DẪN NHẬP
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Từ những năm đầu thế kỷ XX, các tạp chí, tờ báo Phật giáo nối
nhau ra đời, như Từ bi âm, Duy tâm, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng chuông
sớm v.v góp phần không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo
cũng như cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc. Chọn đề tài Văn học
và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm 1945 để
nghiên cứu, chúng tôi hy vọng có thể tìm về cội nguồn báo chí Phật
giáo, hiểu được văn học và tư tưởng Phật học giai đoạn này, từ đó hy
vọng có thể khơi dậy những giá trị tinh hoa của Phật giáo và của dân
tộc từ xưa đã được tạo nên.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử báo
chí Việt Nam trước 1945. Trong đó, có không ít công trình đề cập về
lịch sử báo chí Phật giáo.
Các công trình nghiên cứu về sự hình thành, phát triển của báo chí
Phật giáo trước 1945 và khái quát những cuộc tìm hiểu, trao đổi về tư
tưởng Phật học trên báo chí Phật giáo, gồm có: Báo chí tôn giáo tại
Việt Nam của Nguyễn Văn Ẩn (1972) (Khảo luận tốt nghiệp, ban Báo
chí học, phân khoa VH&KHNV, Viện Đại học Vạn Hạnh); Việt Nam
Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (tập III) (2000); Triết học và tư
tưởng của giáo sư Trần Văn Giàu (1988); Báo chí Phật giáo với phong
trào Chấn hưng Phật giáo (1930-1945) của Thích Thanh Đạt (1994)
(Luận văn tốt nghiệp cử nhân Sử học, Đại học Tổng hợp Hà Nội);
Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt Nam
từ 1927-1938) của Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (2008).
Nguyễn Lang đã đề cập khá chi tiết về tôn chỉ hoạt động và những
đóng góp chung của báo chí Phật giáo đối với Phật giáo và dân tộc nửa
đầu thế kỷ XX. Giáo sư Trần Văn Giàu đã đánh giá cao tư tưởng yêu
nước, khoa học của nhiều tờ báo, tạp chí, sách vở Phật giáo giai đoạn
này.
Những công trình nghiên cứu về sự ra đời, tồn tại và kết thúc của
báo chí Phật giáo trước 1945, gồm có: Báo chí Việt Nam từ khởi thủy
đến 1945 của Huỳnh Văn Tòng (2000); Lịch sử báo chí Việt Nam
1865-1945 (2000) do Đỗ Quang Hưng chủ biên; Lược khảo Báo chí
2
Phật giáo Việt Nam (1929-2008) của Nguyễn Đại Đồng (2008) cùng
các bài viết: “Tạp chí Viên âm”, “Tạp chí Đuốc tuệ” trên tạp chí
Nghiên cứu Phật học (2009), “Tạp chí Duy tâm Phật học” trên nguyệt
san Giác ngộ (2011).
Công trình của Nguyễn Đại Đồng đã liệt kê khá chi tiết hoàn cảnh
ra đời, các nhà lãnh đạo, các hoạt động và khái quát một số nội dung
tiêu biểu được đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945. Hai công trình
của Huỳnh Văn Tòng và Đỗ Quang Hưng đã thống kê đầy đủ danh
mục báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945. Đây chính là tiền đề giúp
chúng tôi dễ dàng triển khai các nội dung chính trong luận án của mình.
Công trình Báo chí ở Thành phố Hồ Minh của Trương Ngọc Tường,
Nguyễn Ngọc Phan (2007) đã cho biết tạp chí Quốc ngữ Phật giáo đầu
tiên được xuất bản ở Sài Gòn là Pháp âm, đồng thời các tác giả còn đề
cập vai trò của nhà báo Xích Liên (sư Thiện Chiếu) đối với sự nghiệp
chấn hưng và sự nghiệp báo chí Phật giáo. Những công trình: Việt Nam:
Những sự kiện lịch sử (1919-1945) của Dương Trung Quốc (2005);
Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng và vấn đề của Lê Thị
Hồng Hạnh (2010) (Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH và
NV, ĐHQG Hà Nội) đã chỉ ra được sự hiện hữu và ảnh hưởng của báo
chí Phật giáo trong đời sống xã hội.
Ngoài ra, các bài viết trên báo mạng như: “Báo chí Phật giáo: Vấn
đề hội nhập và phát triển” của Thích Thiện Bảo (2000) (website
daophatngaynay.com); “Sơ lược lịch sử báo chí Phật giáo Việt Nam”
của Trần Kiêm Đạt (2008) (website phattuvietnam.net) cũng đã trình
bày khái lược diện mạo một số tạp chí, tờ báo Phật giáo trước 1945.
Đồng thời, bài viết “Báo xuân Phật giáo xưa” của Nguyễn Ngọc Phan
(2012) (website khoavanhoc-ngonngu.edu.vn) đã khẳng định rằng báo
chí Phật giáo trong sự nghiệp xiển dương Phật pháp và chấn hưng Phật
giáo luôn gắn liền với nhân sinh thời cuộc, bộc lộ những ưu tư trăn trở
trước hoàn cảnh mất nước và sự cùng khổ của đồng bào.
Nhìn chung, mỗi công trình là một sự nỗ lực và đóng góp đáng kể
vào nền văn học Việt Nam nói chung, về phương diện báo chí và báo
chí Phật giáo Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào đề
cập cụ thể và toàn diện về diện mạo, giá trị và đặc điểm của báo chí
3
Phật giáo giai đoạn trước 1945 trên các lĩnh vực Phật học, văn học, văn
hóa tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội v.v
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam
trước năm 1945, chúng tôi muốn giới thiệu một cách hệ thống, toàn
diện về báo chí Phật giáo trước 1945. Trên cơ sở đó luận án sẽ trình
bày những vấn đề Phật học và văn học trên bộ phận báo chí ấy. Về
Phật học, luận án sẽ trình bày về các phương diện: tư tưởng đạo đức,
thế giới quan Phật giáo, quan hệ Phật giáo với dân tộc và đại chúng…
Về văn học, luận án trình bày những đặc điểm về nội dung và nghệ
thuật của văn học Phật giáo Việt Nam trong giai này gồm các thể loại
thơ, văn xuôi, dịch văn học.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 rất phong phú và đa dạng,
nhưng trong phạm vi nghiên cứu, luận án sẽ chỉ tập trung vào các vấn
đề Phật học và văn học tiêu biểu trên báo chí Phật giáo từ đầu TK.XX
đến 1945.
Đối tượng chủ yếu chúng tôi chọn khảo sát là báo chí Phật giáo
Việt Nam trước 1945, bao gồm các tạp chí: Pháp âm (1929), Phật hóa
Tân Thanh niên (1929), Từ bi âm (1932-1945), Viên âm (1933-1945),
Duy tâm Phật học (1935-1943), Tiếng chuông sớm (1935-1936), Bồ đề
(1936), Bác (Bát) nhã âm (1936-1943), Pháp âm Phật học (1937-
1938), Tam bảo (1937-1938), Tiến hóa (1938-1941), Quan âm (1938-
1943), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941) và các tờ báo: Đuốc tuệ (1935-
1945), Tinh tiến (1945).
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, bước đầu chúng tôi sử dụng các phương pháp
và thao tác nghiên cứu: Khảo sát, sưu tầm, thống kê, phân loại, hệ
thống, lịch sử xã hội. Đặc biệt, luận án sử dụng xuyên suốt các phương
pháp phân tích - so sánh - tổng hợp.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
- Giới thiệu một cách có hệ thống tình hình báo chí Phật giáo trước
1945. Xác định lại năm ra đời, năm kết thúc, mục đích tôn chỉ, ban biên
tập của từng tờ báo, tạp chí Phật giáo.
4
- Trình bày một cách có hệ thống, tường minh về các vấn đề Phật học
và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945.
