Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 82 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
 PGS.TS Lưu Thị Hương đã hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình
thực hiện.
 Cán bộ phòng Tài chính – kế toán, Tổng công ty vận tải thủy đã nhiệt tình
chỉ bảo và hướng dẫn em trong suốt thời gian thực tập.
 Gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ em.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

1


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp khá phức tạp với nhiều
quan hệ nảy sinh. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, trình độ của các nhà
quản lý doanh nghiệp, trình độ quản lý tài chính. Trước sự cạnh tranh quyết liệt giữa
các thành phần kinh tế gây ra những khó khăn thử thách cho các doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, để khẳng định được mình, mỗi doanh nghiệp cần phải nắm vững
tình hình cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp luôn phải quan tâm đến tình hình tài chính
vì nó có quan hệ trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


Việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho doanh
nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó, doanh nghiệp
có thể xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân để có thể đưa ra
những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng
công tác quản lý kinh tế và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tổng công ty vận tải thủy là một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực vận
tải thủy. Sau hơn 13 năm ra đời Tổng công ty vận tải thủy đã có những bước phát
triển vượt bậc về quy mô cũng như chất lượng. Qua quá trình thực tập và tìm hiểu
tình hình tài chính tại Tổng công ty, em đã quyết định lựa chọn đề tài chuyên đề tốt
nghiệp " Phân tích tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy "
Ngoài các phần: Lời mở đầu; mục lục; danh mục các chữ viết tắt; danh mục
bảng, biểu; kết luận; danh mục tài liệu tham khảo; nội dung chính của chuyên đề tốt
nghiệp gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính tại Tổng công ty vận tải thủy
Chương 3: Giải pháp cải thiện tình hình tài chính của Tổng công ty vận tải thủy.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

2


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH

DOANH NGHIỆP
1.1 Tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Doanh nghiệp và phân loại doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh
doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu.
Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân.
Có nhiều hoạt động kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ
không phải các cá nhân.
Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên
riêng, có tài sản , có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy
định của pháp luật, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh – tức là thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
 Có các cách phân loại doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Căn cứ vào tính chất sở hữu và mục đích hoạt động của doanh
nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp
công.
Thứ hai: Căn cứ vào tư cách pháp lý của doanh nghiệp, doanh nghiệp được
chia thành: doanh nghiệp có tư cách pháp nhân và doanh nghiệp không có tư cách
pháp nhân.
Thứ ba: Căn cứ vào chế độ trách nhiệm tài sản (mức độ chịu trách nhiệm tài
sản trong hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu doanh nghiệp), doanh nghiệp được
chia thành: doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm hữu hạn về tài sản và doanh nghiệp
có chế độ trách nhiệm vô hạn về tài sản.
Thứ tư: Căn cứ vào cơ cấu chủ sở hữu và phương thức góp vốn vào doanh
nghiệp, doanh nghiệp được chia thành: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh,

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

3



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

công ty TNHH, công ty cổ phần và nhóm công ty.
Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp tư nhân không được phép phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào. Mỗi
cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên là
sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung( gọi là thành
viên hợp danh ). Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty. Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ
ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty hợp danh không được
phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó: thành viên của công ty có thể là tổ
chức, cá nhân, số lượng thành viên của công ty không vượt quá 50. Thành viên chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn cam kết góp vào doanh nghiệp. Phần vốn của thành viên chỉ được chuyển
nhượng theo quy định của Luật doanh nghiệp. Công ty TNHH có tư cách pháp nhân
kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Công ty TNHH không
được quyền phát hành cổ phần.
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó: vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ
đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ một số
trường hợp quy định tại Luật doanh nghiệp. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số

lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa. Công ty cổ phần có
quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng
khoán. Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh.
Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi
ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh doanh khác. Nhóm công ty gồm

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

4


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

các hình thức: Công ty mẹ - công ty con; Tập đoàn kinh tế và các hình thức khác.

1.1.2 Khái quát về tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một bộ phận cấu thành trong các hoạt động kinh tế của doanh
nghiệp. Nó có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại với các hoạt động kinh tế
khác. Mối quan hệ tác động qua lại này phản ánh và thể hiện sự tác động gắn bó
thường xuyên giữa phân phối sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Phân phối vừa phản
ánh kết quả sản xuất và trao đổi, lại vừa là điều kiện cho sản xuất và trao đổi có thể
tiến hành bình thường và liên tục.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của các tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân và là một khâu tài chính cơ sở trong hệ thống tài chính. Vì vậy, tại đây diễn ra
quá trình tạo lập và chu chuyển vốn gắn liền với quá trình sản xuất, đầu tư, tiêu thụ
và phân phối.
Tài chính – thoạt nhìn chúng ta lại hiểu là tiền tệ; như một doanh nghiệp sẽ phải

