạn từ 2008 đến 2013 là 5% và thấp
hơn khoảng 5-10% so với các nước nằm ngoài khối. Các loại xe máy phân
khối lớn tạm thời vẫn giữ thuế suất 90% hiện hành. Mức thuế này sẽ được
giảm xuống 75% vào 2012 và còn 60% vào năm 2013.
Đối với CEPT/AFTA mức cam kết là 5% tại thời điểm 1/1/2006 và cắt
giảm xuống 0% vào năm 2015. Đối với ASEAN –Trung Quốc mức cắt giảm
còn 0% vào năm 2018.
2. Chính sách thuế của chính phủ đối với mặt hàng ô tô
Cùng với lộ trình gia nhập thì chính phủ Việt Nam phải thực hiện theo
cam kết lộ trình giảm thuế. Tuy nhiên tuỳ theo tình hình của nền kinh tế mà

chính phủ cũng có những điều chỉnh cho phù hợp. Điển hình năm 2008 được
coi là năm đầy biến động đối với mặt hàng ô tô :
Sau 3 lần điều chỉnh giảm vào năm ngoái, từ 90% xuống còn 60%,
đem tin vui đến cho thị trường ô tô trong nước, thì vào tháng 3 và tháng
4/2008, thuế nhập khẩu ô tô mới nguyên chiếc đã tăng trở lại, từ 60% lên
70%, rồi 83%. Lý do được đưa ra là nhằm giảm nhập siêu và tình trạng ùn tắc
giao thông tại các thành phố lớn.
Với ô tô cũ nhập khẩu, ngày 6/5/2008, Thủ tướng Chính phủ chính thức
đồng ý với yêu cầu điều cầu điều chủnh thuế của bộ tài chính như sau:

4


Bảng 1: Biểu thuế nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc
Mặt hàng

Thuế suất hiện hành
(USD/chiếc)

Thuế mới(USD/chiếc)

Xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống, kể cả lái xe, có dung tích xi-lanh động cơ:
Dưới 1,0

2.700

3.000

Từ 1,0 đến 1,5


6.300

7.000

Từ 1,5 đến 2,0

8.500

9.000

Từ 2,0 đến 2,5

12.000

13.500

từ 2,5 đến 3,0

12.000

15.000

Từ 3,0 đến 4,0

16.200

18.000

Từ 4,0 đến 5,0


26.400

26.400

Trên 5,0

30.000

30.000

Xe từ 6 đến 9 chỗ, kể cả lái xe, có dung tích xi-lanh động cơ:
Từ 2,0 trở xuống

7.200

8.100

Trên 2,0 đến 3,0

11.200

12.600

Trên 3,0 đến 4,0

14.400

16.000

Trên 4,0


24.000

24.000

5


Qua bảng trên ta thấy dòng xe từ 2.5 đến 3,0 có mức tăng cao nhất
Cũng trong năm 2008, Bộ Tài chính đã 3 lần ra quyết định tăng thuế
nhập khẩu phụ tùng, linh phụ kiện ô tô:
bảng 2: Bảng tăng thuế nhập khẩu linh phụ kiện ô tô
thời gian

Tháng 4

Tháng 5

Tháng 6

Mức tăng giảm

3 – 5%

5 -10%

15%

Theo bảng trên ta thấy chính sách thuế nhập khẩu linh phụ kiện ô tô
không ổn định; trong vòng 3 tháng liền nhau thì liên tục tăng thuế và mức

tăng khá lớn.
Thị trường ô tô chưa hết sốc trước việc tăng ồ ạt các loại thuế nhập
khẩu, thì ngày 29/7, Chính phủ lại quyết định tăng lệ phí trước bạ đối với ô tô
dưới 10 chỗ ngồi lên 10-15%, thay cho mức 5% trước đó. Từ ngày 25/8, tất cả
64 tỉnh thành trong cả nước tạm thời áp dụng mức phí trước bạ chung là 10%,
cho đến khi UBND các tỉnh/thành căn cứ vào tình hình thực tế của địa
phương để ban hành mức phí mới phù hợp, trong phạm vi 10-15%.
3 Tình hình kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian gần đây
Trong thời gian gần kinh tế của chúng ta được coi là nền kinh tế mới
nổi tốc độ tăng trưởng kinh tế của chúng ta cao và khá ổn định kể cả khi cuộc
khủng hoảng kinh tế đang diễn ra trên thế giới cụ thể là:

6


Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
9 Tháng
Năm

2005

2006

2007

2008

đầu năm
2009


Tốc độ
tăng
trưởng

8.4

8.3

8.48

6.23

4.59

kinh tế %
Qua tốc độ tăng trưởng kinh tế tên chúng ta thấy nền kinh tế của chúng
ta không bị ảnh hưởng nhiều của cuộc khủng hoảng kinh tế. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và khá ổn định trong thời gian qua giúp thu nhập của
người dân tăng lên và do đó đời sống của người dân cũng tăng, nhu cầu của
người dân đối với những hàng hoá xa xỉ trong đó có ô tô tăng lên. Điều này
được thể hiện, trong thời gian gần đây khi người dân có nhu cầu mua xe thì
phải chớ tầm 3 đến 4 tháng mới có xe như thời điểm cuối năm 2008 hay thời
điểm hiện tại tháng 9/2009 thì phải đầu năm sau mới có xe.
II. TÌNH HUỐNG “ TỐI HẬU THƯ CỦA TOYOTA”
1. Tình huống tối hậu thư của TOYOTA VIỆT NAM
Các nhà sản xuất sẽ chuyển sang nhập khẩu nếu Chính phủ không đưa
ra được chính sách nhất quán và khuyến khích hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô
Việt Nam phát triển. Đó là thông điệp mà Toyota Việt Nam (TMV) - liên
doanh sản xuất ô tô lớn nhất tại Việt Nam - đưa ra.


7


Tổng giám đốc TMV, ông Akito Tachibana vừa có một văn bản gửi lên
Quốc hội và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng các bộ ngành chức năng bày
tỏ quan điểm của mình về chính sách phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt
Nam trong thời gian tới.
Sản phẩm nhập khẩu nguêyn chhiếc đe dạo sản phẩm trong nước
Vị Tổng giám đốc này lo lắng cho số phận của các liên doanh snả xuất
ô tô tong nước trước sức ép cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam thực hiện các cam kết CEPT về mở cửa thị trường ô
tô trong nước.
Theo cam kết CEPT, thuế nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc giảm dần
xuống 60% vào năm 2013 và xuống 0% vào năm 2018, đồng nghĩa với việc
giá xe nhập khẩu sẽ giảm dần và đi ngang từ năm 2018. Như vậy sản xuất ô tô
trong nước sẽ phải cạnh tranh hết sức quyết liệt với xe nhập khẩu nguyên
chiếc.
Phân tích từ lộ trình giảm thuế nhập khẩu ô tô mà Việt Nam đã cam kết,
ông Akito Tachibana cho rằng, sẽ có 2 khả năng xảy ra đối với sản xuất lắp
ráp trong nước.
Một là, nếu Nhà nước có chính sách ưu tiên cho dòng xe chiến lược,
dòng xe này sẽ tăng nhanh doanh số bán, đủ để mở rộng đầu tư phát triển
công nghiệp phụ trợ, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá (NĐH), hạ giá thành sản xuất
và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Nhờ đó, đến năm 2018, dòng
xe chiến lược sản xuất lắp ráp trong nước có thể cạnh tranh được với xe
nguyên chiếc nhập khẩu; giúp ngành công nghiệp phụ trợ có thể tồn tại và
phát triển sau khi thị trường mở cửa hoàn toàn.

8



Khả năng thứ 2 sẽ xảy ra khi chính sách của Nhà nước không xác định
rõ ưu tiên cho dòng xe chiến lược. Thị trường Việt Nam có quy mô nhỏ nhưng
có rất nhiều dòng xe, sản lượng và doanh số của từng dòng xe sẽ rất nhỏ và
phân tán, kết quả là không dòng xe nào đạt được số lượng đủ lớn cho việc
NĐH để hạ giá thành. Hệ quả là, trong thời gian ngắn từ nay đến 2018, các
dòng xe sản xuất trong nước không cạnh tranh nổi với xe nhập khẩu nguyên
chiếc và Việt Nam không những không phát triển được công nghiệp ô tô và
công nghiệp phụ trợ mà còn gia tăng thâm hụt thương mại (theo dự tính của
Bộ Công Thương, kim ngạch nhập khẩu ô tô năm 2025 có thể lên tới 12 tỷ
USD).
Là nhà sản xuất, đương nhiên TMV muốn Chính phủ có chính sách ưu
tiên cho dòng xe chiến lược
Đâu là “xe chiến lược”?