- Luận án có thể góp phần vào việc tìm lại giá trị của báo chí Phật
giáo trước 1945, những đóng góp của báo chí Phật giáo đối với đời sống
tinh thần của dân tộc.
7. GIỚI THIỆU CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần mục lục, dẫn nhập, kết luận, danh mục báo chí Phật giáo
và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương. Để người đọc tiện tham
khảo, luận án còn có phần phụ lục giới thiệu một số hình ảnh báo chí
Phật giáo, tổng thư mục thơ và văn trên báo chí Phật giáo trước 1945.
Chương 1
PHẬT GIÁO VÀ BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
1.1. PHẬT GIÁO VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX
Sau khi bình định được Việt Nam, chính quyền Pháp vì muốn loại
trừ ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, nên đã quyết tâm loại bỏ chữ
Hán mà thay bằng chữ Pháp. Chúng đã cố tình loại trừ dần văn hóa dân
tộc và thay vào đó là văn hóa của phương Tây. Các khái niệm yêu
nước, trung quân, đạo đức tôn giáo, phong tục tập quán, tín ngưỡng…
đều bị phê phán là lạc hậu, lỗi thời. Đạo Phật hầu như bị gạt ra ngoài lề
đời sống của xã hội đương thời.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hưng Phật giáo
Giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, những biến động lịch sử
trong nước về các cuộc khởi nghĩa chống Pháp thất bại và những tư
tưởng về phong trào duy tân của các nhân sĩ trí thức yêu nước đã tác
động mạnh mẽ vào phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam. Nhiều
nhà nho chí sĩ đã đánh giá cao vai trò của Phật giáo truyền thống đối
với sự phát triển xã hội.
Nhìn rộng ra châu Á, phong trào Chấn hưng Phật giáo cũng diễn ra
tại nhiều nước như Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc… nhằm khôi phục
các giá trị của Phật giáo, chấn hưng Phật học. Phong trào Chấn hưng
5
Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ từ những
tư tưởng cải cách Phật giáo Trung Quốc của Hòa thượng Thái Hư.
Mặt khác, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam càng mạnh
hơn là do những năm đầu thế kỷ XX, Phật giáo còn đối diện với sự ra
đời của nhiều tôn giáo mới ở Việt Nam như Tin Lành, Cao Đài, Hòa
Hảo v.v
Một phương diện khác của tình hình: trước đó và cả giai đoạn này,
có lúc có nơi sự suy giảm uy tín của Phật giáo đối với dân chúng khá
rõ. Một bộ phận của giới Tăng sĩ không còn chuyên tâm tu hành đúng
chánh pháp, chỉ chuyên lo ứng phó để kiếm lợi và hành trì tín ngưỡng
dân gian cầu vinh.
Trước bối cảnh trong và ngoài nước như thế, nhiều tăng sĩ cùng
những nhân sĩ trí thức yêu nước, mến đạo, có nhiệt tâm đã tìm mọi
cách chấn hưng Phật giáo, để khôi phục lại truyền thống tín ngưỡng,
những đạo lý và phong tục tập quán của dân tộc, đồng thời qua đó
đoàn kết tập hợp lực lượng để chống Pháp, giành độc lập cho dân tộc.
1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo
Trong luận án, chúng tôi nghiên cứu và lần lược trình bày quá trình
thành lập và hoạt động của các tổ chức Phật giáo, cụ thể gồm có:
1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ (Từ trang 18
đến trang 23)
1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ (Từ trang 23
đến trang 27)
1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ (Từ trang 27
đến trang 29)
Trên cở sở tìm hiểu những hoạt động của phong trào Chấn hưng
Phật giáo ở ba miền đất nước, nhìn chung chúng tôi thấy có những
điểm nổi trội chung nhất và khác biệt sau đây:
- Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam được khởi xướng từ
Nam Kỳ, sau đó mới tác động đến sự ra đời của phong trào Chấn hưng
Phật giáo ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
- Những hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ
được phát triển rộng rãi khắp các vùng và mạnh hơn Trung Kỳ, Bắc
Kỳ. Các Hội Phật học ra đời ở Nam Kỳ cũng nhi
ều nhất, gồm: Hội
6
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học (1931) tại Sài Gòn, Hội Phật giáo Liên
hữu tại Long Xuyên (1932), Hội Lưỡng Xuyên Phật học (1934), Hội
Phật giáo Tương Tế ở Sóc Trăng (1934), Hội Thiên Thai Thiền giáo
tông liên hữu ở Bà Rịa (1934). Ở Trung Kỳ chỉ có 3 Hội được thành
lập: Hội An Nam Phật học (1932) tại Huế, Hội Phật học Bình Định
(1932), Hội Đà Thành Phật học tại Đà Nẳng (1935) và một Đoàn
Thanh niên Phật học Đức Dục cũng được hình thành (1940). Ở Bắc Kỳ
có 3 Hội được thành lập: Hội Phật giáo Bắc Kỳ (1934), Hội Bắc Kỳ Cổ
sơn môn (1934), Hội Thanh niên Phật tử Việt Nam (1943).
- Các tổ chức Phật giáo được thành lập dưới hình thức các Hội ở ba
miền. Tùy theo khả năng và điều kiện của từng vùng miền, mỗi Hội
đều đề ra đường hướng, phương thức hoạt động, quy chế, nội quy riêng
cho tổ chức của mình. Điểm chung nhất là các Hội đều mở trường, lớp
Phật học để đào tạo tăng tài, tổ chức các đạo tràng để thuyết giảng Phật
pháp, xuất bản báo chí, phổ cập giáo lý đến đồng bào Phật tử các giới
bằng cách in ấn, biên dịch kinh sách chữ Hán ra chữ Quốc ngữ.
- Ở ba miền đều có sự tham gia đóng góp tích cực trong việc truyền
bá tư tưởng Phật học và đường hướng chấn hưng Phật giáo của hai đối
tượng: tăng sĩ và những nhà trí thức.
1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo
Những thành tựu nổi bật nhất của phong trào Chấn hưng Phật giáo
Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là:
- Chấn hưng Phật học: Các Hội Phật giáo được thành lập ở ba miền,
cùng hướng về mục tiêu chung là cải cách từ nội dung Phật học cho
đến mô hình sinh hoạt, tu học. Nhiều kinh sách Phật giáo từ cơ bản đến
nâng cao được xuất bản. Sự ra đời của báo chí Phật giáo làm phương
tiện chấn chỉnh giáo lý và sự tu hành của tăng sĩ, tín đồ, đã chuyển hóa
được phần nào đức tin của quần chúng đối với đạo Phật từ mê tín
thành chánh tín; đồng thời còn khơi dậy, hun đúc tinh thần yêu nước
và giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc.
- Đào tạo được đội ngũ tăng tài kế thừa để phục vụ đạo pháp và
dân tộc: Thông qua các Hội, các trường Ph
ật học được thành lập và đã
giảng dạy giáo lý theo một chương trình được biên soạn cụ thể dành
cho các cấp. Đây là cơ sở để nâng cao trình độ Phật pháp, phát triển
dân trí nước nhà, cũng là lần đầu tiên quá trình đào tạo tăng tài cho
7
hiện tại và tương lai được thực hiện có tổ chức theo một hệ thống giáo
dục Phật giáo từ thấp đến cao.
Ngoài ra, hệ thống chùa chiền đều được chấn chỉnh, từ việc thờ tự
cúng bái cho đến hình thức lễ nghi và các sinh hoạt trong chùa đều
được tổ chức trang nghiêm. Chùa được xem là cơ sở quan trọng nhất
của việc phát triển Sơn môn pháp phái và của Hội. Đây không chỉ là cơ
sở tín ngưỡng tâm linh của cộng đồng người Việt mà còn là cơ sở đại
diện cho nền văn hóa dân tộc.