trích một khoản tiền lương để trả cho cán bộ công nhân viên. Khi tiền lương tham
gia phân phối giữa các loại lao động có trình độ, nghề nghiệp và điều kiện làm việc
khác nhau. Tài chính tham gia phân phối sản phẩm quốc dân cho người lao động
thông qua quá trình hình thành và sử dụng quỹ tiền lương và các quỹ phúc lợi công
cộng khác. Do vậy, giữa tài chính và tiền là hai phạm trù kinh tế khác nhau.
Tài chính cũng không phải là tiền tệ và cũng không phải là quỹ tiền tệ. Nhưng
thực chất tiền tệ và quỹ tiền tệ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính,
còn bên trong nó là những quan hệ kinh tế đa dạng. Nhân loại đã có những phát
minh vĩ đại. Trong đó, phải kể đến việc phát minh ra tiền. Nhờ đó, người ta có thể
quy mọi hoạt động khác nhau về đơn vị đo thống nhất. Trên cơ sở đó, ta có thể tính
toán, so sánh được với nhau. Như vậy, tiền chỉ là phương tiện cho hoạt động tài
chính nói chung và hoạt động tài chính của doanh nghiệp nói riêng. Thông qua
phương tiện này, các doanh nghiệp có thể thực hiện nhiều hoạt động khác nhau
trong mọi lĩnh vực. Nếu như chúng ta chỉ nhìn bề ngoài thì chỉ thấy các hoạt động
đó hoạt động tách riêng với nhau, nhưng thật ra chúng lại gắn bó với nhau trong sự
vận động và chu chuyển vốn, chúng được tính toán, so sánh với nhau bằng tiền.
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

5


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

Do vậy, tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa
doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế. Các quan hệ tài chính chủ yếu bao
gồm:
 Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước
Phản ánh quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình phân

phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, giữa ngân sách
Nhà nước và các doanh nghiệp thể hiện thông qua các khoản thuế mà doanh nghiệp
nộp vào ngân sách Nhà nước theo luật định hay các khoản vốn kinh doanh mà Nhà
nước góp vào doanh nghiệp.
 Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
Mối quan hệ này được thể hiện thông qua việc tài trợ các nhu cầu vốn của
doanh nghiệp.
Với thị trường tiền tệ: Thông qua hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp nhận
những khoản tiền vay để tài trợ cho các nhu cầu vốn ngắn hạn, đồng thời phải hoàn
trả vốn vay và tiền lãi trong thời hạn nhất định.
Với thị trường vốn: Thông qua các tổ chức tài chính trung gian khác, doanh
nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn bằng cách phát
hành chứng khoán như: Cổ phiếu, trái phiếu. Ngược lại doanh nghiệp cũng phải
hoàn trả một khoản lãi cho các chủ thể tham gia đầu tư vào doanh nghiệp bằng một
khoản tiền cố định hay phụ thuộc vào khả năng kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua thị trường tài chính, doanh nghiệp cũng có thể tận dụng nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi của mình bằng cách gửi ngân hàng hay đầu tư vào chứng khoán....
 Quan hệ giữa doanh nghiệp và các thị trường khác
Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp
khác trên thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị
trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm
kiếm lao động... Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác
định được nhu cầu hàng hóa, dịch vụ cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch
định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thỏa mãn nhu cầu thị
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

6


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

trường.
 Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là mối quan hệ giữa các bộ phận sản xuất kinh doanh, giữa cổ đông và
người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn.
Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp
như: chính sách cổ tức, chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí...

1.2 Phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và công
cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh
giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất
lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.
Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong
mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc
mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản
lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng
và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để chứng tỏ phân tích tài chính chứng tỏ
thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
1.2.1 .Ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính là một hệ thống các phương pháp nhằm đánh giá tình hình
tài chính và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian hoạt động
nhất định. Trên cơ sở đó, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định
chuẩn xác trong quá trình kinh doanh.
Bởi vậy, việc thường xuyên tiến hành phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho
các nhà quản trị doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy được bức
tranh về thực trạng hoạt động tài chính, xác định đầy đủ và đúng đắn những nguyên
nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới tình hình tài chính của doanh nghiệp.

Từ đó có những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như:
các nhà đầu tư, các nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng... Mỗi đối tượng này đều
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

7


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới những góc độ khác nhau.
Các đối tượng quan tâm đến thông tin của doanh nghiệp có thể được chia
thành 2 nhóm: nhóm có quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp.
Nhóm có quyền lợi trực tiếp bao gồm: các cổ đông, các nhà đầu tư tương lai,
các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp tín dụng, các nhà quản lý trong nội bộ doanh
nghiệp.
 Các nhà đầu tư:
Mục đích của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc đầu tư vào
mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Do vậy, họ luôn mong đợi tìm kiếm cơ hội đầu tư
vào doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường với sự cạnh tranh gay gắt, các nhà đầu tư phải tìm cách bảo vệ cho đồng vốn
đầu tư của họ. Vì lý do đó mà bên cạnh việc quan tâm đến mức sinh lời, thời gian
hoàn vốn, mức độ thu hồi vốn, các nhà đầu tư còn quan tâm nhiều đến các thông tin
về mức độ rủi ro, các dự án đầu tư. Trên các thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư
sử dụng rất nhiều đến các chỉ số tài chính để đánh giá giá trị và khả năng sinh lãi
của cổ phiếu cũng như các thông tin về xu hướng thị trường trước khi đưa ra các
quyết định đầu tư.