(Ảnh: Việt Hưng)

9


TMV cho rằng dòng xe 6 - 9 chỗ là dòng xe chiến lược tại Việt Nam.
Ngoài các lý do dễ thấy như đây là dòng xe phù hợp cho gia đình; ít bị cạnh
tranh hơn so với xe 1 - 5 chỗ (hiện rất nhiều nước đã tập trung sản xuất xe 1 5 chỗ hoặc bán tải, chỉ riêng Indonesia tập trung cho dòng xe 6 - 9 chỗ); đã và
đang được ưu đãi về thuế (mức thuế thường thấp hơn so với dòng xe 1 - 5
chỗ)..., còn một lý do sâu xa hơn. Hiện nay, sản phẩm chủ lực chiếm tỷ trọng
cao nhất (65%) của TMV là dòng sản phẩm 6 - 9 chỗ: Innova. Đây cũng là
sản phẩm bán chạy nhất tại thị trường Việt Nam trong thời gian qua (15.000
xe/năm).
Đưa ra 3 yếu tố cơ bản để phát triển dòng xe chiến lược (phù hợp với
thị hiếu của khách hàng, có chính sách khuyến khích ổn định, lâu dài và có

công nghiệp phụ trợ đủ mạnh) TMV cũng ngầm chứng minh rằng, dòng xe
như Innova là phù hợp nhất để Chính phủ ưu tiên phát triển. Được biết, hiện
Innova có tỉ lệ NĐH cao nhất, đạt 37%. Nhà sản xuất này cũng đã xây dựng
kế hoạch 4 bước để nâng cao tỉ lệ NĐH Innova, đạt 50 - 60% vào năm 2018
(với số lượng bán ra tương ứng khoảng 50.000 xe/năm), đủ sức cạnh tranh với
xe nhập khẩu.
2. Vì sao TOYOTA Việt Nam lại đưa ra tối hậu thư như vậy ?
Theo tôi được biết và tìm hiểu trong thời gian qua thì chính sách của
chính phủ đối với ngành công nghiệp ô tô của Việt Nam tuy có nhiều ưu đãi
nhưng không ổn định và nhất quán đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập
ASEAN thì phải thực hiện các cam kết gia nhập (như phần I đã nêu) điều này
càng gây khó khăn hơn cho các doanh nghiệp trong nước. Tôi cho rằng, thời
gian qua, những thay đổi về thuế trước bạ và thuế tiêu thụ đặc biệt đã khiến
cho dòng xe 6 - 9 chỗ không còn được ưu đãi nữa. Hiện doanh số bán của

10


dòng xe 6 - 9 chỗ bị sụt giảm nghiêm trọng, các kế hoạch đầu tư NĐH buộc
phải hoãn lại.
Những thay đổi thường xuyên trong chính sách liên quan đến sản xuất
kinh doanh ô tô trong thời gian qua đã khiến các doanh nghiệp sản xuất ô tô
không những gặp khó khăn trong triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh
trong ngắn hạn, mà còn khó khăn hơn trong việc hoạch định chiến lược và kế
hoạch đầu tư kinh doanh dài hạn, nhất là kế hoạch NĐH cho dòng xe chiến
lược của mình.

11



CHƯƠNG II
PHÂN TÍCH CÁC TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH CẮT GIẢM
THUẾ NHẬP KHẨU Ô TÔ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP ASEAN

I.TÁC ĐỘNG CỦA THẾU NHẬP KHẨU
1.Tác động của thuế nhập khẩu
Thuế quan có là thuế đầu tiên dánh vao hàng hóa nhập khẩu sau đó là
thuế tiêu thù đặc biệt (nếu có ), thuế VAT thuế trước bạ.
Do đó thuế nhập khẩu có tác động trực tiếp tới giá cả của hàng hoá, khi
giá cả của hàng hoá tăng lên thì dẫn tới người tiêu dùng phải chi trả nhiều hơn
để tiêu dùng loại hàng hoá đóvà nhu cầu của hàng hoá nhập khẩu giảm xuống.
Đặc biệt là đối với mặt hàng ô tô thì giá chưa tính thuế của hàng hoá đã là lớn
chỉ cần thuế nhập khẩu tăng lên 1 phần nhỏ thì giá của hàng hoá tăng lên rất
nhiều (do tác động cuả cơ chế tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt dánh chồng lên
thuế nhập khẩu, thuế VAT đánh chồng lên thuế tiêu thụ đác biệt, thuế trước bạ
đánh chồng lên thuế VAT)
VD: Trước đợt tăng thuế tháng 4 năm 2008 vừa qua thì thị trường ô tô Việt
Nam hoat động rất sôi động người tiêu dùng muốn mua xe phải chờ 3 đến 4
tháng mới có xe thậm chí còn phải “chạy ” tiền cho nhân viên kinh doanh của
các đại lý cung cấp xe mới mua được xe sớm ( kể cả xe nội và xe ngoại ). Khi
việc tăng thuế chuẩn bị được áp dụng thì dồng loạt các salon xe có động thái
tăng giá niêm yết dường như được biết từ trước, chỉ sau 1 ngày thông tin về
việc Bộ tài chính tăng thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc lên 10%, Euro Auto
(nhà nhập khẩu và phân phối sản phẩm BMW tại Việt Nam) cho biết họ sẽ
tăng giá trung bình từ 10-15% cho tất cả các sản phẩm đang bán tại Việt Nam.
12


