Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ báo chí phật giáo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.07 KB, 63 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

LÊ THỊ PHƢƠNG ANH

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội- 2018

Hà Nội, 2018



LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai làm khóa luận, chúng tôi đã nhận được sự giúp
đỡ của thầy cô khoa Ngữ Văn, các thầy cô trong tổ bộ môn Ngôn Ngữ, đặc biệt
là TS. Nguyễn Văn Thạo, giáo viên trực tiếp hướng dẫn. Nhân khóa luận được
hoàn thành, chúng tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy cô và các bạn.
Vì thời gian có hạn và cũng là lần đầu tiên làm quen với việc nghiên cứu
khoa học, chắc chắn khóa luận còn nhiều hạn chế. Chúng tôi mong nhận được sự
đóng góp của thầy cô và các bạn để khóa luận được cải thiện hơn.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Lê Thị Phƣơng Anh



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan:
Khóa luận tốt nghiệp: Đặc điểm ngôn ngữ báo chí Phật giáo Việt Nam là
kết quả nghiên cứu của bản thân, có sự tham khảo và kế thừa ý kiến của những
người đi trước dưới sự giúp đỡ khoa học của giáo viên hướng dẫn. Những phần
sử dụng tài liệu tham khảo, các số liệu kết quả trình bày trong khóa luận là hoàn
toàn trung thực, nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 02 tháng 05 năm 2018
Sinh viên

Lê Thị Phƣơng Anh


DANH MỤC VIẾT TẮT
1. GHPGVN

Giáo hội Phật giáo Việt Nam

2. GHPGVNTTTH

Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế

3. GN

Giác ngộ online

4. 5g, 18h

Năm giờ, mười tám giờ


5. Nxb

Nhà xuất bản

6. STT

Số thứ tự

7. KL

Kết luận

8. BTS PG

Ban trị sự Phật giáo

9. HĐTS

Hội đồng trị sự

10. HT

Hoà thượng

11. TP/Tp

Thành phố

12. T.Ư GHPGVN


Trung ương giáo hội Phật giáoViệt Nam

13. TTTT T.Ư

Trung tâm thường trực trung ương

14. UBMTTQVN

Uỷ ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ........................................................................................ 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu. ...................................................................................... 4
5. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu ........................................................... 4
6. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................... 5
7. Đóng góp của khóa luận .................................................................................. 5
8. Cấu trúc của khóa luận.................................................................................... 5
NỘI DUNG.......................................................................................................... ..6
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT........................................................................ 6
1.1. Phong cách ngôn ngữ báo chí....................................................................... 6
1.1.1. Các quan điểm về phong cách ngôn ngữ báo chí...................................... 6
1.1.2. Chức năng của ngôn ngữ báo chí .............................................................. 6
1.1.2.1. Chức năng thông báo ................................................................................ 7
1.1.2.2. Chức năng định hướng dư luận ................................................................ 7
1.1.2.3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng .............................................. 7
1.1.2.4. Chức năng thẩm mỹ .................................................................................. 7

1.1.2.5. Chức năng giáo dục .................................................................................. 8
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí ................................................................. 8
1.1.3.1. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện ..................................................... 8
1.1.3.2. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự tương tác...................................... 8


1.1.3.3. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính ngắn gọn và biểu cảm ................. 9
1.1.3.4. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính chiến đấu mạnh mẽ ..................... 9
1.1.3.5. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự hấp dẫn và thuyết phục ............. 10
1.1.4. Một số thể loại báo chí tiêu biểu............................................................... 10
1.1.4.1. Loại thể thông tấn báo chí: tin, phỏng vấn, tường thuật, điều tra. ........ 11
1.1.4.2. Loại thể chính luận báo chí: xã luận, bình luận, chuyên luận ............... 11
1.1.4.3. Loại thể chính luận- nghệ thuật: ký, phóng sự, tiểu phẩm, ghi nhanh,câu
chuyện báo chí ...................................................................................................... 12
1.2. Phật giáo và báo chí Phật giáo ................................................................... 12
1.2.1. Giới thiệu về Phật giáo ở Việt Nam .......................................................... 13
1.2.1.1. Nguồn gốc của Phật giáo ở Việt Nam..................................................... 13
1.2.1.2. Sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam thời hội nhập........................... 14
1.2.2. Báo chí Phật giáo ...................................................................................... 16
1.2.2.1. Các phương tiện truyền thông của Phật giáo hiện nay .......................... 16
1.2.2.2. Định hướng truyền thông của Phật giáo ................................................ 17
1.2.2.3. Chức năng của báo chí Phật giáo ........................................................... 17
Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 19
Chƣơng 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ ÂM, TỪ VỰNG CỦA NGÔN NGỮ BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO ....................................................................................................... 21
2.1. Đặc điểm ngữ âm ......................................................................................... 21
2.1.1. Về chính tả ................................................................................................. 21
2.1.2. Về viết tắt ................................................................................................... 22
2.1.3.Viết hoa tên riêng ....................................................................................... 25
2.1.3.1. Nhân danh ............................................................................................... 25

2.1.3.2. Địa danh .................................................................................................. 26
2.2. Đặc điểm từ vựng ........................................................................................ 26