 Các cổ đông
Các cổ đông với mục tiêu đầu tư vào doanh nghiệp để tìm kiếm lợi nhuận nên
quan tâm nhiều đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Họ chính là các chủ sở hữu
doanh nghiệp nên sử dụng các thông tin kế toán để theo dõi tình hình tài chính và
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích bảo vệ tài sản của mình đã
đầu tư vào doanh nghiệp. Tình trạng tài chính và kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả cổ phiếu do doanh nghiệp cổ phần đã phát
hành. Để bảo vệ tài sản của mình, các cổ đông phải thường xuyên phân tích tình
hình tài chính và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp mà họ đầu tư để quyết
định có tiếp tục nắm giữ cổ phiếu của các doanh nghiệp này nữa hay không.
 Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dụng
Các chủ ngân hàng và nhà cung cấp tín dụng quan tâm đến khả năng sinh lợi
và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngoài ra, các ngân hàng còn quan tâm
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

8


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

đến vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp và coi đó như nguồn đảm bảo cho ngân hàng
có thể thu hồi nợ khi doanh nghiệp bị thua lỗ và phá sản.
Ngoài ra, các cơ quan thuế cũng cần các thông tin từ phân tích BCTC để xác
định số thuế mà doanh nghiệp phải nộp.
Nhóm có quyền lợi gián tiếp bao gồm: các cơ quan quản lý Nhà nước khác
ngoài cơ quan thuế, các viện nghiên cứu kinh tế, các sinh viên, người lao động...
 Các cơ quan quản lý khác của Chính phủ
Các cơ quan này cần các thông tin từ phân tích BCTC để kiểm tra tình hình tài

chính, kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xây dựng các kế
hoạch vĩ mô.
 Người lao động
Người lao động cũng quan tâm đến các thông tin từ phân tích BCTC của doanh
nghiệp để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm việc đều có
nguyện vọng được làm việc ở những doanh nghiệp có triển vọng sáng sủa với tương lai
lâu dài để hy vọng có mức lương xứng đáng và chỗ làm việc ổn định.
 Các đối thủ cạnh tranh
Các đối thủ cạnh tranh cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu bán
hàng và các chỉ tiêu tài chính khác trong điều kiện có thể để tìm các biện pháp cạnh
tranh với doanh nghiệp.
 Các nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế
Các nhà nghiên cứu và sinh viên kinh tế cũng quan tâm đến các thông tin từ
phân tích BCTC của doanh nghiệp để phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập của họ.
Tuy các đối tượng quan tâm đến các thông tin từ phân tích BCTC của doanh
nghiệp dưới các góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều quan tâm đến khả
năng tạo ra dòng tiền mặt , khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức độ lợi
nhuận tối đa. Bởi vậy, việc phân tích BCTC của doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ
các nhiệm vụ của phân tích .
1.2.2 Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1 Thông tin bên ngoài doanh nghiệp

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

9


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương


Việc phân tích tài chính không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu những báo cáo
tài chính mà phải tập hợp đầy đủ các thông tin liên quan đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp, như các thông tin về kinh tế, tiền tệ, thuế khóa của quốc gia và quốc
tế, các thông tin về kinh tế, các thông tin về pháp lý, về kinh tế đối với doanh
nghiệp. Việc quyết định đều gắn với môi trường xung quanh. Chúng ta có thể kể tới
một số yếu tố khách quan tác động tới doanh nghiệp và những thông tin liên quan
đến các yếu tố này cũng luôn được thường xuyên cập nhật:
+ Doanh nghiệp luôn phải đối đầu với công nghệ. Sự phát triển của công nghệ
góp phần thay đổi phương thức sản xuất, góp phần làm thay đổi trong quản lý doanh
nghiệp dẫn tới các quyết định tài chính cũng phải thay đổi theo.
+ Doanh nghiệp luôn là đối tượng quản lý của các cơ quan Nhà nước. Mọi
hoạt động của doanh nghiệp bị điều tiết và chi phối bởi cơ chế quản lý tài chính, hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ngành hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Một sự thay đổi nhỏ về chính sách, chuẩn mực đều có thể dẫn
đến quyết định đầu tư tài chính đúng đắn hay sai lầm.
+ Kinh doanh luôn gắn liền với rủi ro. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường
rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính luôn tiềm ẩn. Rủi ro rất đa dạng và phức tạp đòi
hỏi các doanh nghiệp dự tính mức rủi ro có thể chấp nhận được, nó có thể làm cho
doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể.
+ Doanh nghiệp với sức ép của thị trường cạnh tranh, những đòi hỏi về chất
lượng, mẫu mã, chủng loại, giá cả hàng hóa, chất lượng dịch vụ ngày càng cao hơn,
tinh tế hơn của khách hàng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp cần có những thông tin
nắm bắt thị hiếu của khách hàng để thay đổi chính sách sản phẩm, đảm bảo cho hoạt
động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nâng cao năng lực tài chính
1.2.1.2 Thông tin nội bộ doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính doanh nghiệp, chúng ta có thể
sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin
quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế
toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho

phân tích tài chính. Vả lại, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

10


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế
toán được phản ánh khá đầy đủ trong các BCTC. Hệ thống BCTC bao gồm:
 Bảng cân đối kế toán ( BCĐKT )
BCĐKT là một BCTC mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một
thời điểm nhất định nào đó. Đây là một BCTC có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi
đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý với doanh
nghiệp. Thông thường BCĐKT được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài
khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh
nghiệp. Các khoản mục được sắp xếp theo khả năng chuyển hóa thành tiền giảm
dần từ trên xuống.
Phần tài sản: Bao gồm tài sản ngắn hạn (TSLĐ và đầu tư ngắn hạn) và tài sản
dài hạn (TSCĐvà đầu tư dài hạn). TSLĐ như: Tiền và chứng khoán ngắn hạn dễ
bán, các khoản phải thu, hàng tồn kho... TSCĐ bao gồm: TSCĐ hữu hình như nhà
xưởng, máy móc...; TSCĐ vô hình như quyền sử dụng đất, quyền phát minh, sáng
chế...
Phần nguồn vốn: Bao gồm nợ phải trả và VCSH.
Nợ phải trả được chia thành 2 loại: Nợ ngắn hạn (Vay ngắn hạn ngân hàng và
các tổ chức tín dụng khác; nợ phải trả các nhà cung cấp; các khoản phải trả, phải
nộp khác...) Nợ dài hạn (Nợ vay dài hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác,