Để giải thích cho mức giá mới tăng quá cao so với mức tăng thực do thuế
nhập khẩu, Euro Auto đã đưa ra một số lý do thị trường: sụt giảm thị trường

chứng khoán, vay ngân hàng khó, đồng euro ngày càng leo thang… Euro
Auto còn cho biết thêm: những khách hàng đã đặt cọc và hoàn tất thủ tục mua
xe trước khi thuế mới có hiệu lực thì giá vẫn được giữ nguyên.
Sau khi Euro Auto đưa ra giá tăng dự kiến cao “ngất” thì Hyundai Việt
Nam (HMV) - nhà phân phối sản phẩm Hyundai tại Việt Nam chỉ đưa ra một
mức tăng khiêm tốn từ 4 - 6%. Đây là một mức tăng khá hợp lý, bởi nếu tính
toán chi tiết, với mức thuế tăng từ 60% lên 70%, giá thực chiếc xe tăng
khoảng 6,25%. Tuy vậy với mức tăng 4 - 6%, một chiếc Hyundai Santa Fe sẽ
tăng trung bình 2.000 USD, một con số không nhỏ.
Ngoài 2 nhà nhập khẩu phân phối, những salon nhỏ lẻ hầu như rất bối
rối trước quyết định bất ngờ của Bộ tài chính. Hầu hết những salon nhập hàng
theo hình thức đặt cọc tiền và ký hợp đồng, và sẽ thật “trớ trêu” cho những
hợp đồng ký trước khi có thông tin tăng thuế mà xe thì không thể về tới Việt
Nam trước khi mức thuế mới chính thức áp dụng. Một số salon nhập cho biết:
“thuế tăng thì chúng tôi sẽ tăng giá theo thuế, thuận mua vừa bán, có đi đâu
mà thiệt.”… như vậy người chịu thiệt ở đây không ngoài ai khác mà chính là
người tiêu dùng!
Với mức thuế nhập tăng lên 70%, có thể trong những tháng tới, sẽ
không còn “bão” xe nhập như 2 tháng đầu năm 2008 nữa mà thị trường xe
nhập sẽ “hạ nhiệt”, còn xe lắp ráp trong nước sẽ có doanh số “khá khẩm” hơn.
Khi nhu cầu tiêu dùng hàng hoá ngoại nhập giảm xuống mà nhu cầu
tiêu dùng hàng hoá không giảm đi thì nhu cầu đói với hàng hoá nội địa tăng
lên. Điều này tạo đièu kiện cho các doanh nghiệp tong nước mở rộng sản xuất

13


tạo công ăn việc làm, tăng thu thêm cho nguồn ngân sách nhà nước tăng
cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
=>Có sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng nội địa (vì phải mua

hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất tong nước (vì nhận được mức
gia cao hơn).
Thuế quan nhập khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước
từ thuế. Thuế nhập khẩu cũng đóng góp tích cực vào việc góp phần làm giảm
tham hụt cán cân thương mại do giá của hàng hoá nhập ngoại cao lên làm nhu
cầu tiêu dùng hàng ngoại giảm xuống .
2. Các biện pháp thực thi chính sách thuế của chính phủ
Mục tiêu của thuế nhập khẩu là tăng thu ngân sách cho nhà nước và
bảo hộ th}ế quan những trong ngành mà!chính phủ muốn pháp triển. Đối với
ngành ô t 䃴 của Việt Nam trong ngày 䃴 ầu mới thành lập cũng giống như
ngành"xe má 䃴 trướcȠȠ̑ây nhà nước đánh thuế cao đối với䃴
xe nhập khẩu
nguyên chiếc và linh phụ kiên nhằm mục đíchȠbuộc các nhà sản xuất trong n
䃴 ớc nâng cao tỷ lệ nội địa 䃴䃴oá, tăng tính(cạch tranh của nhà sản xuất trong
nước. Cụ thể: thu᾿ 䃴 hập khẩu ô tô nguyên chiếc trong thời gian qua tương
đối cao thông thường ở 䃴 ức cao䃴
100%, 90% ,83%, hi 䃴 n nay đang có xu
hướng tăng lên 91%. Thuế nhập khẩu linh phụ kiện trong thời gian qua cũng
tương đối cao dao động trong khoảng 30%. Chính điều này làm cho giá của ô
tô nhập khẩu cao hơn rát nhiều giá của một chiếc xe đó tại thị trường nước
ngoài.
3.Những kết quả đạt được
Với chính sách thuế như trên trong thời gian qua ngành ô tô của Việt
Nam đã đạt được những kết quả sau :