2.2.1. Đặc điểm từ vựng về mặt phạm vi sử dụng.............................................. 27
2.2.1.1. Từ ngữ toàn dân ...................................................................................... 27
2.2.1.2. Từ ngữ địa phương .................................................................................. 27
2.2.1.3. Từ ngữ chuyên biệt (biệt ngữ) trong Phật giáo ...................................... 29
2.2.2. Đặc điểm từ vựng xét về mặt nguồn gốc .................................................. 32
2.2.2.1. Từ thuần Việt ........................................................................................... 33
2.2.2.2. Từ ngoại lai ............................................................................................. 33
Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 39
Chƣơng 3: LẬP LUẬN TRONG NGÔN NGỮ BÁO CHÍ PHẬT GIÁO ..... 40
3.1. Khái quát về lập luận .................................................................................. 40
3.2. Các yếu tố của lập luận ............................................................................... 41
3.3. Các phƣơng pháp lập luận ......................................................................... 42
3.4. Các kiểu lập luận trong báo chí Phật giáo ................................................ 42
3.4.1. Lập luận đơn giản ..................................................................................... 42
3.4.1.1. Lập luận có luận cứ thuận hướng với kết luận ....................................... 42
3.4.1.2. Lập luận có luận cứ nghịch hướng với kết luận ..................................... 44
3.4.2. Lập luận phức tạp (tam đoạn luận) ......................................................... 45
3.4.3. Lập luận phức hợp .................................................................................... 47
3.4.4. Mạng lập luận ........................................................................................... 48
Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................... 50
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, là phương tiện giao tiếp quan
trọng của loài người. Đó là tài sản chung của xã hội, nhưng sử dụng chúng như
thế nào lại là khả năng của mỗi người. Con người có thể dễ dàng trao đổi tâm tư
tình cảm, nguyện vọng, tín ngưỡng với nhau thông qua giao tiếp. Trong Phật
giáo, ngôn ngữ là phương tiện truyền giáo, là linh hồn của pháp bảo.
Để sống chung cùng với các cộng đồng người có tôn giáo khác thì Phật
giáo Việt Nam chọn lẽ sống “tốt đời, đẹp đạo” đã đi vào các hoạt động xã hội
như: Giúp đỡ người bất hạnh, khám bệnh miễn phí cho người gặp hoàn cảnh
khó khăn,…“Ai ơi cứ ở cho lành, tu nhân tích đức để dành về sau”, “Dù xây
chín bậc phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người”. Do vậy đẹp đời ở
đây không chỉ dừng lại ở nét đẹp văn hoá, đạo đức xã hội mà còn là đức tin
hướng đến những điều tốt đẹp, giá trị chân- thiện- mỹ. Vì vậy, việc thông tin và
tuyền bá về Phật giáo là nhiệm vụ quan trọng của báo chí Phật giáo.
Ngôn ngữ báo chí gồm có ngôn ngữ phát thanh và truyền hình, ngôn ngữ
quảng cáo, tiếp thị….Với đặc thù của mình, thì báo chí truyền thông tin đến
khán thính giả. Do đó, ngôn ngữ báo chí phải chính xác, dễ tiếp thu cho độc giả,
ngôn ngữ báo chí Phật giáo cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên, từ
trước đến nay chưa ai nghiên cứu ngôn ngữ báo chí Phật giáo Việt Nam ở các
bình diện: ngữ âm, từ vựng và ngữ dụng (lập luận). Vì vậy, có thể nói nghiên
cứu đặc điểm ngôn ngữ báo chí Phật giáo Việt Nam là cần thiết nhằm chỉ ra
cách sử dụng ngôn ngữ chuyên biệt và mang đặc trưng riêng của báo chí Phật

1


giáo Việt Nam thời đại hiện nay. Vì thế, chúng tôi chọn đề tài: “Đặc điểm ngôn
ngữ báo chí Phật giáo Việt Nam” làm đối tượng nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ báo chí
Báo chí luôn gắn liền với tính chất mới mẻ của thông tin, những thông tin

gần gũi trong cuộc sống. Khi được sự hỗ trợ của những tiến bộ khoa học công
nghệ, thì nhà báo phải cung cấp những thông tin chính xác, kịp thời, ngắn gọn,
khách quan, hấp dẫn, bên cạnh đó họ phải thấu hiểu từ ngữ, thông suốt chính tả,
ngữ pháp và sử dụng dấu câu.
Gaillard trong Nghề làm báo [12,tr41-50] đã trình bày vai trò của phóng
viên và toà soạn trong việc đưa tin. Theo ông người làm báo phải lựa chọn sự
kiện theo các tiêu chuẩn sau:
- Thời sự nóng hổi: Công chúng luôn chờ đợi lời giải đáp cho câu hỏi:
“có gì mới không?”
- Ý nghĩa: Áp dụng cho sự kiện và phạm vi tác động của sự kiện.
- Sự quan tâm: Ý nghĩa và tính thời sự của tin được công chúng quan tâm
ở mức độ nào?
Trong cuốn Nhà báo hiện đại [38] đã trình bày bản chất của tin tức ở thế
kỉ XXI, đáp ứng được nhu cầu của bạn đọc, thông tin phải có những tính chất
sau: tính tương tác, tính đa dạng, tính liên quan, hình thức bắt mắt,..
Ở Việt Nam những nghiên cứu sớm nhất về báo chí phải kể đến các bài
viết đăng trên báo, tạp chí từ nửa đầu thế kỷ XX, trong đó có Việt Nam văn học
sử yếu (1941) của Dương Quảng Hàm đã nêu lên tác dụng của báo chí là “thông
tin tin tức ở trong xứ và ban bố các mệnh lệnh của chính phủ, giúp cho việc
thành lập quốc văn, sáp nhập vào tiếng ta nhiều danh từ mới về triết học và
khoa học giúp cho sự thống nhất của tiếng nói ba kì” [15,tr 428]
2