vay bằng cách phát hành trái phiếu...)
VCSH bao gồm: Vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu
mới...
Bên tài sản và nguồn vốn của BCĐKT đều có các cột chỉ tiêu: Số đầu kỳ, số
cuối kỳ. Ngoài các khoản mục trong nội bảng còn có một số khoản mục ngoài
BCĐKT như: Một số tài sản thuê ngoài, vật tư, hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia
công, hàng hóa nhận bán hộ, ngoại tệ các loại...
Nhìn vào BCĐKT, các nhà phân tích có thể nhận biết được loại hình doanh
nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. BCĐKT một tư liệu
quan trọng bậc nhất giúp các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài
chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

11


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

 Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD)
Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài
chính là thông tin phản ánh trong BCKQKD. Khác với BCĐKT, BCKQKD cho biết
sự dịch chuyển tiền trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và cho
phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. BCKQKD cũng
giúp nhà phân tich so sánh doanh thu với số tiền thực tế nhập quỹ khi bán hàng hóa,
dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh
nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất –
kinh doanh: lãi lỗ trong năm. Như vậy, BCKQKD phản ánh hoạt động sản xuất –

kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất
định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các
tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất – kinh doanh của
doanh nghiệp.
Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên BCKQKD: Doanh thu từ hoạt
động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chinh; doanh thu từ hoạt động
kinh doanh bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó.
Những loại thuế như VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, về bản chất, không phải là
doanh thu và không phải là chi phí của doanh nghiệp nên không được phản ánh trên
BCKQKD. Toàn bộ các khoản thuế đối với doanh nghiệp và các khoản nộp khác
được phản ánh trong phần: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (BCLCTT)
Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm
hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. BCLCTT thường được xác định trong
thời hạn ngắn (thường là từng tháng)
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực nhập quỹ (thu ngân quỹ), bao gồm: Dòng
tiền nhập quỹ từ hoạt động kinh doanh ( từ bán hàng hóa hoặc dịch vụ); dòng tiền
nhập quỹ từ hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền nhập quỹ từ hoạt động bất
thường.
Xác định hoặc dự báo dòng tiền thực xuất quỹ (chi ngân quỹ), bao gồm: Dòng
tiền xuất quỹ xuất quỹ thực hiện sản xuất kinh doanh; dòng tiền xuất quỹ thực hiện
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

12


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương


hoạt động đầu tư, tài chính; dòng tiền xuất quỹ thực hiện hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện
cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ.
Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm
mục tiêu đảm bảo chi trả.
 Thuyết minh báo cáo tài chính
Thuyết minh báo cáo tài chính được lập nhằm cung cấp các thông tin về tình
hình sản xuất, kinh doanh chưa có trong hệ thống các BCTC, đồng thời giải thích
thêm một số chỉ tiêu mà trong các BCTC chưa được trình bày, giải thích một cách
rõ ràng và cụ thể.
Mẫu thuyết minh BCTC có thể do Nhà nước quy định, có thể một phần do
doanh nghiệp lập để tiện cho công tác quản lý và phân tích TCDN.
1.2.3 Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.3.1 Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến ở trong phân tích để



đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.
Điều kiện so sánh



 Tồn tại ít nhất hai đại lượng hoặc hai chỉ tiêu.
 Để áp dụng phương pháp so sánh và phân tích các BCTC của
doanh nghiệp, trước hết phải xác định số gốc để so sánh. Gốc để
so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian và không gian.
Về mặt thời gian: Có thể lựa chọn kỳ kế hoạch, kỳ trước, cùng kỳ này năm
trước hay lựa chọn các thời điểm thời gian ( năm, tháng, ngày, tuần...)
Về mặt không gian: Có thể lựa chọn tổng thể hay các bộ phận của cùng một

tổng thể, lựa chọn các đơn vị khác cùng điều kiện tương đương... làm gốc so sánh.
Quy trình phân tích theo phương pháp so sánh có thể thực hiện bằng


hình thức:

So sánh ngang: là việc so sánh, đối chiếu tình hình biến động cả về số tương
đối và số tương đối trên từng chi tiết của BCTC.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

13


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

So sánh dọc: là việc sử dụng các tỷ suất, các hệ số thể hiện mối tương quan
giữa các chỉ tiêu trong từng BCTC và giữa các báo cáo để rút ra kết luận.
So sánh bằng số tuyệt đối: cung cấp thông tin về mức độ biến động của chỉ
tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và cho kết quả là số tuyệt đối, phản
ánh quy mô của các hiện tượng, sự vật, hoạt động...
So sánh bằng số tương đối: Cung cấp thông tin về mức độ biến động của chi
tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và kết quả được biểu hiện bằng con
số dưới dạng tỷ lệ % phản ánh xu hướng biến động của các chỉ tiêu.
1.2.3.2 Phương pháp tỷ số
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài
chính.
Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân

tích. Đó là tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác.
Trong phân tích TCDN, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc
trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp. Đó là các nhóm tỷ số về khả năng thanh toán, nhóm tỷ số về cơ cấu vốn,
nhóm tỷ số về khả năng hoạt động, nhóm tỷ số về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ
số bao gồm nhiều tỷ số phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính.
Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng
được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ:
 Thứ nhất: Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và cung cấp đầy
đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc
đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp
 Thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy
quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số.
 Thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời
gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
1.2.3.3 Mô hình Dupont
Mô hình Dupont được vận dụng để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

14


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu mà người ta có thể phát
hiện được ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự logic
chặt chẽ.