14


Giai đoạn 1990 – 2003: Doanh nghiệp ô tô nhận được sụ bảo hộ ở mức
cao của nhà nước thông qua chính sách giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, áp dụng

hàng rào thuế quan ở mức cao đối với xe nhập khẩu và chính sách cấm nhập
hẩu ô tô dưới 15 chỗ đứng trên thị trường nội địa, sản lượng của xe lắp ráp
trong nước liên tục tăng qua các năm .
Giai đoạn từ 2003 – 2007: giai đoạn này Việt Nam đang tăng tốc quá
trình đàm phán gia nhập WTO và phải ban hành các chính sách cho phù hợp
với yêu cấu của WTO. Hàng loạt chính sách ưu đãi mang tính phân biệt đối
xử trái với nguyên tắc WTO trong ngành này được dỡ bỏ dần. Doanh nghiệp
ô tô trong nước gặp khá nhiều khó khăn
Giai đoạn 2007 đến nay : Đây là giai đoạn Việt Nam đã trở thành thành
viên của WTO. Cũng trong giai đoạn này, do những bién động về kinh tế,
chính sấch đối với ngnàh ô tô (đặc biệt là chính sách về thuế) thường xuyên
thay đổi và khó dự đoán. Tuy nhiên trong thời gian qua đựoc bảo hộ nhiều
như vậy nhưng mục tiêu của chính phủ vẫn không đạt được như mong muốn:
Hiện nay Việt Nam có 14 liên doanh ô tô nhưng nó chỉ mới dừng lại ở việc
lắp ô tô hầu hêt các liên phụ kiện đều nhập khẩu
Việt Nam vẫn chưa hề có một ngành công nghiệp ô tô đúng nghĩa!
Kết quả kiểm tra của cơ quan chức năng cho thấy, dây chuyền sản xuất lắp
ráp của các liên doanh vẫn chủ yếu là thủ công; tỷ lệ NĐH hóa đạt rất thấp,
dưới 10%. Không những thế, giá ô tô sản xuất tại Việt Nam lại đứng ở hàng
cao nhất thế giới!
Sau thời gian bảo hộ dài không đạt mục đích như trông đợi, một vài
năm trở lại đây, chính sách đối với ô tô đã có sự thay đổi. Sự thay đổi liên tục
của chính sách thuế đối với mặt hàng này đúng là đã gây ra nhiều khó khăn

15


cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu ô tô. Nhưng quả thực giá xe ô
tô tại Việt Nam đã dần giảm xuống!
tình hình tiêu thụ xe năm thời gian qua

Bảng 4: Một vài số liệu về ngành công nghiệp ô tô Việt Nam
Năm

Năm

Năm

2006

2007

2008

53 423

110 791

145 586

114 974

40 897

80392

110 186

80 374

mới và cũ )


12 526

30 399

35 400

34 600

Xe mới

3 314

14 641

Xe cũ

9 202

15 758

Tổng lượng xe tiêu thụ

Năm 2009

Lượng tiêu thụ lắp ráp
trong nước
Lượng nhập khẩu (cả xe

II ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH CẮT GIẢM

THUẾ NHẬP KHẨU Ô TÔ KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO
1.Tác động tích cực
Khi gia nhập vào tổ chức thương mại tự do thế giới theo lộ trình đối với
nhiều mặt hàng trong đó có mặt hàng ô tô như trên (trong bảng 1) thì giá cả
của hàng hoá giảm xuống cụ thể như sau :
VD: giá của một chiếc xe mới tại thị trường Mỹ có giá là 16 000$ khi
nhập chiếc xe đó về thị trường Việt Nam thuế nhhập khẩu tại thời điểm gia
nhập là 90%, tại thời điẻm cuối khi gia nhập theo lộ trình là 60% (xe trên

16


2500cc). thuế tiêu thụ dắc biệt theo thời điểm hiện tại là 50% và thuế VAT
5%, huế trước bạ là 6%.
Giá của một chiếc xe đến tay người tiêu dùng là :
Giá của xe = giá nhập khẩu + thuế nhập khẩu + thuế TTĐB + thuế VAT
+thuế trước bạ:
Bảng 5: tính giá của ô tô
ĐVT USD
Chỉ
tiêu