Tác phẩm Biên tập ngôn ngữ sách và báo chí [3] đã nhìn nhận cấp độ
ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và đưa ra các quy tắc biên tập ở các cấp độ ngôn
ngữ. Cuốn Ngôn ngữ báo chí của Vũ Quang Hào đã đưa ra những đặc điểm
chung về ngôn ngữ chuẩn mực của báo chí và đặc điểm của phong cách báo chí
chính luận, phong cách ngôn ngữ trình bày về tên riêng, khoa học, phong cách
ngôn ngữ hành chính. Bên cạnh đó tít báo, thuật ngữ khoa học… [16]

Bên cạnh đó còn có các tạp chí Nghề báo [12] gồm nhiều chuyên đề
nghiệp vụ báo chí làm nổi bật các vấn đề cần lưu ý trong việc dùng ngôn ngữ
trên báo chí.
Về mặt tính chất của thông tin báo chí, ngoài việc khẳng định vai trò của
ngôn ngữ truyền thông, các tác giả đề xuất những kỹ năng tác nghiệp như lựa
chọn các sự kiện, kết cấu bài viết.
Liên quan đến lịch sử nghiên cứu vấn đề, cần kể thêm một số sách, luận
văn, luận ván nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí : Một số vấn đê về sử dụng ngôn
từ trên báo chí [1]; Báo chí Phật giáo tại Việt Nam- Thực trạng và vấn đề [14];
Luận bàn về thể loại báo chí [18]; Ngôn ngữ báo chí [23]; Cơ sở lý luận báo
chí truyền thông [30] và một số nghiên cứu có liên quan khác có thể kể ra như:
[8]; [10]; [25]; [26]…
2.2. Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ báo chí Phật giáo
Lịch sử nghiên cứu ngôn ngữ báo chí Phật giáo chưa có nhiều, mới chỉ có
một số nghiên cứu như: Báo chí Phật giáo Việt Nam từ điểm nhìn lý luận truyền
thông [32]; Tôn giáo và đời sống hiện đại [37]; Báo chí Phật giáo tại Việt
Nam- Thực trạng và vấn đề [14]; Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta và ảnh
hưởng của nó trong thế kỉ X-XIV [19]; Việt Nam Phật giáo sử luận [20]; Tôn
giáo và đời sống hiện đại [37].

3


Vì chưa có ai nghiên cứu báo chí Phật giáo dưới các bình diện ngữ
âm, từ vựng và ngữ dụng, nên chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là nhằm tìm ra những đặc điểm ngôn
ngữ riêng biệt và đặc thù chỉ có ở báo chí Phật giáo và cách dùng từ ngữ chưa
nhất quán, chưa chuẩn xác hoặc chưa phù hợp để có những đề xuất nhằm cải
thiện cách thức sử dụng ngôn ngữ trong báo chí Phật giáo.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Tập hợp những vấn đề về lý thuyết có liên quan đến đề tài.
- Thống kê, phân loại cách sử dụng ngôn ngữ trong việc truyền tải thông
tin tới công chúng trên các trang báo.
- Phân tích đánh giá đặc điểm ngôn ngữ báo chí Phật giáo.
5. Phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu
5.1. Các phương pháp
5.1.1. Phương pháp miêu tả
Phương pháp này được sử dụng nhằm miêu tả các đặc điểm ngôn ngữ
báo chí của Phật giáo, từ đó nhận diện được những đặc điểm riêng của ngôn
ngữ Phật giáo trên các phương tiện truyền thông hiện nay.
5.1.2. Phương pháp hệ thống hóa
Hệ thống các cách sử dụng ngôn ngữ khác nhau của từng trang báo và
giữa các trang báo với nhau.
5.2. Các thủ pháp
5.2.1. Thủ pháp so sánh
So sánh cách sử dụng ngôn ngữ trong báo chí Phật giáo giữa miền Bắc,
miền Trung và miền Nam ở Việt Nam.
4


5.2.2. Thủ pháp thống kê, phân loại.
Chúng tôi thống kê và phân loại số lượng, tần số xuất hiện của các hiện
tượng ngôn ngữ mang đặc thù của ngôn ngữ báo chí Phật giáo.
6. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi mà chúng tôi nghiên cứu là các bài báo được đăng trong 6 tháng
trở lại đây trên ba trang báo mạng, một trang thuộc miền Bắc, một trang thuộc
miền Trung và một trang thuộc miền Nam, gồm: Giáo hội Phật giáo Việt Nam
( và Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế

( Giác ngộ online ()
7. Đóng góp của khóa luận
- Khoá luận góp phần giúp báo chí Phật giáo có thêm cơ sở lý luận ngôn
ngữ học và báo chí học giúp việc truyền tải thông tin hiệu quả hơn đến độc giả.
- Chỉ ra những điểm hạn chế của các báo Phật giáo trong việc sử dụng
ngôn ngữ, việc trình bày và nội dung thông tin được mạch lạc hơn, giúp bạn đọc
nắm bắt được thông điệp của bài báo.
8. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, khóa luận
gồm 3 chương, như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý thuyết
Chƣơng 2: Đặc điểm ngữ âm, từ vựng của ngôn ngữ báo chí Phật giáo
Chƣơng 3: Lập luận trong ngôn ngữ báo chí Phật giáo