 Mô hình Dupont thường được vận dụng trong phân tích tài chính, có dạng:
ROA(Doanh
lợi trên tổng tài
=
sản)

LNST
Tổng tài sản

=

LNST
Doanh thu
thuần

*

Doanh thu
thuần
Tổng tài sản

Từ mô hình phân tích trên cho thấy, để nâng cao khả năng sinh lời của một
đồng tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng, quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu
và xem xét có những biện pháp gì cho việc nâng cao không ngừng khả năng sinh lời
của quá trình sử dụng tài sản của doanh nghiệp.
Phân tích BCTC dựa vào mô hình Dupont có ý nghĩa rất lớn đối với quản trị
doanh nghiệp. Điều đó không chỉ biểu hiện ở chỗ: có thể đánh giá hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp. Từ đó, đề ra được một hệ thống các biện pháp tỉ mỉ và xác
thực nhằm tăng cường công tác cải tiến tổ chức quản lý doanh nghiệp, góp phần
không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ở các kỳ kinh doanh

tiếp theo.
1.2.4 Nội dung của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
1.2.4.1 Phân tích cấu trúc tài chính
Phân tích cấu trúc tài chính là việc phân tích tình hình huy động với tình hình
sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qua đó, giúp các nhà quản lý nắm được tình hình
phân bổ tài sản và các nguồn tài trợ tài sản, biết được nguyên nhân cũng như các
dấu hiệu ảnh hưởng đến cân bằng tài chính. Những thông tin này sẽ là căn cứ quan
trọng để các nhà quản lý ra các quyết định điều chỉnh chính sách huy động và sử
dụng vốn của mình, bảo đảm cho doanh nghiệp có được một cấu trúc tài chính lành
mạnh, và tránh được những rủi ro trong kinh doanh. Đồng thời nội dung phân tích
này còn góp phần củng cố các nhận định đã rút ra khi đánh giá khái quát tình hình
tài chính.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

15


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

Như vậy, về thực chất, phân tích cấu trúc tài chính của doanh nghiệp

bao gồm những nội dung: phân tích cơ cấu tài sản, phân tích cơ cấu vốn, phân tích
mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn.
 Phân tích cơ cấu tài sản
Phân tích cơ cấu tài sản của doanh nghiệp được thực hiện bằng cách tính ra và
so sánh tình hình biến động giữa kỳ phân tích với kỳ gốc về tỷ trọng của từng bộ

phận tài sản chiếm trong tổng số tài sản.
Tỷ trọng của từng bộ =
phận tài sản chiếm trong
tổng số tài sản

Giá trị của từng bộ phận tài sản

* 100

Tổng số tài sản

 Phân tích cơ cấu vốn
Phân tích cơ cấu vốn cũng tiến hành tương tự như phân tích cơ cấu tài sản:
Tỷ trọng của từng bộ
phận nguồn vốn
=
chiếm trong tổng số
nguồn vốn

Giá trị của từng bộ phận
nguồn vốn

* 100

Tổng nguồn vốn

Việc xem xét tình hình biến động về tỷ trọng của từng bộ phận tài sản (nguồn
vốn) chiếm trong tổng tài sản (nguồn vốn) cho phép các nhà quản lý đánh giá khái
quát tình hình phân bổ ( sử dụng) vốn và tình hình huy động vốn, mức độ hợp lý
của việc phân bổ nhưng lại không cho biết các nhân tố tác động đến sự thay đổi cơ

cấu tài sản, cơ cấu vốn. Vì vậy, để phân tích tình hình huy động và sử dụng vốn
được chính xác, nắm được các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến cơ
cấu tài sản, cơ cấu vốn, cần kết hợp cả việc phân tích ngang, tức là so sánh sự biến
động giữa kỳ biến động với kỳ gốc (cả về số tuyệt đối và tương đối) theo từng loại
tài sản và nguồn vốn.
 Phân tích mối liên hệ giữa tài sản và nguồn vốn
Phân tích cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp nếu chỉ dừng ở việc phân
tích cơ cấu tài sản và cơ cấu vốn sẽ không bao giờ thể hiện được chính sách huy
động và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chính sách huy động và sử dụng vốn của
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

16


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

doanh nghiệp không chỉ phản ánh nhu cầu vốn cho hoạt động kinh doanh mà còn có
quan hệ trực tiếp đến an ninh tài chính, đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp
và do vậy, tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh cũng như rủi ro kinh doanh
của doanh nghiệp. Để phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn , các nhà
phân tích thường sử dụng chỉ tiêu:

Hệ số nợ =

Nợ phải trả

=


1-

Tổng tài sản

VCSH

= 1-

Hệ số tài trợ

Nguồn vốn

Hệ số nợ so với tài sản ( hệ số nợ): là chỉ tiêu phản ánh mức độ tài trợ tài sản
của doanh nghiệp bằng các khoản nợ. Hệ số này càng cao chứng tỏ mức độ phụ
thuộc của doanh nghiệp và chủ nợ càng lớn, mức độ độc lập về tài chính càng thấp.
Do vậy, doanh nghiệp càng ít có cơ hội và khả năng tiếp cận với các khoản vay do
các nhà đầu tư tín dụng không mấy mặn mà với các doanh nghiệp có hệ số nợ so với tài
sản cao. Trong khi đó các chủ doanh nghiệp lại ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi
nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu tỷ
số nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
1.2.4.2 Phân tích khả năng thanh toán
 Chỉ số khả năng thanh toán hiện hành (Current ratio)
TSNH
CR

=
Nợ NH

 Trong đó:
Tài sản ngắn hạn (Current Assets): gồm tiền và các khoản tương đương tiền;

các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn; các khoản phải thu; hàng tồn kho và các tài
sản ngắn hạn khác.
Nợ ngắn hạn (Current liabilitiest): gồm các khoản vay ngắn hạn; phải trả
người bán; người mua trả tiền trước; thuế và các khoản phải nộp Nhà nước; phải trả
công nhân viên; chi phí phải trả; phải trả nội bộ.
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

17


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

Hệ số này được sử dụng để đo lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn của
doanh nghiệp bao gồm vay ngắn hạn và các khoản phải trả ngắn hạn bằng các tài
sản của doanh nghiệp ( như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho...).
Tỷ số này càng lớn thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao và nên đạt
giá trị từ 1 trở lên. Khi đó, doanh nghiệp mới đáp ứng được các khoản nợ phải trả
ngắn hạn. Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, tỷ số này ở mức 1,7-1,8 có thể được
xem là tốt và tùy thuộc vào mỗi ngành công nghiệp và loại hình công ty.
Nếu hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp không có khả năng hoàn thành được
nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Trường hợp chỉ tiêu này thấp kéo dài ảnh hưởng đến uy
tín của doanh nghiệp và có thể doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.
Nói chung, hệ số thanh toán hiện hành càng cao thì khả năng trả nợ của doanh
nghiệp càng lớn. Tuy nhiên, nếu hệ số này cao (lớn hơn 3) cũng không phải là dấu
hiệu tốt. Điều này sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; doanh nghiệp
nên xem xét tận dụng thêm việc sử dụng nợ.
 Chỉ số khả năng thanh toán nhanh (Quick ratio)
Chỉ số này được tính bằng cách loại bỏ dự trữ trong tổng tài sản ngắn hạn và

đem phần chênh lệch còn lại (gọi là tài sản nhanh) chia cho tổng nợ ngắn hạn.

QR

=

Tài sản nhanh
Nợ NH

=

TSNH – Dự trữ
Nợ NH

Tài sản nhanh là những tài sản ngắn hạn có thể chuyển đổi nhanh chóng và dễ
dàng thành tiền mặt (tiền, chứng khoán có tính thanh khoản, các khoản phải thu...)
Chỉ số này khắc phục được những hạn chế của chỉ số khả năng thanh toán hiện
hành., loại bỏ tác động của chỉ tiêu dự trữ vì dự trữ là tài sản có khả năng chuyển
đổi sang tiền mặt thấp nhất.
Đa số người phân tích tài chính đều coi trọng khả năng thanh toán của doanh
nghiệp với các khoản nợ ngắn hạn dựa trên tổng tài sản nhanh. Chỉ số này cao
chứng tỏ khả năng thanh toán của doanh nghiệp dồi dào. Tuy nhiên, chỉ tiêu này quá
cao sẽ dẫn tới vốn bằng tiền của doanh nghiệp nhàn rỗi, ứ đọng, dẫn đến hiệu quả

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

18


Chuyên đề tốt nghiệp


GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

sử dụng vốn thấp. Ở Việt Nam chưa có chưa có chuẩn về thanh toán nhanh, nhưng
trên thế giới hệ số này trên 0,8 được cho là tốt. Tuy nhiên, chỉ số này cũng còn tùy
theo từng ngành; các ngành nghề khác nhau thì yêu cầu đối với chỉ số thanh toán
nhanh cũng khác nhau. Ví dụ: các ngành dịch vụ thì cần tiêu thụ nhiều tiền mặt, các
khoản phải thu lại tương đối ít, do đó cho phép duy trì tỷ số này thấp hơn 1
 Vốn lưu động ròng (Net working capital)
Để đánh giá khả năng thanh toán của các khoản nợ ngắn hạn khi đến hạn, các
nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng (hay vốn lưu động
thường xuyên) của doanh nghiệp.
Vốn lưu động ròng = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn
= Tài sản dài hạn – Nợ dài hạn
 Nếu vốn lưu động ròng >0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn nhiều hơn nợ ngắn hạn. Khi đó một phần tài sản
ngắn hạn sẽ được tài trợ bằng vốn dài hạn ( nợ dài hạn và VCSH). Do lấy vốn dài
hạn tài trợ cho tài sản dài hạn nên khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp là tốt.
Bởi vì, một doanh nghiệp muốn hoạt động không bị gián đoạn thì cần thiết phải duy
trì một mức vốn lưu động ròng hợp lý để thỏa mãn việc thanh toán của các khoản
nợ ngắn hạn và dự trữ hàng tồn kho. Vốn lưu động ròng của doanh nghiệp càng lớn
thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, khả năng sinh lời
của doanh nghiêp không cao do chi phí sử dụng vốn dài hạn cao hơn so với sử dụng
vốn ngắn hạn.
 Nếu vốn lưu động ròng<0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn ít hơn nợ ngắn hạn. Tài sản ngắn hạn không đủ đáp
ứng nhu cầu cho thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp bị
mất cân bằng. Khi đó một phần nợ ngắn hạn sẽ được dùng tài trợ cho tài sản dài
hạn. Vì thế, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản dài hạn để thanh toán nợ ngắn
hạn khi đến hạn trả.