Cách tính

thời điểm gia nhập

16 000

16 000


Giá NK*

16000*90%=

thuế suât

14400

Giá trị xe *

(16000+14400)50

thuế suất

%

thuế TTĐB

=15200

thời điẻm cuối cùng khi
gia nhập

Giá
nhập

16 000

khẩu
thuế

nhập
khẩu
thuế
TTĐB

Thuế
VAT

Giá trị của
xe* thuế
suất VAT

16000*60%= 9600

(16000+9600)* 50%=12800

(16000+14400+15

(16000+9600+12800)*5%

200)* 5%= 2280

= 1920

thuế

Giá trị của

(16000+14400+15


(16000+9600+12800+1920*

trước

xe * thuế

200+

6% =2419.2

bạ

suất

2280)* 6%
17


=2872.8
Giá
phải
trả của
NTD

Giá + tất cả

1600 + 14400 +

các loại


15200 + 2280 +

thuế trên

2872.8 = 50752.8

16000 +9600+12800+1920+
2419.2 = 42739.2

Như vậy khi kết thúc lộ tình giảm thuế thì giá của cùng một chiếc xe ô
tô giảm đi là = 50 752.8- 42739.2=8 013.7$( đối với cùng một chiếc xe có giá
tại thị trường nước ngoài là 16000$) như vậy khi giẩm thuế thì người tiêu
dùng sẽ phải chi trả ít hơn cho cùng một chiếc xe.
để thấy được tác động của việc giảm thuế ta có đồ thị sau

Qua đồ thị trên ta thấy khi thuế giảm thì giá giảm từ G xuống H làm
cho nhu cầu của ngưòi tiêu dùng tăng lên từ Qd’ đến Qd lượng nhập khẩu
tăng lên một lượng là (Qd-Qd’) + (Qs’-Qs) lượng nhập khẩu tăng lên lượng
xe nhập khẩu về nhiều hơn cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng tăng lên. Sự
18


cạnh tranh tăng lên giữa người nhà sản xuất lắp ráp trong nước và nhà nhập
khẩu không chỉ về giá mà còn về các dịch vụ khác đi kèm làm tăng lợi ích cho
ngưòi tiêu dùng thặng dư tiêu dùng tăng lên bằng diện tích của hình thang
GEDH. Mặt khác lượng ô tô tiêu thụ từ nhập khẩu tăng lên làm tăng doanh
thu cho những nhà nhập khẩu. Đồng thời phần mất không của xã hội giảm
xuống là diện tích là ABF và CDE.
2.Tác động tiêu cực .
Qua đồ thị trên ta cũng thấy tác động tiêu cực tù việc giảm thuế theo lộ

trình trên :
Khi thuế giảm theo lộ trình thì nhu cầu tiêu thụ ô tô tăng lên nhưng do
thuế suất giảm xuống nhà nước sẽ mất một khoản doanh thu từ thuế là diện
tích của hình thang BCEF. Lượng nhập ô tô tăng lên tình trạng nhập siêu ngày
càng tăng lên và dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân thương mại ngày càng gia
tăng. Tình trạng nhập siêu ngày càng tăng ảnh hưởng tới cung và cầu về ngoại
tệ do thiếu ngoại tệ để nhập khẩu ô tô ảnh hưởng tới tỷ giá và ảnh hưởng tới
sụ ổn định của nền kinh tế. Nhà sản xuất trong nước giảm đi phần thặng dư
sản xuất là AHGF.
Hiện nay VAMA có 16 thành viên lắp ráp và sản xuất ô tô trong nước
đều là những chi nhánh của những tập đoàn ô tô lớn trên thế giới khi thuế su
ất giảm xuống thì giá của xe nhập khẩu giảm xuống canh tranh giữa các
došnh nghiệp sản xuất và lắp ráp trong nước vốn đã gay gắt thì nay càng trở
nên khốc liệt hơn và cạnh tranh về giá ngày càng căng thẳng hơn.Theo như
phân tích ủa tổng giám đốc của Toyota Việt Nam “Thị trường Việt Nam có
quy mô nhỏ nhưng có rất nhiều dòng xe, sản lượng và doanh số của từng
dòng xe sẽ rất nhỏ và phân tán, kết quả là không dòng xe nào đạt được số
lượng đủ lớn cho việc NĐH để hạ giá thành. Hệ quả là, trong thời gian ngắn
19


từ nay đến 2018, các dòng xe sản xuất trong nước không cạnh tranh nổi với
xe nhập khẩu nguyên chiếc và Việt Nam không những không phát triển được
công nghiệp ô tô và công nghiệp phụ trợ mà còn gia tăng thâm hụt thương
mại (theo dự tính của Bộ Công Thương, kim ngạch nhập khẩu ô tô năm 2025
có thể lên tới 12 tỷ USD)”.
Do việc không cạnh tranh được về giá dẫn đến mất thị phần các doanh
nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong nước nên nhiều doanh nghiệp có xu
hướng chuyển sang nhập khẩu ô tô nguyên chiếc trong đó đứng đầu là Toyota
Việt Nam đã có tối hậu thư gửi lên các chính phủ và thủ tướng yêu cầu có

những ưu tiên đối với ngành công nghiệp ô tô trong nước .