5


NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1.1. Phong cách ngôn ngữ báo chí
1.1.1. Các quan điểm về phong cách ngôn ngữ báo chí
Phong cách ngôn ngữ báo chí là phong cách ngôn ngữ được dùng trên các
văn bản báo chí dưới hình thức báo viết, báo nói và báo hình. Báo viết gồm các
ấn phẩm báo in. Báo nói là loại hình báo chí sử dụng tiếng nói, âm thanh được
truyền dẫn trên sóng phát thanh. Báo hình là các thông tin bằng hình ảnh được
phát sóng trên các kênh truyền hình. Ba loại hình này đều dùng ngôn ngữ làm
phương tiện chuyển tải thông tin đến độc giả.
Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ dùng để thông báo tin tức thời sự trong
nước và quốc tế, phản ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng. Ngôn

ngữ báo chí tồn tại ở hai dạng chính dạng nói và dạng viết trong các thể loại: tin,
bình luận, phỏng vấn, thời sự, trao đổi ý kiến, thư bạn đọc,... Để có thể đáp ứng
được nhu cầu thông tin thời sự về nhiều lĩnh vực thì ngôn ngữ báo chí sử dụng
các lớp từ toàn dân với cách diễn đạt ngắn ngọn, rõ ràng, dễ hiểu và theo chuẩn
mực chung của xã hội. Như vậy, ngôn ngữ báo chí chính là tin tức, sự kiện được
mã hóa trong các thông điệp mà tác giả muốn gửi tới độc giả. Do đó, ngôn ngữ
báo chí có nhiều đặc trưng riêng và nhiều yếu tố chi phối.
1.1.2 .Chức năng của ngôn ngữ báo chí
Chức năng ngôn ngữ báo chí mang những đặc điểm riêng, phân biệt với
các phong cách chức năng khác xét về phía ngôn ngữ. Điều này được thể hiện
ngay trong phong cách báo chí gồm: Chức năng thông báo, chức năng định

6


hướng dư luận, chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng, chức năng thẩm mĩ,
chức năng giáo dục,…
1.1.2.1.Chức năng thông báo
Thế giới vật chất ngày càng phong phú, đa dạng, các mối quan hệ của con
người ngày càng mở rộng, nhu cầu thông tin của con người ngày càng lớn, từ
nhu cầu đó nên báo chí ra đời. Trước hết ngôn ngữ báo chí phải đảm bảo tính
khách quan, trung thực trong việc phản ánh thông tin diễn ra trong thực tế. Vì
thế, báo chí trở thành món ăn tinh thần lành mạnh, giúp người tiếp nhận thông
tin mở rộng hiểu biết. Báo chí thực hiện chức năng thông báo nên ngôn ngữ phải
có tính khách quan, lý trí và cảm xúc cá nhân bị loại bỏ.
1.1.2.2. Chức năng định hướng dư luận
Ngôn ngữ báo chí có chức năng định hướng dư luận và tác động đến dư
luận, làm cho bạn đọc hiểu bản chất của sự vật, tin, ủng hộ và làm theo. Báo chí
định hướng dư luận thông qua hai phương thức cơ bản là thông tin và bình luận.
Báo chí thông tin nhanh, đẩy đủ, phong phú về các sự kiện, vấn đề thời sự

liên quan đến lợi ích của người dân, giúp họ nhận thức những gì đang diễn ra, từ
đó ý thức được vai trò, trách nhiệm và lợi ích của bản thân.
1.1.2.3. Chức năng tập hợp và tổ chức quần chúng
Báo chí là cơ quan ngôn luận của Đảng và Nhà nước, ngôn ngữ báo chí có
khả năng tập hợp và tổ chức quần chúng. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, báo chí
góp phần tạo ra sức mạnh tinh thần to lớn để có thể chuyển hoá thành sức mạnh
vật chất. Để thực hiện chức năng này, ngôn ngữ báo chí thường dùng các câu
kêu gọi, câu mệnh lệnh.
1.1.2.4. Chức năng thẩm mỹ
Để thực hiện được chức năng thẩm mỹ thì ngôn ngữ báo chí phải được
chọn lọc nhằm đảm bảo nguyên tắc về thẩm mỹ. Bên cạnh đó, tác giả phải tìm
7


tòi và sáng tạo, lựa chọn từ ngữ để bài viết mang dấu ấn riêng, như vậy báo chí
mới hấp dẫn lôi cuốn được độc giả.
1.1.2.5. Chức năng giáo dục
Chức năng giáo dục thực hiện hiệu quả nhiệm vụ quan trọng là phổ biến
kiến thức, truyền tải nội dung giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh cho quần
chúng nhân dân.
1.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ báo chí
1.1.3.1. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ sự kiện
Sự kiện là thông tin mà tác giả muốn truyền tải còn độc giả muốn tìm
hiểu. Trong tờ báo bất kì, có thể dễ dàng liệt kê hàng loạt các sự kiện. Ngôn ngữ
báo chí được gọt giũa và chắt lọc vì số lượng chữ bị giới hạn và quy định nghiêm
ngặt. Nhắc đến sự kiện mọi người thường nhắc tới mô hình 5W+H:
WHAT? (Chuyện gì xảy ra?)
Where? (Xảy ra ở đâu?)
When? (Xảy ra khi nào?)
Who? (Ai liên quan?)