1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng
Phật giáo
Lịch sử cho thấy, phong trào Chấn hưng Phật giáo được khởi
xướng từ Hòa thượng Khánh Hòa tại Nam Kỳ, Hòa thượng Giác Tiên
tại Trung Kỳ và Hòa thượng Thanh Hanh tại Bắc Kỳ, là ba vị được tôn
là Tổ sư của phong trào Chấn hưng Phật giáo lúc bấy giờ. Ngoài ra, ở
ba Kỳ còn có những vị có nhiệt huyết và đóng góp công sức không nhỏ
cho phong trào, như ở Nam Kỳ: Hòa thượng Liên Tôn, Bích Liên, Trí
Thiền, Thiện Chiếu ; ở Trung Kỳ: Hòa thượng Phước Huệ, Bác sĩ
Tâm Minh Lê Đình Thám ; ở Bắc Kỳ: Hòa thượng Tuệ Tạng, Mật
Ứng, Tố Liên, Trí Hải cùng các cư sĩ: Nguyễn Năng Quốc, Thiều
Chửu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Can Mộng, Nguyễn Trọng Thuật,
Phan Kế Bính
1.2. TÌNH HÌNH BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945
Trong luận án, chúng tôi cũng đã nghiên cứu và lần lượt trình bày
chi tiết về quá trình ra đời, sự hoạt động của báo chí Phật giáo trước
1945, cụ thể gồm:
1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ (Từ trang 41 đến trang 48)
1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ (Từ trang 48 đến trang 50)
1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ (Từ trang 50 đến trang 55)
Trên cơ sở đó, chúng tôi rút ra những nhận xét sau đây:
- Báo chí ở Nam Kỳ ra đời sớm nhất và số lượng cũng chiếm nhiều
nhất, gồm có 9 tạp chí: Pháp âm (1929), Phật hóa Tân Thanh niên
(1929), Từ bi âm (1932), Duy tâm (1935), Tiến hóa (1938), Bồ đề
(1936), Bát nhã âm (1936), Pháp âm Phật học (1937), Phật pháp chỉ
Niết bàn (1941). Ở Trung Kỳ chỉ có 2 tạp chí: Viên âm (1933), Tam
8
bảo (1937). Ở Bắc Kỳ có 2 tờ báo: Đuốc tuệ (1935), Tinh tiến (1945)
và 2 tạp chí: Tiếng chuông sớm (1935), Quan âm (1938).
- Việc duy trì báo chí Phật giáo ở ba miền đều nhờ vào sự ủng hộ
tài chính của quần chúng Phật tử và nhân sĩ trí thức là chủ yếu. Tài
chính từ việc phát hành báo chí chỉ là phần phụ. Do đó, có một vài tạp
chí vì không đủ kinh phí nên phải sớm đình bản.
- Hoạt động của báo chí Phật giáo đương thời đều hướng vào mục
tiêu chung là truyền bá Phật học từ cơ bản đến nâng cao, trao đổi
những triết lý Phật giáo và tuyên truyền tư tưởng chấn hưng Phật giáo
nước nhà. Đồng thời báo chí Phật giáo cũng truyền tải những nội dung
và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi mang tư tưởng đạo đức, giáo
dục Phật giáo.
- Có rất nhiều tăng sĩ và nhân sĩ trí thức nhiệt tình tham gia viết bài
và đăng tải những kiến giải Phật học có giá trị thiết thực, nhằm chuyển
hóa đức tin và sự hiểu biết của quần chúng cho phù hợp với chính pháp.
TIỂU KẾT
Sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo đã góp sức mạnh mẽ
cùng dân tộc đứng lên giành lại độc lập cho dân tộc Việt nam và từ
phong trào này, báo chí Phật giáo mới được ra đời. Báo chí là một
trong những phương tiện chính làm lan tỏa tư tưởng chấn hưng Phật
giáo, nên sự phát triển báo chí luôn gắn liền với diễn trình chấn hưng
Phật giáo tại Việt Nam. Hoạt động của báo chí Phật giáo là phong trào
sôi nổi, chứa đựng bề sâu tư tưởng, vừa làm thăng hoa tinh thần Phật
học, vừa xây dựng nền văn học Phật giáo trong văn học chữ Quốc ngữ,
góp phần không nhỏ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo nói riêng và
việc bảo tồn, phát huy nền văn hóa, văn học đất nước nói chung. So
với Phật giáo và báo chí Phật giáo thời đại ngày nay, Phật giáo và báo
chí giai đoạn trước 1945 quả là còn hạn chế về nhiều mặt. Tuy nhiên,
sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo và báo chí Phật giáo
trước 1945 là dấu ấn lịch sử, là nền móng, là tiền đề cho sự hình thành
và phát triển Phật giáo và báo chí Phật giáo hôm nay và mai sau.
Chương 2
PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945
9
2.1. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO TRƯỚC 1945
Trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, báo chí Phật giáo là một trong
những phương tiện chính của công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt
Nam, nên việc truyền bá Phật học luôn được quan tâm hàng đầu. Hầu
như những tinh hoa giáo điển mang tính giáo dục trực tiếp đối với con
người mà các tạp chí đã thể hiện đều là những bài luận giảng về Phật
học và nói chung nội dung chứa đựng những tư tưởng khuyến thiện
trên tinh thần nhân quả - nghiệp báo, từ bi, hiếu đạo và lợi tha theo lời
Phật dạy.
2.1.1. Khuyến thiện và Nhân quả - nghiệp báo
Báo chí Phật giáo đầu thế kỷ XX đã khơi lại con đường xây dựng
hạnh phúc bằng triết lý nhân quả - nghiệp báo của đạo Phật. Từ triết lý
này, báo chí Phật giáo đã chuyển tải đến con người bức thông điệp đạo
đức cao quý là “khuyến thiện”. Tức là khuyên con người hiểu được
rằng những hành động của con người tạo ra là do ý điều khiển, ý làm
chủ, từ đó phát khởi ra những hành động từ miệng và thân. Những
hành động đó tạo thành nghiệp và phải thọ nhận quả báo về sau, tùy
theo nghiệp lành hay dữ. Cho nên, nếu ai muốn sống đời an vui, hạnh
phúc thì nên làm mọi điều lành, có lợi ích cho mình và người trong
hiện tại và cả tương lai.
2.1.2. Từ bi
Theo báo chí Phật giáo, phương cách thể hiện lòng từ bi đúng
chính pháp là khuyên con người phải biết trải tình thương đối với mọi
người mà không để tâm phân biệt thân quen, xa lạ hay đẳng cấp. Từ
tâm từ bi cao quý đó, con người còn biết hướng dẫn người khác thực
hành tính kiên nhẫn, dũng mãnh, tinh tiến đoạn trừ lòng tham cầu vô
độ. Hơn thế nữa là phải hướng dẫn mọi người biết gieo nhân vui và
diệt nhân khổ, biết ăn năn chừa bỏ lỗi lầm để làm con người tốt v.v
2.1.3. Hiếu đạo
Báo chí Phật giáo đã giới thiệu tinh thần Hiếu đạo đến với quần
chúng nhân dân như một “thiện pháp”, giúp con người chuyển hóa tâm
tính, cũng là pháp ứng dụng tu tập để
đạt đến giải thoát. Sự báo hiếu
10
đúng chính pháp là phải thực hiện trên hai phương diện vật chất và tinh
thần. Người con phải biết chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ để họ sống
được thoải mái trong hiện tại. Về đời sống tinh thần thì phải khích lệ,
trợ duyên cho cha mẹ học, hiểu và thực hành theo chính pháp, hầu đạt
đến an lạc, hạnh phúc trong hiện tại và tương lai. Hơn thế nữa, chữ
hiếu của người Phật tử là phải ứng xử bình đẳng đối với mọi người,
mọi chúng sinh vì theo Đức Phật, trong cuộc sống luân hồi vô tận,
nhân loại và chúng sinh đã từng là thân quyến, anh em, cha mẹ của
nhau.