20


CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC
CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ
I. THỰC TRẠNG NGÀNH MỤC TIÊU CỦA NGÀNH Ô TÔ
VIỆT NAM
1. Thực trạng ngành ô tô Việt Nam
Hiện nay ngành ô tô của Việt Nam đến nay đã có 17 doanh nghiệp
(DN) có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép đầu tư, trong đó có
12 DN đang hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1 tỷ USD, tổng
năng lực sản xuất đạt khoảng 150.0000 xe/năm. Tính đến hết năm 2006, các
DN này đã bán được tổng cộng khoảng 270.000 chiếc ô tô, đóng góp cho
ngân sách nhà nước gần 1,5 tỷ USD.
Trong khi đó, Việt Nam cũng đã có 47 DN trong nước đầu tư vào lĩnh
vực sản xuất, lắp ráp ô tô, với các đơn vị như Tổng công ty Công nghiệp ô tô
Việt Nam, Tổng công ty Máy động lực và máy nông nghiệp, Tập đoàn Than Khoáng sản hiện cũng hợp tác với Nga lắp ráp các loại xe tải hạng nặng như
Kamaz, KraZ…
Theo quy định, khi xin cấp giấy đầu tư sản xuất lắp ráp ô tô tại Việt
Nam, các DN phải cam kết đạt tỷ lệ nội địa hóa 20-40% sau thời gian 5-10
năm. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, không DN nào thực hiện đúng
cam kết đó. Hầu hết các liên doanh sản xuất ô tô tại Việt Nam là rất thấp, các
doanh nghiệp này chỉ đạt được tỷ lệ nội địa hoá là 5 đến 10% không đạt kế
hoạch đề ra.
Bản thân nội tại của các doanh nghiệp là như vậy mặt khác chính sách
của chính phủ đặc biệt lag chính sách thuế không ổn định nhất quán gây khó
21



khăn cho doanh nghiệp trong viêc xây dựng kế hoạch kinh doanh. VD khi
toyota Việt Nam vừa lắp đặt dây chuyền sản xuất mới thì nhà nước lại tăng
thuế tiêu thụ đặc biệt khiến nhu cầu của người daqan giảm xuống và doanh
nghiệp này tạm ngưng dây chuyền sản xuất này.
2. Mục tieu của ngành ô tô Việt Nam
Trong thời gian qua chúng ta có thể thấy chính phủ rất ưu tiên cho
ngành công nghiệp ô tô mong muốn của chính phủ Việt Nam là chúng ta sẽ
có ngành công nghiệp ô tô hoàn chỉnh vì ngành ô tô theo dánh giá đó là một
ngành kinh tế quan trọng phục vụ tốt cho quá trình hiện đại hoá công nghiệp
hoá đất nước vào năm 2020. Vì vậy mục tiêu lâu dài của ngành công nghiệp ô
tô trong là phải nâng cao được tỷ lệ nội địa hoá từ 70 đến 80% vào năm 2020,
ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến của các nước tên thế giới dể bắt kịp với
xu hướng phát triển của thế giới: Để giá tyhành của sản phẩm ô tô giảm
xuống nhiều người dân có thê tiêu dùng được sản phẩm này (hiện tại là 10 xe
trên 1000 đầu dân), ngoài ra chúng ta còn vươn tới thị trường thế giới
Mục tiêu trước mắt: Thị trường ô tô trong thời gian qua luôn biến động
khó dự đoán khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao thì khách hàng kho
mua xe thậm chí phải chờ 3 đến 4 tháng sau mới có xe. Vì vậy trong thời gian
tới ngành công nghiệp ô tô phải từng bước cải thiện nâng cao tỷ lệ nội địa hoá
cụ thể trong năm 2010 ty lệ nội địa hoá cần đạt được là đối với loại xe phổ
thông là 60% trong đó động cơ là 50% hộp số là 90%. với xe chuyên dụng là
60%với xe cao cấp xe du lịch là từ 40 dến 45% và xe cao cấp là từ 35 đến
40% . Từ đó Hạn chế nhập khẩu nguyên liệu linh phụ kiện để giảm chi phí
đầu vào từ đó hạ giá thành sản phẩm giúp sản phẩm của ngành công nghiệp ô
tô trong nước có thể cạnh tranh được với ô tô nhập khẩu phục vụ tốt nhu cầu