Why? (Tại sao chuyện đó xảy ra?)
How? (Chuyện xảy ra như thế nào?)
Ngôn ngữ báo chí phản ánh chứng kiến của tờ báo và dư luận quần
chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
1.1.3.2. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự tương tác
Tính tương tác của báo chí được thể hiện khá đa dạng và phong phú:
tương tác giữa sự kiện xảy ra với quan điểm của người viết và toà soạn; giữa bài
báo với độc giả; đặc biệt là ngôn ngữ của sự tương tác từ chính các bài báo như
tương tác giữa công luận với sự kiện được nêu ra, điều đó đã đáp ứng được tính
cộng đồng của báo chí. Các sự kiện trên báo đều có hàng vạn người đọc, thuộc
8


các tầng lớp xã hội khác nhau. Chính vì thế, mỗi người làm báo phải đặt mình
vào độc giả để viết. Sự tương tác trong báo chí đã làm tăng cường mối quan hệ
giữa báo chí với công chúng, thu hút sự quan tâm của bạn đọc đến với các
phương tiện truyền thông. Sự trao đổi tương tác này càng nhiều thì quá trình
truyền thông đạt hiệu quả càng cao.
Từ yêu cầu trên, mà ngôn ngữ báo chí phải là ngôn ngữ của cộng đồng đã
được cân nhắc lựa chọn cẩn thận. Điều này giúp cho ngôn ngữ báo chí thực sự có
tiếng nói của cả cộng đồng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của báo chí
đó là nhận diện những vướng mắc và đề xuất cách tháo gỡ, vì có những thứ báo
phải đấu tranh, thuyết phục, gợi mở và phản biện.
1.1.3.3. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính ngắn gọn và biểu cảm
Nói đến báo chí là nói tới đặc điểm ngắn gọn. Tính ngắn gọn của ngôn
ngữ báo cũng là yêu cầu tất yếu xuất phát từ chức năng cơ bản của báo chí là đưa
ra những thông tin nhanh, kịp thời đến bạn đọc. Muốn đưa ra những thông tin
nhanh, nhiều và để bài báo đa dạng phong phú, thì những nét rườm rà trong báo
chí phải loại bỏ. Điều này được thể hiện rất rõ nét trong việc sử dụng các cấu
trúc cú pháp đơn giản do đó rất ít gặp các câu trùng điệp nhiều thành phần, với

các từ ngữ chính xác về nghĩa, không dùng lối viết vòng vo. Bởi vì cái đích của
báo chí là tác động vào lòng người nên tính biểu cảm đáp ứng chức năng tác
động, tổ chức và tập hợp quần chúng.
1.1.3.4. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ có tính chiến đấu mạnh mẽ
Báo chí là diễn đàn bộc lộ, phản ánh quan điểm, thái độ khác nhau, thậm
chí đối lập nhau về sự kiện. Do đó, mỗi tờ báo đều có tôn chỉ, mục đích riêng;
mỗi tờ lại đại diện cho tiếng nói của một nhóm người, một tầng lớp xã hội nào
đó. Vì vậy, không phải lúc nào quyền lợi của những tầng lớp xã hội khác nhau

9


cũng như nhau. Bởi thế, báo chí ra đời hoạt động rất đắc lực, trực tiếp phục vụ
cho tầng lớp xã hội đó. Cho nên, tạo ra tính chiến đấu của báo chí.
Tính chiến đấu của báo chí được hình thành từ những lập luận đanh thép
thuyết phục, từ các biện pháp tu từ nhằm châm biếm, công kích và tiến tới phủ
định đối tượng. Trong đó việc sử dụng ngôn ngữ để xây dựng các hình ảnh tương
phản, các mệnh đề khẳng định của báo chí có vai trò hết sức quan trọng. Tính
chiến đấu trong ngôn ngữ góp phần tạo ra sự ổn định và phát triển của xã hội
trên mặt trận chính trị, tư tưởng.
1.1.3.5. Ngôn ngữ báo chí là ngôn ngữ của sự hấp dẫn và thuyết phục
Tính hấp dẫn và thuyết phục của ngôn ngữ báo chí có thể coi là một trong
những yếu tố quyết định sự tồn tại của nó. Báo chí ngày càng phát triển, cuộc
cạnh tranh bạn đọc diễn ra càng quyết liệt thì yêu cầu về tính hấp dẫn và thuyết
phục ngày càng cao. Đặc điểm đó được thể hiện qua các phương diện:
Về nội dung, thông tin được đưa ra phải mới lạ, đa dạng và phong phú,
đồng thời thông tin đó được đưa tin nhanh, chính xác và có tính cập nhật.
Về hình thức, ngôn ngữ trong bài báo phải có sức lôi cuốn. Tính hấp dẫn
thể hiện về mặt ngôn từ, tuỳ theo thể loại và dụng ý của người viết mà họ lựa
chọn từ ngữ, kết cấu câu thích hợp. Đặc biệt cách tạo kiểu câu bất ngờ gây ấn

tượng về ngữ nghĩa có tác dụng lớn tới sự cảm nhận và tri giác của độc giả.
1.1.4. Một số thể loại báo chí tiêu biểu
Theo tiến trình lịch sử phát triển của báo chí, các thể loại dần được hình
thành phù hợp với nội dung, mục đích của tờ báo. Các cách thức phản ánh sự
kiện, hiện tượng, các hình thức trình bày tư liệu đã đáp ứng nhu cầu hoạt động,
nhiệm vụ của nhà báo và các cơ quan báo chí. Chính điều đó đã tạo nên tính chất
và đặc điểm nhất định của báo chí mà ta thường gọi là thể loại.