2.1.4. Lợi tha
Tinh thần lợi tha của Phật giáo đã thể hiện trên báo chí, cho chúng
ta thấy rằng đạo Phật là đạo Từ bi và được thể hiện cụ thể qua hành
động lợi tha, thiết thực đi vào đời để cứu giúp muôn người. Theo triết
lý đạo Phật, mỗi chúng sinh đều có Phật tính, thì tất nhiên cũng đã có
tính lợi tha, đó là một khía cạnh của tính Phật, nên phải tôn trọng lẫn
nhau và lấy sự cứu giúp muôn người làm mục tiêu tu tập. Con người
muốn có được cuộc sống hạnh phúc thì hãy nuôi dưỡng tính lợi tha
trong lòng mình, đừng bao giờ từ chối một việc lợi tha nào, dù đó là
việc nhỏ. Từ những việc làm lợi ích bình thường ấy, chúng ta tập tiến
dần trên con đường lợi tha, làm những việc ích lợi quan trọng và to lớn
hơn. Làm được như thế, nuôi dưỡng tính lợi tha đến trình độ viên mãn,
ấy chính là lúc chúng ta đã thành Phật.
2.2. THẾ GIỚI QUAN PHẬT GIÁO TRÊN BÁO CHÍ PHẬT
GIÁO TRƯỚC 1945
Trước sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hóa phương Tây, cụ thể là sự
ảnh hưởng của nền khoa học hiện đại, những triết lý của đạo Phật thể
hiện trên báo chí Phật giáo giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX cũng
theo xu hướng chuyển đổi từ đạo Phật cổ truyền sang khuynh hướng
thích ứng với thời đại khoa học, hay nói cách khác là cổ xúy cho tinh
thần “thay cũ đổi mới”. Có lẽ từ đó đã làm nảy sinh ra nhiều cuộc
tranh luận về tư tưởng thật sôi nổi giữa các tạp chí Phật giáo, nhằm
mục đích làm sáng tỏ tư tưởng Phật giáo xưa cũng như nay. Những
vấn đề thế giới quan Phật giáo được thảo luận nhiều nhất là quan niệm
về Thượng đế, linh hồn, thế giới Cực lạc, địa ngục và về ngoại giới…
2.2.1. Vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật
11
Cả ba tạp chí, tờ báo Phật học lớn của ba Kỳ là Duy tâm, Viên âm,
Đuốc tuệ đều lấy tinh thần vô thỉ vô chung, vạn vật do duyên sinh,
không có tự tính, không thực có mà đánh đổ quan điểm Thượng đế
sáng tạo muôn vật ra khỏi vòng tranh luận đương thời.
Trong tư tưởng Phật giáo Ấn Độ thời xưa bác bỏ một cách rõ ràng
ý niệm về vĩnh cửu, đã nêu lên thuyết vạn vật thay đổi, trong đó thuyết
Duyên khởi đóng vai trò chủ đạo, để thay thế vai trò của Thượng đế
Toàn năng hay đấng Sáng tạo. Đức Phật từng dạy rằng chúng sinh là
kẻ thừa tự của nghiệp. Mỗi người chính là đấng Sáng tạo cũng như kẻ
hủy diệt bản thân mình và thế giới này mà không phải là ai khác. Con
người sẽ không thể thay đổi nghiệp lực của mình, không thể từ ác tâm
sang thiện tâm, không thể chứng quả giải thoát nếu do một đấng Thiên
chủ tạo nên. Vì thế, Phật giáo không bao giờ cho rằng có Thượng đế
toàn năng sáng tạo ra sự vật, hiện tượng.
2.2.2. Vấn đề linh hồn bất tử
Những luận giải trên tạp Viên âm và Tiến hóa phần nào đã chứng
minh được những tư tưởng Phật giáo tiến bộ đối với cái nhìn c
ủa khoa
học. Cụ thể sư Thiện Chiếu đã cho rằng khi con người chết đi thì ngũ
uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn) tan ra, không
có vật gì là linh hồn. Sự hiểu biết và phân biệt của con người trong khi
còn sống, theo đạo Phật gọi là Thức (Thức tức là cái hiểu biết nó sinh
diệt vô thường, không phải là một cái sống hoài không chết. Theo
thuyế
t Mười hai nhân duyên của đạo Phật, vì có vô minh mới sinh ra
hành (sự biến đổi), do hành sinh ra thức (sự hiểu biết) v.v nếu muốn
khỏi luân hồi tái sinh thì phải trừ diệt vô minh. Đồng thời cái làm cho
chúng sinh sống lại là Nghiệp (hành động, tạo tác) cùng các duyên
khác mà không phải là tâm.
Riêng Hòa thượng Bích Liên trên Từ bi âm và Hòa thượng Khánh
Hòa trên Duy tâm có nhắc đến A lại da thức và nghiệp thức đi đầu thai
là đã có cái nhìn đúng với triết lý Phật giáo. Tuy nhiên để kết luận, cả
hai vị đều cho đó là linh hồn, là có linh hồn tồn tại thì không chính xác.
Phật giáo không quan niệm có linh hồn bất tử, vì như giáo lý Vô
ngã đề cập, không hề có một bản ngã hay cái ngã linh hồn nào trường
tồn bất diệt, mà chỉ có dòng nghiệp thức của các chúng hữu tình luôn
sinh diệt. Nếu có một cái ngã linh hồn bất tử, thì con vật không thể sau
12
khi phát triển thiện nghiệp qua nhiều đời, có thể chuyển sinh sang làm
kiếp con người; hoặc là con người không thể chuyển sinh thành một vị
Bồ tát hay một vị Phật. A lại thức, là Thức hay Nghiệp thức do vô
minh từ vô thỉ mà có. Nó là vọng thức, luôn luôn vận hành, biến đổi
theo hoàn cảnh và hành tác của một người, và là động lực khiến chúng
sinh đi đầu thai, trôi lăn trong sinh tử luân hồi. Nếu biết tu tập, Thức sẽ
biến thành Trí tuệ tuyệt đối, thành giải thoát tối hậu, chấm dứt sinh tử,
chứng đạt Niết bàn.
2.2.3. Vấn đề cảnh giới Cực lạc và địa ngục
Tạp chí Tiến hóa, Viên âm và Quan âm đều cùng chung quan điểm
cho rằng cảnh Niết bàn, Tây phương Cực lạc đều không phải là cảnh
có thực, đó chỉ là sự yên tĩnh trong tâm của con người, do chính tâm
mình tạo ra và ngay ở thế gian này. Tâm là Phật, Phật là tâm, ngoài
tâm không có Phật.
Liên Tôn, chủ bút tạp chí Từ bi âm và nhiều học giả khác trên tạp
chí Bát nhã âm, Tam bảo và báo Đuốc tuệ đều lên tiếng tranh cãi với
cách luận giải đó. Tất cả đều khẳng định tư tưởng cho rằng có cảnh
giới Cực lạc và địa ngục. Nếu để ba nghiệp (thân, khẩu, ý) theo con
đường ác thì sẽ sinh vào địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh; nghiệp trung
bình thì sinh ra làm Người, làm Tu la (Quỷ thần); còn tạo nghiệp lành
thì được sinh lên cõi Cực lạc.