 Vốn lưu động ròng = 0
Nghĩa là tài sản ngắn hạn được tài trợ vừa đủ bởi nợ ngắn hạn. Như vậy, tài

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

19


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

sản ngắn hạn của doanh nghiệp vừa đủ để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn khi
đến hạn. Vì vậy cân bằng tài chính trong trường hợp này là tương đối bền vững; tuy
nhiên, tính ổn định vẫn chưa cao, có nguy cơ xảy ra mất cân bằng tài chính.
1.2.4.3 Phân tích hiệu quả hoạt động
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản
ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân lực, tài chính của doanh nghiệp để đạt được
hiệu quả cao nhất.
Nâng cao hiệu quả hoạt động là một trong những biện pháp cực kỳ quan trọng
của các doanh nghiệp để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao một cách bền
vững.Do vậy, phân tích hiệu quả hoạt động là một nội dung cơ bản của phân tích tài
chính.
Đánh giá hiệu quả hoạt động nhằm biết được hiệu quả hoạt động kinh doanh ở
mức nào, xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp và những nhân tố ảnh hưởng.
Thông qua việc đánh giá nhằm đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi đánh giá khái quát hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp , cần
phải nghiên cứu một cách toàn diện về thời gian, không gian, môi trường kinh
doanh và đồng thời đặt nó vào mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn xã hội.

 Phân tích khái quát báo cáo kết quả kinh doanh
Báo cáo kết quả kinh doanh là một BCTC tổng hợp, phản ánh tình hình doanh
thu, chi phí và kết quả của các hoạt động kinh doanh sau một kỳ hoạt động.
Thông qua chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể phân tích,
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, tăng, giảm giá vốn hàng bán, chi phí bán
hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính, chi phí khác, doanh thu bán
hàng và cung cấp hàng hóa dịch vụ, doanh thu tài chính, thu nhập khác và kết quả
kinh doanh sau một kỳ hoạt động, đánh giá xu hướng phát triển của doanh nghiệp
qua các thời kỳ khác nhau.
Khi phân tích báo cáo kết quả kinh doanh cần phân tích:
Phân tích sự biến động của từng chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh. Việc phân tích bằng cách so sánh trị số của từng chỉ tiêu giữa kỳ này với kỳ
Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

20


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

trước hoặc thực hiện với kế hoạch cả về số tuyệt đối và số tương đối.
Khi đó, biết được sự tác động của các chỉ tiêu và nguyên nhân ảnh hưởng đến
lợi nhuận phân tích về mặt định lượng. Đồng thời, so sánh tốc độ tăng giảm của các
chỉ tiêu trên BCKQKD để biết được mức tiết kiệm của các khoản chi phí, sự gia
tăng của các khoản doanh thu, nhằm khai thác các điểm mạnh, khắc phục các điểm
yếu trong hoạt động kinh doanh.
Mặt khác, việc phân tích còn xác định các nhân tố định tính để thấy sự ảnh
hưởng của các nguyên nhân khách quan và chủ quan tới kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.

 Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà
còn quan tâm tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số
này.
 Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Vòng quay tổng tài sản)
Trong một doanh nghiệp kinh doanh, các doanh nghiệp mong muốn tài sản vận
động không ngừng, để đẩy mạnh tăng doanh thu, là nhân tố góp phần tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp.
Hiệu suất sử
dụng tổng tài
sản

=

Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân

 Chỉ tiêu này cho biết trong một kỳ phân tích các tài sản quay được
bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ các tài sản vận động
nhanh, góp phần tăng doanh thu và là điều kiện để nâng cao lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp, chứng tỏ các tài sản vận
động chậm làm cho doanh thu của doanh nghiệp giảm. Tuy nhiên, chỉ
tiêu này phụ thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, đặc điểm cụ
thể của tài sản trong doanh nghiệp.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

21



Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

 Sức sinh lời của tài sản (Return on access)

ROA

Lợi nhuận sau thuế

=

Tổng TS bình quân
 Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản bằng mô hình Dupont
ROA

=

LNST

=

Tổng TS

Trong đó:

LNST
DT


*

DT
Tổng TS

LNST
DT
DT

=

ROS

=

Hiệu suất sử
dụng tổng TS

(Return on sales)

Tổng TS
 Chỉ tiêu này cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận sau thuế của tài sản
mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh. Trong một kỳ
phân tích, doanh nghiệp đầu tư một đồng tài sản thì thu được bao
nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là tốt,
góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là
tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp.
 Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (Vòng quay vốn cố định)

Trong tài sản dài hạn, tài sản cố định thường chiếm tỷ trọng cao do vậy hiệu
quả của tài sản dài hạn thường do hiệu quả của tài sản cố định quyết định.
Hiệu suất sử
dụng TSCĐ

=

Doanh thu
TSCĐ bình quân

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

22


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

 Chỉ tiêu này cho biết trung bình cứ một năm, một đồng vốn đầu tư
vào TSCĐ sẽ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này thể
hiện sức sản xuất của TSCĐ, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ TSCĐ
hoạt động tốt. Đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh.
 Sức sinh lời của TSCĐ
Sức sinh lời
=
của
TSCĐ