10


Tác giả Đinh Hường [18] cho rằng: “Thể loại báo chí là hình thức biểu
hiện cơ bản, thống nhất và tương đối ổn định của các bài báo, được phân chia
theo hình thức phản ánh hiện thực, sử dụng ngôn ngữ và các công cụ khác nhau
để chuyển tải nội dung mang tính chính trị, tư tưởng nhất định”.
Ở Việt Nam phân chia thể loại báo chí theo thống kê chưa đầy đủ nhưng
đã có tới 5-6 quan điểm khác nhau. Đức Dũng (1996) đã phân chia hệ thống thể
loại báo chí ở nước ta thành 3 loại thể: nhóm thông tấn báo chí, nhóm chính luận
báo chí và nhóm ký báo chí. Ông lý giải, hệ thống thể loại báo chí được hình
thành bởi 3 loại thể trên sẽ đáp ứng được yêu cầu thông tin thời sự và là hạt nhân
của thông tin báo chí.
Trong khoá luận này, chúng tôi cho rằng báo chí gồm các loại thể sau:
1.1.4.1. Loại thể thông tấn báo chí: tin, phỏng vấn, tường thuật, điều tra.
Các thể loại báo chí thông tấn có thế mạnh phản ánh, thông báo kịp thời,
nhanh chóng các sự kiện vấn đề vừa xảy ra, đang và sắp xảy ra trong cuộc sống
hàng ngày vì thế thông tin là mục đích cuối cùng. Sự kiện được thông tin trong
từng thể loại ở nhiều mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào lớp thông tin mà tác giả có
được. Nhưng đã là thông tin báo chí dù là cấp độ nào thì cũng phải có tính thời
sự, chính xác và khách quan và phải cung cấp sự kiện mới lạ, hấp dẫn.
Tin là thể loại cơ bản nhất trong loại thể này, bởi nó có khả năng thông tin

một cách nhanh nhất, sớm nhất, với hình thức gắn gọn chặt chẽ về các sự việc,
sự kiện xảy ra. Chính điều này đã giúp tin trở thành thể loại hạt nhân trong loại
thể thông tấn báo chí nói riêng và trong toàn bộ hệ thống thể loại báo chí nói
chung.
1.1.4.2. Loại thể chính luận báo chí: xã luận, bình luận, chuyên luận
Các thể loại báo chí trong loại thể này có nhiệm vụ đánh giá, phân tích,
giải thích, bàn luận về những sự thật của đời sống. Người viết các thể loại trong
11


nhóm này phải huy động kinh nghiệm, trí tuệ, kiến thức tổng hợp, kết hợp tư duy
khoa học và tư duy logic, các luận cứ luận chứng chặt chẽ trong mạch tư duy
nhất quán để lý giải vấn đề. Vì thế mà thế mạnh của các thể loại này là khả năng
thông tin lý lẽ, dẫn chứng thuyết phục mà vẫn đảm bảo được thông tin gắn với
những sự kiện thời sự. Có thể nói, mô hình lập luận: luận cứ- luận chứng- luận
điểm là mô hình chung cho các thể loại thuộc loại thể chính luận báo chí.
1.1.4.3. Loại thể chính luận - nghệ thuật: ký, phóng sự, tiểu phẩm, ghi
nhanh,câu chuyện báo chí
Nhóm này gồm các thể loại kết hợp yếu tố chính luận của báo chí (tư liệu,
số liệu, sự kiện, nhân vật, lý lẽ,…) với các yếu tố của văn học nghệ thuật (ngôn
ngữ, hình ảnh, cảm xúc, khái quát, so sánh và các thủ pháp khác) để thể hiện tác
phẩm sinh động sâu sắc, mềm mại và hấp dẫn đối với công chúng. Các sự kiện,
hiện tượng trong đời sống xã hội được phản ánh một cách sinh động, hấp dẫn
bằng việc sử dụng hình ảnh, cảm xúc và ngôn từ như: ẩn dụ, hoán dụ, so
sánh,…Đặc điểm này tạo cho người viết có điều kiện tiếp cận các yếu tố văn
học, nghệ thuật, thể hiện cách viết sinh động và hấp dẫn.
Việc sử dụng bút pháp nghệ thuật trong nhóm thể loại này có tác dụng
tăng thêm tính hấp dẫn của tác phẩm. Có thể nói đây là một trong những thể loại
có sự giao thoa đậm nét nhất chất văn trong báo chí. Trong số các thể loại của
chính luận- nghệ thuật thì phóng sự được xếp ở vị trí đầu tiên và được coi như

thể loại đóng vai trò hạt nhân của toàn bộ loại thể.
Ba nhóm với các thể loại cơ bản trên đã hợp thành hệ thống thể loại báo
chí tương đối hoàn chỉnh. Phân chia các nhóm, các thể loại nói trên chủ yếu dựa
vào đặc điểm, tính trội của từng thể loại và cũng chỉ tương đối thôi.