Khi bàn về cảnh giới, đã có rất nhiều kinh điển Phật giáo đề cập
đến vô lượng vô biên thế giới. Địa ngục chỉ là một trong sáu cảnh giới
của cõi Dục (Trời, A tu la, Người, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục). Tùy
theo nghiệp lực của mỗi chúng sinh mà tái sinh vào một cảnh giới
tương ứng với nghiệp lực của mình. Nếu đứng trên lập trường duyên
khởi có thể nói địa ngục hay vạn pháp đều không thật có, là “không”,
như “huyễn”, hay qua lăng kính “Tam giới duy tâm” thì có thể nói địa
ngục hay Cực lạc là tùy theo trạng thái tâm mình đau khổ hay hạnh
phúc, nhưng điều ấy chỉ đúng về phần “lý” trong quan điểm về cảnh
giới mà thôi. Đức Phật khi thuyết minh về cảnh giới bao gồm “lý” và
“sự” rất rõ ràng. Thiên về lý mà bỏ quên sự sẽ dẫn đến những ngộ
nhận đáng tiếc, nhất là sự phá kiến, không tin nhân quả, phủ nhận tội
phước. Do vậy, có thể nói, đối với bậc Giác ngộ, thành tựu tuệ giác Bát
13
nhã thì vạn pháp đều Không, còn đối với chúng sinh nói chung, nghiệp
lực nặng nề, vô minh che lấp thì vạn pháp đều có.
Như vậy, theo tư tưởng Phật giáo vẫn cho rằng có cảnh giới địa
ngục và Cực lạc, nhưng phải hiểu trên lập trường vạn pháp hết thảy
đều do nhân duyên sinh, ngoài nhân duyên ra không có một vật gì tồn
tại. Cho nên những luận giải trên của Đuốc tuệ, Bát nhã, Tam bảo, Từ
bi âm cho rằng có cõi Cực lạc và địa ngục hay những luận giải của
Thiện Chiếu, Viên âm và Quan âm đều không trái với triết lý Phật giáo.
Do báo chí đương thời không có lập trường thấu đáo cả hai mặt “lý” và
“sự” nên xảy ra sự tranh luận.
2.2.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới
Theo Phật giáo, thế giới vũ trụ được dệt nên bởi những hệ thống
trùng trùng duyên khởi. “Cái nầy có thì cái kia có, cái nầy sinh thì cái
kia sinh, cái nầy không thì cái kia không, cái nầy diệt thì cái kia
diệt…”. Từ chỗ nhận định ấy, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ như Viên
âm, Đuốc tuệ hầu như đi đến kết luận “các pháp không có thực tính”.
Đây chính là quan điểm thứ nhất của thuyết duy thức Phật giáo cho
rằng “vạn pháp không thực có”, mọi vật đều do “nhân duyên giả hợp”.
Tuy nhiên, với báo chí Phật giáo, để lý giải rõ hơn về vạn vật và con
người, họ đã dựa vào Duy thức luận của Phật giáo, còn nhận định con
người qua thuyết “vô ngã”, tức cho rằng con người không có thực ngã.
Đây là đặc điểm thứ hai của thuyết duy thức. Nhiều bài viết trên Đuốc
tuệ tỏ vẻ đồng tình với quan điểm này. Tất cả các sự vật hiện tượng
đều do nhân duyên sinh, vì do nhân duyên sinh nên không thực có, vì
không thực có nên gọi là Vô ngã. Mọi sự vật hiện tượng vô ngã là vì
do duyên sinh, đã do duyên sinh thì phải theo duyên diệt, nên cũng gọi
là vô thường.
Từ luận điểm cho rằng mọi sự vật và cả con người đều theo lý vô
thường, vô ngã và duyên sinh, duy thức Phật giáo đi đến kết luận “vạn
pháp duy thức”. Để lý giải cho thuyết này, báo chí Phật giáo như Đuốc
tuệ, Bát nhã âm, Viên âm…đã đề cập rất nhiều đến những khái niệm
“có” và “không”.
Nhìn chung, tư tưởng về ngoại giới của Phật giáo thể hiện tập trung
ở nội dung của ba phạm trù: vô ngã, vô thường và duyên, rồi dẫn đến
kết luận “vạn pháp duy thức”. Phật giáo cho rằng “vạn pháp duy thức”
14
là để xác minh vạn vật vô thường, giả huyễn, không đáng để quyến
luyến, vọng tưởng. Và khi con người hết vọng tưởng thì mới hết chịu
cảnh luân hồi sinh tử khổ đau. Đó là quan điểm biện chứng về thế giới,
tuy còn mộc mạc, chất phác nhưng rất đáng trân trọng.
Những lập luận của các bài viết trên báo chí về Thượng đế, linh
hồn, Cực lạc và địa ngục, cho thấy tư tưởng Phật giáo lúc bấy giờ có
hướng giải thích theo nguyên lý khoa học. Tuy nhiên, đến với thuyết
duy thức, về cái nhìn của Phật giáo đối với ngoại giới thì có phần cách
xa khoa học. Bởi vì điều kiện đầu tiên để có khoa học là chấp nhận
tính chất khách quan của thế giới, của vạn vật, là khẳng định rằng vạn
vật, thế giới tồn tại độc lập với ý thức của con người. Thế nhưng, dù
thế nào thì ở Việt Nam trong giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, các tư
tưởng ấy của Phật giáo vẫn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt triết học
và cả mặt chính trị. Đó là điều hiếm có trong lịch sử Việt Nam từ xưa
đến nay.
2.3. PHẬT GIÁO VỚI VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ ĐẠI CHÚNG
2.3.1. Phật giáo với dân tộc
Một trong những hoạt động nhập thế tiêu biểu của Phật giáo trong
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX là báo chí Phật giáo. Có thể nói, tính dân
tộc mà báo chí Phật giáo trước 1945 thể hiện là:
- Hun đúc ý chí và lòng yêu nước của quần chúng nhân dân qua
những hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo. Chính phong
trào này đã trực tiếp kêu gọi quần chúng Phật tử giữ gìn truyền thống
yêu nước, gắn bó với dân tộc. Cụ thể có hàng tăng sĩ Phật giáo, rất
nhiều người vẫn giữ nếp sống tu hành chân chính, nhưng đã tích cực
tham gia kháng chiến chống quân xâm lược.
- Khơi gợi lại những giá trị đạo đức của Phật giáo và dân tộc như
lòng từ bi, tinh thần hiếu đạo, đức hy sinh v.v
- Khuyên dân chúng giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tích cực phát
huy văn hóa chữ Quốc ngữ bằng các hoạt động phiên dịch kinh điển,
mở rộng phong trào học Phật khắp nơi…
Nhìn chung, tìm hiểu về vấn đề Phật giáo với dân tộc qua báo chí
Phật giáo cũng như qua tư tưởng, hành động thiết thực của sư Thiện
Chiếu, đã giúp chúng ta thấy được mối liên hệ mật thiết giữa Phật giáo
15
và dân tộc. Chính tinh thần vì muôn dân ấy mà Phật giáo luôn sáng
mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.
2.3.2. Phật giáo với đại chúng
Quá trình truyền bá Phật học mà báo chí Phật giáo trước 1945 đã
thể hiện, đã cho ta thấy rõ tính đại chúng tiêu biểu của Phật giáo giai
đoạn này như sau:
- Tính phổ cập: Báo chí Phật giáo đã truyền bá nhiều bài giáo lý
phổ thông, mang lợi ích thiết thực cho con người nên hầu như đều
được quần chúng đón nhận và thực hành ngay trong cuộc sống trên các
lĩnh vực.
- Tính tuyên truyền: Báo chí Phật giáo đã cổ động, kêu gọi, thức
tỉnh được lòng dân xóa bỏ mê tín dị đoan, hướng được tâm thức của
người dân sống theo con đường chân chính.
- Tính giáo dục: Báo chí Phật giáo đã tác động, truyền bá những tư
tưởng đạo đức nhằm giáo dục nhân cách sống cho muôn dân.
Như vậy cũng đủ cho chúng ta thấy rằng Phật giáo luôn hòa nhập
với đời số
ng dân chúng Việt Nam, được quần chúng đón nhận nồng
nhiệt, thực hiện rất đúng đắn và đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp
cho đời sống nhân sinh.