Lợi nhuận sau thuế
TSCĐ bình quân

 Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng giá trị TSCĐ sử dụng trong kỳ thì tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp là tốt.
 Sức sản xuất của tài sản ngắn hạn
Sức sản xuất
của TSNH

=

Doanh thu thuần
TSNH bình quân

 Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ tài sản ngắn hạn quay được bao nhiêu
vòng. Số vòng quay càng lớn, hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn càng
cao và ngược lại.
 Sức sinh lời của tài sản ngắn hạn
Sức sinh lời
của TSNH

=

Lợi nhuận sau thuế
TSNH bình quân

 Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư một
đồng TSNH thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này
càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn là tốt góp phần

nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

23


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương

Phân tích tốc độ luân chuyển của tài sản ngắn hạn
 Vòng quay tiền
Vòng quay tiền

=

Doanh thu
Tiền và tương đương tiền bình quân

 Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích tiền và tương đương tiền của
doanh nghiệp quay được bao nhiêu vòng.
Tiền là tài sản có tính thanh khoản cao nhất trong tất cả các tài sản của doanh
nghiệp. Một doanh nghiệp có lượng tiền mặt trong ngân quỹ càng lớn thì khả năng
đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, phần lớn
các doanh nghiệp đều chỉ duy trì một lượng tiền mặt vừa phải trong ngân quỹ đủ để
đảm bảo mức an toàn tối thiểu. Lượng tiền nhàn rỗi thường được dùng để đầu tư
sinh lời.
Trong hoạt động của doanh nghiệp luôn tồn tại hình thức mua bán chịu. Vì
vậy, lượng tiền tồn tại trong ngân quỹ có thời điểm rất lớn ( do khách hàng thanh

toán hàng loạt) nhưng cũng có thời điểm còn lại rất hạn chế (do các đơn vị mua chịu
hàng tăng). Vòng quay tiền năm sau cao hơn năm trước chưa chứng tỏ được hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp là tốt mà phải kết hợp phân tích một số chỉ tiêu
khác.
 Số ngày của một vòng quay tiền
 Chỉ tiêu này cho biết một vòng quay tiền sẽ kéo dài bao nhiêu ngày.
Chỉ tiêu này thấp chứng tỏ doanh nghiệp tích trữ tiền mặt ít hoặc là do
tiền mặt của doanh nghiệp quay vòng nhanh.
Số ngày của
1 vòng quay =
tiền

Tiền và tương đương tiền * 360
Doanh thu thuần

 Vòng quay dự trữ
Cho phép xem xét hiệu quả trong việc quản lý dự trữ nhằm đánh giá tính thanh

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp
Giá 48A
vốn hàng bán
Dự trữ bình quân

24


Chuyên đề tốt nghiệp

GVHD: PGS.TS Lưu Thị Hương


khoản của hàng hóa dự trữ trong doanh nghiệp. Đây là một chỉ tiêu khá quan trọng
để đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.
Vòng quay dự trữ

=

 Chỉ tiêu này cho biết trong một năm thì hàng hóa dự trữ của doanh
nghiệp quay được bao nhiêu vòng.
Đối với các chỉ tiêu về vòng quay thì càng cao càng tốt. Chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ vốn đầu tư vào hàng hóa dự trữ vận động không ngừng. Đó là nhân tố để
tăng doanh thu, góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Để đảm bảo cho quá trình sản xuất – kinh doanh được tiến hành liên tục,
không bị gián đoạn đòi hỏi doanh nghiệp phải dự trữ hàng hóa hợp lý, tức là vừa
đáp ứng nhu cầu kinh doanh liên tục, vừa không làm gia tăng chi phí tồn kho gâu ứ
đọng vốn. Lượng dự trữ hợp lý phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó chủ yếu vào
quy mô sản xuất – tiêu thụ, mức độ chuyên môn hóa, hệ thống cung cấp, tình hình
tài chính của doanh nghiệp, tính thời vụ, định mức tiêu hao vật tư...
Vòng quay dự trữ là dấu hiệu cho thấy doanh nghiệp đã quản lý có hiệu quả
hàng hóa dự trữ, hàng hóa dự trữ được bán càng nhanh thì vốn lưu trong kho càng
thấp. Tuy nhiên, nếu vòng quay này quá cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang bị
mất đi các đơn đặt hàng, thiếu nguyên vật liệu hoặc giá trị hàng hóa dự trữ đang
giảm. Ngược lại, nếu vòng quay dự trữ quá thấp là dấu hiệu doanh nghiệp đang bị ứ
đọng hàng trong kho do chưa bán được vì hàng kém chất lượng hay nhu cầu sản
xuất tăng cao.
Một lưu ý quan trọng: khi xem xét vòng quay dự trữ cần liên hệ với ngành
nghề và lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp, chính sách dự trữ, tính thời vụ với
chu kỳ sống của sản phẩm, hàng hóa. Chẳng hạn, đối với những doanh nghiệp bán
lẻ nông sản, thực phẩm, vòng quay dự trữ thường cao vì họ phải đối mặt với những
sản phẩm dễ hỏng; đối với những doanh nghiệp bán đồ trang sức hay thiết bị, vòng
quay dự trữ có thể thấp.

 Số ngày của một vòng quay dự trữ

Lê Thu Hằng – Tài chính doanh nghiệp 48A

25


×