12


1.2. Phật giáo và báo chí Phật giáo
1.2.1. Giới thiệu về Phật giáo ở Việt Nam
1.2.1.1. Nguồn gốc của Phật giáo ở Việt Nam
- Nguồn gốc nguyên thuỷ từ Ấn Độ của Phật giáo Việt Nam
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên được
truyền trực tiếp từ Ấn Độ chứ không phải từ Trung Hoa. Một số nhà nghiên cứu
chuyên sâu về Phật giáo đã khẳng định điều này[19]. Theo Lê Tuấn Huy vào đầu
công nguyên, Ấn Độ đã có được sự giao thương mạnh mẽ với Trung Đông và
giao thương gián tiếp với vùng Địa Trung Hải, họ cần có một nguồn cung cấp
nguyên vật liệu, vật phẩm phục vụ cho việc giao thương. Người Ấn Độ đã theo
gió mùa tây nam đi đến Giao Chỉ, khi đợi gió mùa đông bắc để quay về Ấn Độ,
một số thương gia đã lan truyền nét văn hoá Ấn Độ, trong đó có việc thờ cúng
Phật, tụng kinh,…Những người tăng lữ đi cùng làm công việc cầu khấn sự phù
trợ của đức Phật và là những người trực tiếp truyền bá Phật học, lập nên trung
tâm Phật giáo Luy Lâu.
Một số chứng liệu khác cũng đã củng cố nguồn gốc khởi thuỷ sớm từ Ấn
Độ của Phật giáo Việt Nam so với Phật giáo Trung Hoa: Thời nhà Hán, Khổng
và Lão giáo, đặc biệt là Khổng giáo đã rất mạnh, giới tri thức Khổng, Lão đã
chống lại Phật giáo. Do đó, Phật giáo rất khó để xâm nhập, trong khi đó ở Giao
Châu, Phật giáo lại rất phù hợp với tín ngưỡng phong tục dân gian nên việc xâm
nhập không có gì gặp trở ngại. Thời kì đó đã có đường bộ từ Trung Hoa đến Ấn
Độ nhưng con đường xuyên Trung Á chứa đựng nhiều nguy hiểm. Có thể thấy

rằng vào cuối thế kỉ thứ tư, Pháp Hiển mới từ Trung Hoa sang Ấn và đến tận thế
kỉ thứ bảy, Huyền Trang (Đường Tăng) đã phải trải qua không biết bao nhiêu
khó khăn và vất vả mới đi trọn vẹn con đường.

13


Đồng thời còn hai chứng liệu rất quan trọng về nguồn gốc rất sớm của
Phật giáo Việt Nam là Tập luận thuyết Phật giáo đầu tiên bằng Hán tự, Lý hoặc
luận của Mâu Tử (165?-170?) đã được viết ở Giao Chỉ. Vào thế kỉ thứ hai, ở đất
này đã có một tăng đoàn gồm 500 vị và khoảng 15 bộ kinh trong khi đó đến kỷ
thứ ba ở Hán mới có tăng đoàn.
- Sự du nhập từ Phật giáo phương Bắc
Từ thế kỉ thứ ba, Phật giáo tại Giao Châu phát triển mạnh mẽ với sự xuất
hiện của Tăng Hội (?- 280) là một thiền sư sinh tại Giao Chỉ và được xem là vị
thiền sư đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Tăng Hội là
ông tổ của Thiền học Việt Nam là người đầu tiên đem thiền học phát huy ở
Trung Hoa (Tăng Hội đã ở trên đất Ngô từ năm 255 đến 280).
Thiền định Việt Nam xuất hiện ở Giao Chỉ từ trước Tăng Hội. Trong Tứ
thập nhị chương đã nhắc đến “quán thiên địa, niệm vô thường” đây là một phép
thiền và được gọi là Vô thường quán. Đến thế kỉ thứ ba, Phật giáo phương Bắc
hình thành những trung tâm muộn hơn nhưng tác động ngược lại Phật giáo Giao
Chỉ. Sử sách đã ghi nhận kinh sách về thiền đã được đem từ Lạc Dương xuống
và được Tăng Hội học tập, lĩnh hội tư tưởng Phật giáo Đại thừa Trung Hoa.
Sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam cơ bản hoàn thành trước thế kỉ
thứ X, khi có sự du nhập trực tiếp từ Ấn Độ cộng với sự ảnh hưởng của Phật
giáo Đại thừa từ phương Bắc đã sản sinh, hình thành nền thiền học Việt Nam với
những thiền phái đầu tiên rất lớn mạnh. Từ đây đã tạo một tiền đề vững vàng cho
sự phát triển của Phật giáo Việt Nam, đỉnh điểm là giai đoạn thế kỉ X-XIV, theo
Nguyễn Lang [19].

1.2.1.2.Sự phát triển của Phật giáo ở Việt Nam thời hội nhập
Ngày này, Phật giáo Việt Nam đang đứng trước một trào lưu mới, đó là
trào lưu đất nước đang bước vào ngưỡng cửa hội nhập quốc tế theo xu hướng
14


toàn cầu. Phật giáo nước ta đã bày tỏ lòng hiếu khách đối với chư pháp hữu trên
toàn thế giới, chia sẻ hoằng pháp với Tăng ni và Phật tử Việt Kiều, tại Đại lễ
Phật Đản Liên Hiệp Quốc.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2007-2012, Giáo hội
Phật giáo Việt Nam đã công bố hiến chương tu chỉnh gồm 10 chương, 52 điều.
Điều này đã chính là tiền đề để Giáo hội thực hiện theo phương châm: “Đạo
pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”. Bên cạnh đó khẳng định “Tính kế thừa lịch
sử gần 2000 năm hoằng pháp độ sinh của Phật giáo Việt Nam, đỉnh cao của thời
đại thống nhất Phật giáo cả nước”. Điều này, thể hiện sự quan tâm đến các Tăng
ni và đồng bào Phật tử đang ở nước ngoài.
Sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức WTO thì Phật giáo cũng đã tích cực
chuyển mình theo hướng hội nhập. Khi Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu hội
nhập và phát triển thì tinh thần giáo điển của Đức Thế Tôn là xây dựng một xã
hội phát triển cùng với hiểu biết và thương yêu nhau.
Hiện nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tạo mọi điều kiện cho những
người con Phật có cơ hội và điều kiện để sinh hoạt Phật pháp như giáo dục,
hoằng pháp, từ thiện xã hội, kinh tế tài chính, văn hoá tư tưởng, giao lưu quốc
tế…Ngoài ra, Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đã tổ chức những buổi Hội thảo
chuyên ngành, những vấn đề trọng đại của Phật giáo, qua đó để nêu những giá trị
văn hoá, tư tưởng, cũng như những thành tựu đã được trong quá trình hội nhập
và phát triển của Phật giáo Việt Nam. Bên cạnh đó, Phật giáo còn thành lập
những diễn đàn điện tử, chuyền tải tiếng nói của Phật đến khắp nơi nhằm tạo
được sự chú ý, quan tâm của nhiều đối tượng trong xã hội, góp phần vào việc
bảo tồn và tuyên truyền chánh pháp.