TIỂU KẾT
Nhìn chung, Phật học trên báo chí Phật giáo trước 1945 đều chú
trọng mục đích giáo dục quần chúng qua việc truyền bá những tư
tưởng đạo đức như tính thiện, từ bi, hiếu đạo, lợi tha v.v vừa mang ý
ngh
ĩa giáo dục, vừa hun đúc tinh thần văn hóa dân tộc, yêu quê hương
đất nước. Chính lối truyền bá Phật học cơ bản và phù hợp với tín
ngưỡng dân gian đã tạo cơ hội tốt để đưa Phật giáo đến gần với quần
chúng nhân dân hơn. Ngoài ra, việc truyền bá Phật học lúc bấy giờ có
phần sôi nổi hơn, thu hút sự quan tâm của giới trí thức và dư luận xã
hội qua những cuộc trao đổi, tranh luận liên hệ đến triết học Phật giáo
và nhận thức luận được diễn ra trên diễn đàn báo chí Phật giáo về các
vấn đề Thượng đế sáng tạo, linh hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và vấn
đề tồn tại của ngoại giới… Những vấn đề này đã chứng minh cho quần
chúng thấy được triết lý Phật giáo rất phù hợp với khoa học.
16
Báo chí Phật giáo trước 1945 còn cho thấy sự gắn bó giữa Phật
giáo với dân tộc và với đại chúng qua lối truyền bá phổ thông, gần gũi.
Vì vậy, có thể nói Phật học giai đoạn này là chiếc cầu nối giữa văn hóa
truyền thống và đạo lý chân chính, góp phần ổn định xã hội và đấu
tranh vì sự hòa bình độc lập của cả dân tộc.
Những bài Phật học căn bản về triết lý đạo đức và cả những bài
viết với nội dung tranh luận, nhìn chung đều là những bài văn nghị
luận với nghệ thuật diễn tả sắc sảo, lối hùng biện đanh thép. Cho nên
có thể nói các tác phẩm Phật học cũng chính là tác phẩm văn học, vì nó
vừa mang giá trị Phật học, vừa có giá trị văn học.
Chương 3
VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945
3.1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO
TRƯỚC 1945
Mười một tạp chí, tờ báo Phật giáo chúng tôi khảo sát: Từ bi âm,
Viên âm, Đuốc tuệ, Duy tâm Phật học, Tiếng chuông sớm, Bồ đề, Bát
nhã âm, Pháp âm Phật học, Tam bảo, Tiến hóa, Quan âm đều có đăng
thơ và văn xuôi (xem phụ lục 3, 4).
Qua số lượng tác phẩm thơ, văn xuôi trên mỗi tạp chí thống kê
được đã cho thấy sự tiếp nối của văn học Phật giáo được thể hiện khá
sâu sắc trên báo chí Phật giáo trước 1945. Với mục đích tải đạo, truyền
giảng giáo lý Phật giáo, những tác phẩm văn học Phật giáo ấy đồng
thời đã góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển chữ Quốc ngữ và
kiến tạo nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự góp mặt đầy đủ của các
thể loại thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút, ký… và một số lượng
đông đảo tác giả, tác phẩm văn học đã khẳng định sự tồn tại của một
bộ phận văn học Phật giáo trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.
3.2. DỊCH KINH PHẬT - MỘT LOẠI HÌNH DỊCH VĂN HỌC
ĐẶC BIỆT
Để phổ biến chữ Quốc ngữ và đáp ứng nhu cầu của công chúng, từ
cuối thế kỷ XIX đến những năm đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã tập trung
17
dịch các loại sách truyền thống như: kinh sách Hán văn, các truyện
Nôm Việt Nam, các loại truyện thơ khuyết danh, và sau đó là phong
trào dịch tác phẩm văn học cổ điển của Trung Quốc (phần lớn là tiểu
thuyết chương hồi). Tình hình này phổ biến trên cả nước, trên các tờ
báo và sách in. Ý thức được điều này, nhiều học giả, nhà tu hành đã
trực tiếp tham gia chuyển dịch những bản kinh có giá trị của Phật giáo
từ chữ Hán sang chữ Việt, giúp giới học Phật có thể đọc hiểu một cách
dễ dàng những lời Phật dạy mà ứng dụng tu tập và giúp cho Phật giáo
Việt Nam có những bản kinh bằng tiếng Việt. Quá trình dịch thuật này
còn góp phần to lớn trong việc hiện đại hóa chữ Quốc ngữ, đem đến
cho dân tộc Việt Nam những tác phẩm văn học có ý nghĩa. Hơn nữa,
nội dung của các bản kinh và thơ văn Phật giáo được dịch thuật ấy
bước đầu là giáo dục đạo đức, khuyên dạy con người hướng thiện, chu
toàn trách nhiệm với gia đình, xã hội; sau đó chú trọng đến việc dẫn
dắt tâm linh hướng về con đường giải thoát chân chính của Phật giáo.
Chính vì thế, nên xem việc dịch kinh Phật là một loại hình dịch văn
học
đặc biệt.
Với chủ ý muốn Chấn hưng Phật giáo, nên hầu như báo chí Phật
giáo thời bấy giờ đều truyền bá những kinh điển đã được dịch sang chữ
Quốc ngữ theo lối từ thấp đến cao. Kinh Bát Đại Nhân Giác, kinh Kim
Cang, kinh Lăng Nghiêm v.v thì hướng dẫn con người dù sống ở đâu
và nơi nào cũng phải luôn biết thấu rõ tâm, làm chủ được tâm thì sẽ
không bị mọi dục vọng thế gian lôi cuốn vào con đường khổ đau. Kinh
Địa Tạng, kinh Đại Phương Tiện Phật Báo Ân, kinh Vu Lan v.v thì
hướng dẫn con người thực hành đạo hiếu và cũng phải rèn luyện tâm
hiếu kính, vì đó là tâm của chư Phật. Kinh Pháp Hoa, kinh Thập Thiện,
kinh Dược Sư v.v thì hướng dẫn con người làm điều lành, trừ bỏ
những tâm niệm xấu ác để trở về với Phật tính sáng suốt của chính
mình v.v Mỗi bộ kinh chứa đựng một cách giáo hóa khác nhau,
nhưng tựu trung đều mang ý nghĩa hướng dẫn chúng sinh từ cõi mê về
bờ giác. Những bộ kinh này, hiện nay rất phổ biến trong Phật giáo và
được các chùa, các tín đồ in ấn rất nhiều để vừa nghiên cứu, vừa đọc
tụng trong quá trình tu học theo đạo Phật.
* Nhận xét về nghệ thuật dịch: Những tác phẩm kinh điển được dịch
và đăng trên báo chí Phật giáo trước 1945 đa phần được dịch nguyên
văn. Cách dịch thường thấy là: một dòng chữ Hán, một dòng phiên âm
18
Hán - Việt, một dòng dịch chữ Việt; hoặc một đoạn nguyên văn chữ
Hán, một đoạn phiên âm chữ Việt, rồi đến phần giảng giải. Văn phong
dịch dẫu chưa trôi chảy, nhưng ý rõ ràng. Phương pháp dịch cũng
mang ý nghĩa khoa học, tức là có trích cả nguyên bản, dịch âm rồi mới
dịch nghĩa, tạo cho người đọc cảm giác an tâm, nhẹ nhàng, dễ hiểu.
Những tác phẩm kinh điển này thật sự đã đem đến cho quần chúng độc
giả lúc bấy giờ tầm nhìn mới về văn học cũng như nhiều cảm hứng
mới khi họ được tiếp cận. Những người đóng góp lớn lao cho quá trình
dịch thuật này là Hòa thượng Bích Liên, sa môn Thái Hòa, sa môn Trí
Hải, Tâm Minh, Tâm Điền, Trí Quang, Trí Độ, Thiều Chửu, Nguyễn
Thượng Cần v.v Đây là những công trình đáng ghi nhận, có giá trị lâu
dài và làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.