22



cua khách hàng không để tình trạng khách hàng có nhu cầu phải chờ xe như
trong thời gian vừa qua.
II. CÁC BIỆN PHÁP CỦA CHÍNH PHỦ
Trong thời gian qua chúng ta thấy chính phủ đã có những chính sách
hết suác ưu đãi đối với ngành công nghiệp ô tô nhưng giá ô tô sản xuất và lắp
ráp trong nước của chúng ta vẫn cao nhất thế giới. Vì vậy trong thời gian tới
để theo đuổi mục tiêu nội địa hoá ngnàh công nghiệp ô tô chúng ta cần học
hỏi kinh nghiệm đi trước của các nước trong khu vực như:
Chúng ta cần phải xác định được dong xe chiến lược, dòng xe chủ lực
mà chúng ta có điều kiện và thế mạnh để dáp ứng nhu câu tiêu dùng của
người dân trong nước như Thái Lan xác định được pick-up là dòng xe chiến
lược rất đúng đắn.
Khi đã có dòng xe chiến lược thì chúng ta cần phải có chính sách định
hướng phát triển ổn định ngay như trong việc thu hút nhà đàu tư nước ngoài
trong lĩnh vực nay cần phải cóa chính sánh và biện pháp rõ ràng. Giống như ở
Trung Quốc, họ qui định, chỉ cho các nhà đầu tư nước ngoài vào 10-15 năm
thôi, sau đó, buộc phải chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp của
Trung Quốc. Mấy năm gần đây, công nghiệp ôtô của họ đã phát triển rất
nhanh. Họ xây dựng một chiến lược phát triển rõ ràng và họ kiên trì bám theo
chiến lược đó.
Khi gia nhập vào khối ASEAN thì chúng ta phải cắt giảm thuế nhập
khẩu ô tô điều này sẽ làm cho nhà nước thất thu ngân sách và nhà nước khong
thể bảo hộ cho nghành ô tô trong nước. Để tránh phần thất thu ngân sách thì
chúng ta có thể tăng thuế tiêu thụ đặc biệt lên điều chỉnh ngay đồng thời ban
hành ngay biểu phí đăng ký ôtô dưới 9 chỗ ngồi, ở bất kỳ địa phương nào,

23



tránh tình trạng hạn chế tại các thành phố lớn nhưng lại dồn về các tỉnh. Khi
đó, nhu cầu ôtô trong nước, ngoài nước đều đứng lại cả.
Một trong những nguyên nhân của việc chính phủ đánh thuế nhập khẩu
cao là cơ sở hạ tầng của chúng ta không dáp ứng kịp tốc đọ phát triển của nền
kinh tế hay gây ùn tắc giao thông. Bây giờ chúng ta giảm thuế nhập khẩu ô tô
xuống thì chi phí để mua một chiếc xe thì không lớn nhưng chi phí để chiếc
xe đó lăn bánh thì người tiêu dùng phải bỏ ra những chi phí như lộ phí, tiền
cầu đường, phí bảo vệ môi trường và các chi phí khác để khuyến khích tư
nhân đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng .
III. CÁC BIỆN PHÁP CỦA NHÀ SẢN XUẤT TRONG NƯỚC
Hầu hết các liên doanh ô tô trong nước đều là một chi nhánh của tập
đoàn đa quốc gia trên thế giới thay vì nhập khẩu các linh phụ kiện từ các chi
nhánh khác của tập đoàn trên thế giới hay từ các nhà cung cấp phụ kiện trên
thế giới thì các liên doanh của Việt Nam có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu của tập đoàn. Dựa vào lợi thế của Việt Nam, chúng ta cũng có lợi thế là
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú để phát triển công nghiệp luyện kim,
cung cấp vật liệu chất dẻo cho sản xuất ô-tô; nguồn lao động trẻ dồi dào, có
tay nghề cao và sáng tạo trong tiếp thụ công nghệ mới; đất nước có chế độ
chính trị ổn định, số dân đông, nền kinh tế phát triển liên tục trong nhiều năm.
Để trở thành một nhà cung cấp linh kiện ô tô lớn của quan trọng của tập đoàn.
Về dòng xe chiến lược thì mỗi doanh nghiệp phải tự xác định trước đã,
như việc sẽ định hướng vào phân khúc nào. Ví dụ, họ hướng tới nông thôn,
sau này, sẽ có hàng vạn xe công nông cần thay thế, đường sá chưa phát triển,
sản xuất còn mang tính gia đình thì dòng xe tải nhỏ, đa dụng có thể là chiến
lược.

24


Còn với xe du lịch, xe con, họ sẽ phải tính đến nhằm đối tượng nào,

phổ biến hay thu nhập cao. Đó là việc của từng doanh nghiệp
Doanh nghiệp cũng cần đầu tu vào phát tiên cơ sở vật chất kỹ thuật
xây dựng trung tâm nghiên cứu để cho ra đời những sản phẩm mới đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng chiém lĩnh được thị trường. ngoài ra ô tô cũng là
một ngành khó và đòi hỏi nhiều vốn ngoài việc huy động vốn theo các kênh
truyền thống như thông qua việc huy động vốn từ công ty, tập đoàn mẹ, vay
tiền ngân hàng . Thì doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách rộng rãi từ
nhiều nhà đầu tư khác thông qua thị trường tài chính, bằng cách pháp hành cổ
phiếu, niêm yết cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán .

25


×