Phật giáo Việt Nam hội nhập và phát triển lấy việc vận dụng tinh thần giáo
điển của đức Phật trong cuộc sống, lấy tinh thần Từ bi và Trí tuệ làm đầu để
15


không làm đánh mất đi giá trị của Phật giáo. Đồng thời tinh thần đoàn kết của
Phật giáo còn được thể hiện trong sự gắn kết chặt chẽ giữa Đạo pháp và Dân tộc.
Điều đó đã nêu cao tinh thần hoà hợp, đoàn kết với nhau như các bộ phận gắn
liền với nhau trong một cơ thể thống nhất. Đây được gọi là sách lược hội nhập
quan trọng của Phật giáo Việt Nam trong thời kì hội nhập và phát tiển ngày nay.
1.2.2. Báo chí Phật giáo
1.2.2.1. Các phương tiện truyền thông của Phật giáo hiện nay
Truyền thông Phật giáo là vấn đề đang được Giáo hội Phật giáo Việt Nam
rất quan tâm, tích cực thúc đẩy phát triển. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều tờ
báo, trang in điện tử ra đời nhằm thực hiện xứ mệnh cao cả của Phật giáo. Có thể
kể ra một số tờ báo của Phật giáo dưới đây:
- Nhóm báo in
Tuần báo Giác Ngộ, Nguyệt san Giác Ngộ, Nội san Hoằng pháp (Hà Nội),
Nội san Phật học Hoa Từ (Ninh Thuận), Hương sen (Bình Dương), Hương Từ Bi
(Đak Nông), Nội san Vô Ưu (Đak Lak), Nội san Quảng Đức (Khánh Hoà), Nội
san Như hoa Ưu Đàm chùa Hoà Khánh (Q.Bình Thạnh),…
- Nhóm báo điện tử
Các trang báo điện tử (website) của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt
Nam, Giác Ngộ, Bình Dương, Kiên Giang, Bạc Liêu, Phú Yên, Trung tâm Liễu
Quán, Phật giáo A Lưới, Ban hướng dẫn Phật tử Trung ương, Gia đình Phật tử
Việt Nam Net, Ban từ thiện xã hội Trung ương,…
- Nhóm các tạp chí
Tạp chí Văn hoá Phật giáo, Tạp chí Nghiên cứu Phật học của Phân viện
Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Phật học Khuông Việt; Tạp
chí Phật giáo Nguyên thuỷ;…


16


Ngoài ra còn phải kể đến kênh truyền hình An Viên, đã thường xuyên phát
sóng các hoạt động Phật tử.
1.2.2.2. Định hướng truyền thông của Phật giáo
Giáo hội Phật giáo hiện nay đang đứng trước những thay đổi của xã hội
hiện tại nên rất cần nhận được sự hỗ trợ của truyền thông trong công tác quản lý,
hoạt động. Ông Phạm Nhật Vũ, Phó trưởng ban Thường trực Ban Truyền thông
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có sự chia sẻ về vấn đề truyền thông của Phật
giáo [36]: Trước tiên phải khẳng định đạo Phật là đạo của lòng Từ bi, của Hoà
bình. Do vậy, Ban truyền thông cần định hướng đại chúng làm lành, tránh ác.
Làm những điều tốt đẹp, có lợi cho số đông và tránh đi những điều xấu xa,
những điều có hại. Những nỗ lực, cố gắng thực đó sẽ góp phần đảm bảo cho
cuộc sống được an lành, xã hội được phồn thịnh.
Ban Truyền thông cần phải làm tốt việc tiếp nhận cũng như cung cấp
những thông tin kịp thời tới các ban, ngành của Giáo hội, đến từng Tăng ni, cư
sĩ. Tăng cường việc truyền thông giúp cho tất cả mọi người đang ở trong hay
ngoài Giáo hội cũng luôn hoà hợp và giữ vững đoàn kết. Đồng thời, việc thực
hiện tốt các công tác thông tin truyền thông để phật tử trên thế giới đều hiểu rõ
được về những diễn biến thực tế của đạo Phật tại Việt Nam. Đó là việc cung cấp
thông tin một cách chính xác, kịp thời, minh bạch thông tin, để tránh những sự
phá hoại bằng cách kích động, gây ra chia rẽ giữa Nhà nước và Phật giáo…Cần
phải bác bỏ những luận điệu của các thế lực xấu, làm xấu hình ảnh của các chư
Tăng ni nói riêng và của Tăng đoàn nói chung. Như vậy thì chúng ta mới giữ
vững được lòng tin của mọi người với Tam Bảo.
1.2.2.3. Chức năng của báo chí Phật giáo
Từ khi báo chí xuất hiện ở Việt Nam, Phật giáo đã sớm quan tâm đến các
hoạt động báo chí, coi báo chí là công cụ đắc lực để tuyên truyền, thuyết giảng

17


×