3.3. GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA THƠ VĂN PHẬT GIÁO TRÊN
BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƯỚC 1945
3.3.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo
Nội dung giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca, văn xuôi
trên báo chí Phật giáo trước 1945 tập trung thể hiện các nội dung: lẽ vô
thường, nguồn gốc khổ đau, tính thiện, tri ân báo ân… nhằm mục đích
truyền giảng giáo lý Phật giáo. Những bài thơ được viết giản dị, gần
gũi, quen thuộc với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi để dễ đọc, dễ nhớ.
Nhờ thế, những giáo lý cao sâu của nhà Phật dễ dàng đi vào đời sống
nhân dân, để bảo lưu, gìn giữ và phát huy những phẩm chất, lối sống
cao đẹp của người Việt Nam. Cho nên nói, việc khơi lại, giữ gìn và
phát huy những tư tưởng đạo đức Phật giáo qua thơ ca trên báo chí
Phật giáo cũng chính là việc giữ gìn, bảo lưu những truyền thống quý
báu của con người và dân tộc Việt Nam. Đó cũng là những đóng góp
thiết thực có giá trị của những bài thơ và những nhà thơ theo tinh thần
Phật giáo.
Những tác phẩm văn xuôi là sự kế thừa và kết hợp một cách khá
nhuần nhuyễn giữa triết lý dân gian và triết lý Phật giáo. Điều này giúp
các tác phẩm dễ đi vào lòng quần chúng và gắn kết với đời sống nhân
dân như những câu ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích được truyền kể bao
đời. Từ đó những tư tưởng đạo đức Phật giáo được truyền giảng, tạo
nên nếp sống từ tâm trong mỗi người dân Việt Nam. Đây cũng là đóng
góp thiết thực của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo
19
trước 1945, nhằm phục hưng và lưu giữ những giá trị truyền thống tốt
đẹp, tạo nên sức mạnh của dân tộc chống lại sự xâm lăng của ngoại
bang.
3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc
Nhiều tác phẩm thơ, văn xuôi trên báo chí Phật giáo đã thể hiện rõ
tinh thần đạo Phật vì dân tộc. Qua đó cho thấy giá trị cao quý của đạo
Phật là tư tưởng từ bi, khoan dung, vô ngã, không nghĩ tới cá nhân mà
chỉ nghĩ đến những điều lợi ích lớn lao cho muôn người, cụ thể là xây
dựng một xã hội an lạc, một đất nước hòa bình. Chính điều đó đã giúp
cho con người nhận thức được chân giá trị của mình trong đời sống xã
hội, triệt tiêu mâu thuẫn giữa phe này nhóm khác, để rồi cùng nhau
đoàn kết bảo vệ cuộc sống bình yên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng
đất nước.
Những bài thơ trên báo chí Phật giáo còn cho thấy tính thế sự hóa
nội dung trong tác phẩm thơ Phật giáo. Nội dung những bài thơ thể
hiện được sự gắn bó giữa đạo và đời. Đời sống là sự thể hiện sinh động
và phong phú nhất của giáo lý Phật giáo, đồng thời cũng thể hiện được
sự thay đổi trong nội dung thơ gắn với tính thời sự, đời thường.
3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo
Truyện ngắn, tiểu thuyết viết về triết lý nhân quả trên báo chí Phật
giáo trước 1945 tương đối nhiều, mỗi tác phẩm đều để lại cho con
người một bài học đích thực về cách sống ở đời. Cách ứng xử nhân đạo
của Phật giáo qua việc ứng dụng triết lý nhân quả của những tác phẩm
văn xuôi ấy là thể hiện tinh thần tôn trọng lẫn nhau, là quyền tự chủ
của mọi người, là sự yêu thương giữa người với người, không ai có
quyền xúc phạm hay quyết định cuộc đời của người khác, mà tự bản
thân mỗi người có quyền làm chủ bản thân mình. Chỉ cần tự mình phấn
đấu nỗ lực và sống lương thiện, nhất định sẽ có ngày vinh quang tươi
sáng. Từ đó có thể hiểu đặc trưng hướng nội của Phật giáo là giúp con
người tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động để không gây
ra đau khổ, bất hạnh cho mình và người khác. Nó giúp con người biết
sống thân ái, yêu thương nhau và làm cho xã hội yên bình.
Nhìn chung, những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo
trước 1945 đã cho thấy có sự thay đổi trong nội dung tác phẩm. Các
câu chuyện đã chuyển từ những đề tài luân lý đạo đức trung hiếu tiết
20
nghĩa theo triết lý Nho giáo sang triết lý Phật giáo. Điều đó chứng tỏ
những sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo có sự gắn kết, gần gũi
với cuộc sống đời thường của con người hơn. Có thể nói, nội dung tác
phẩm gần gũi với cuộc sống là một trong những đóng góp đưa văn
xuôi trung đại chuyển dần sang văn xuôi hiện đại. Tuy nhiên, những
tác phẩm văn học Phật giáo thời kỳ này cũng còn những hạn chế là
chưa được phong phú về nội dung thể hiện và đa dạng về chủ đề, đề tài.
Có những tác phẩm chưa thể hiện được sâu sắc nội dung tư tưởng và
còn mang tính minh họa giản đơn cho giáo lý nhà Phật.
3.4. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA THƠ VĂN PHẬT GIÁO
TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO TRƯỚC 1945
3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ
3.4.1.1. Thể thơ
Qua kết quả khảo sát 237 bài thơ (xem phụ lục 3) được đăng trên
báo chí Phật giáo lúc bấy giờ, có thể thấy các tác phẩm được sáng tác
theo thể thơ Đường luật chiếm số lượng nhiều nhất, có đến 183 bài,
chiếm 77%; thể thơ Lục bát có 33 bài, chiếm 14% và thể thơ Song thất
lục bát chiếm số lượng ít nhất, chỉ có 21 bài, chiếm 9%. Trong ba thể
thơ chính được sử dụng, đã cho thấy vai trò và vị trí của thể thơ Đường
luật trong đời sống văn học nghệ thuật nước ta những năm đầu thế kỷ
XX vẫn chiếm phần quan trọng. Kết quả thống kê cho thấy những sáng
tác thơ trên báo chí Phật giáo trước 1945 vẫn sử dụng những thể thơ
truyền thống của nền văn học trung đại. Điều đó cũng cho thấy những
sáng tác thơ nhằm phục vụ cho mục đích “tải đạo”, truyền giảng giáo
lý nhà Phật, khơi gợi và giữ gìn bản sắc dân tộc nên không đặt ra
nhiệm vụ đổi mới thể loại thơ. Thể thức luật định của các thể thơ đã
được vận dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển trong việc chuyển tải
nội dung giáo lý Phật giáo. Các bài thơ không còn giữ nguyên khuôn
mẫu điển phạm mà ít nhiều đã bị phá vỡ quy phạm. Đây là những phá
cách đầu tiên chuẩn bị cho sự cách tân của thơ ca Việt Nam.
3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ
Với mục đích truyền bá Phật pháp nên những bài thơ được thể hiện
trên báo chí Phật giáo trước 1945 đều được các tác giả dùng những
cách nói, lối nói rất gần gũi với cu
ộc sống, sắc thái biểu cảm cũng
21
phong phú. Ngôn ngữ thơ bình dị và được sử dụng linh hoạt nên dễ đi
vào lòng người. Qua đó cho chúng ta thấy khả năng sử dụng ngôn ngữ
nghệ thuật của các nhà thơ luôn thể hiện được sự kết hợp giữa đạo và
đời. Thế giới nội tâm của các nhà thơ không chỉ biểu hiện bằng ý nghĩa
của từ ngữ mà bằng cả âm thanh, nhịp điệu và hình tượng của những từ
ngữ ấy. Điều đó cho biết họ đã biểu hiện được sự tập trung tính hàm
súc phong phú của ngôn ngữ.
Có thể nói, các nhà thơ với những tác phẩm đăng trên báo chí Phật
giáo Việt Nam giai đoạn này đã kế thừa và tiếp nối được tư tưởng, triết
lý của thơ ca thời Lý - Trần, nên họ đã sáng tạo ra những dòng thơ đầy
ý vị về cuộc sống và con người. Dù giá trị nghệ thuật chưa đạt tới đỉnh
cao, nhưng mỗi lời, mỗi ý, mỗi hình tượng và cả giọng điệu diễn tả đều
mang tính chân thành, chân chất, trong sáng và gần gũi với đời sống
hằng ngày của con người.
3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi
3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật
Sự miêu tả
ngoại hình và khai thác tâm lý nhân vật của các nhà văn
trên báo chí Phật giáo trước 1945 vẫn theo lối truyền thống, theo quan
niệm “thiện” và “ác”. Những diễn biến tốt đẹp của tâm lý nhân vật
truyền thống đã gửi gắm, truyền tải được những thông điệp của giáo lý
nhà Phật tới đông đảo quần chúng nhân dân. Diễn biến tâm lý nhân vật
đôi lúc đã có chút phức tạp, mang tính bi kịch được thể hiện rất h
ợp lý,
nhưng nhìn chung, các nhân vật vẫn chưa có những thay đổi lớn. Tính
minh họa cho giáo lý nhà Phật của các nhân vật vẫn còn đậm nét. Nhân
vật bước đầu đã chuyển từ những biểu tượng đơn thuần để trở thành
những nhân vật sống động. Đây là một trong những đóng góp cho sự
đổi mới văn học Việt Nam. Đồng thời nó còn góp phần mở ra thời đại
mới cho thể loại truyện trong văn học nước ta những năm đầu thế kỷ
XX và sau này.
3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm
Những truyện ngắn, tiểu thuyết đã khảo sát trên báo chí Phật giáo,
dù có vài tác phẩm được xây dựng theo kết cấu hai tuyến nhân vật đối
lập, nhưng nói chung đều gặp nhau ở phương diện kết cấu theo trình tự
thời gian của sự kiện - tức là nghệ thuật trần thuật luôn tuân thủ với
trình tự diễn tiến tự nhiên theo thời gian tuyến tính, đi từ “nhân” tới
22
“quả”. Ðây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từ
trước 1930. Điều này cho thấy những tác phẩm văn xuôi trên báo chí
Phật giáo lúc bấy giờ vẫn còn chịu ảnh hưởng của thi pháp truyện ngắn
trung đại - kiểu kết cấu gắn bó chặt chẽ với sự kiện, biến cố. Tuy nhiên,
vẫn có tác phẩm được xây dựng theo kết cấu mới mẻ, mang dấu ấn của
văn học hiện đại, đó là kết cấu đảo ngược thời gian của sự kiện. Tức là
kết cấu tác phẩm được xây dựng theo lối không đóng khung và câu
chuyện chỉ đơn thuần là sự minh họa giản đơn cho những đạo lý, triết
lý của nhà Phật, tạo cho người đọc cái nhìn mở về cuộc sống.
3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại
Thông qua ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại, những tác phẩm
truyện trên báo chí Phật giáo đều chứa đựng triết lý sâu sắc của đạo
Phật về cuộc sống đời thường. Chính giọng văn tự sự giản dị mà tinh tế,
dễ hiểu mà gợi cảm đã hiện rõ tâm lý sâu sắc của từng nhân vật. Chính
chất tự sự pha tính trữ tình trong ngôn ngữ kể chuyện cũng như đối
thoại đã giúp các tác giả thành công trong việc xây dựng nên hình
tượng nhân vật tự nhiên, bình dị mà mang tính thuyết phục và để lại
bài học sâu sắc cho đời sống con người. Đồng thời, sự thay đổi ngôn
ngữ ước lệ, tượng trưng, điển phạm bằng ngôn ngữ sinh hoạt đời
thường đã cho thấy sự tinh tế, uyển chuyển của các nhà văn trong ý
thức cách tân nghệ thuật truyện kể. Đằng sau ngôn ngữ nhân vật là ý
đồ của tác giả. Họ đã lồng những tình cảm, thái độ, quan điểm của
mình qua ngôn ngữ đối thoại của các nhân vật. Tuy nhiên, nhìn một
cách tổng thể có thể nói, ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại mà những
tác giả sử dụng trong các tiểu thuyết, truyện ngắn còn đơn giản theo lối
văn biền ngẫu đầy tính ước lệ tượng trưng của ngôn ngữ văn học trung
đại, chưa có những cách tân nổi bật.
TIỂU KẾT
Văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 dẫu chưa phải là phong
phú, nhưng đã đem đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về nội
dung và nghệ thuật văn chương, những cách nhìn mới về cuộc sống, về
đạo Phật và góp phần làm giàu nền văn học dân tộc. Những tác phẩm
dù được viết dưới dạng thơ hay văn xuôi cũng đều mang đậm tính chất
nhân đạo và tinh thần yêu quê hương, đất nước, đó là tinh thần phát
huy đạo Phật, phụng sự Tổ quốc.
23
Những ý tưởng giản dị thể hiện qua từng truyện ngắn, tùy bút, tiểu
thuyết hay những bài xã luận đã chuyển tải đầy đủ ý nghĩa cuộc sống,
nói lên những ưu tư của người con đất Việt trước hiện trạng đất nước,
lại mang tính giáo dục thâm sâu về đạo làm người, về nhân cách sống
cũng như tinh thần yêu quê hương, đất nước. Lối hành văn nhìn chung
là sáng sủa, mạch lạc, đã đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa, văn
nghệ cho mọi tầng lớp độc giả. So với việc đăng tải văn học trên báo
chí Phật giáo ngày nay, có thể nói văn học trên báo chí Phật giáo trước
1945 còn ít. Nội dung về thơ, truyện lúc bấy giờ cũng không thật đa
dạng và phong phú, Hơn nữa, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ ít có sự
tham gia của các nhà văn, nhà thơ chuyên nghiệp mà phần lớn là các
tác giả xuất thân từ những người tu sĩ, Phật tử. Họ là những người chỉ
chú trọng việc truyền bá Phật pháp đến với quần chúng nhân dân nên ít
quan tâm về vấn đề nghệ thuật. Có lẽ vì vậy mà chất lượng nghệ thuật
của những tác phẩm văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 chưa
cao và chưa thật sự thu hút nhiều độc giả.
Điều đáng lưu ý, những bài thơ, những tác phẩm văn xuôi đều chứa
đựng giá trị Phật học. Nhìn tổng thể cả chương 2 và chương 3, chúng
ta thấy có mối quan hệ hữu cơ thật khó tách rời, bởi trong Phật học vẫn
có giá trị văn học và trong văn học vẫn mang ý nghĩa Phật học. Mặt
khác, xét đến cùng, nói đến báo chí tức là nói đến văn học. Do đó, sự
phân chia Phật học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 chỉ là
tương đối, chỉ là cách để triển khai những nội dung chính trong luận án.
KẾT LUẬN
Báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 là cơ quan ngôn luận của
các tổ chức, hệ phái Phật giáo ở Việt Nam, tuy xuất hiện muộn, nhưng
phát triển khá nhanh và phong phú. Không những chỉ các tổ chức Phật
giáo mới xuất bản tạp chí mà một số Tông môn cũng tự ấn hành báo
chí, nhằm mục đích để truyền bá đạo Phật bằng chữ Quốc ngữ, làm
trong sáng tinh thần Phật học và thúc đẩy phong trào Chấn hưng Phật
giáo trong cả nước. Sự lớn mạnh của phong trào Chấn hưng Phật giáo
thông qua báo chí là điểm nổi bật của Phật giáo giai đoạn này. Phong
trào đã khơi dậy một trào lưu tư tưởng Phật giáo mới, nhằm giải quyết
những vấn nạn trong đời sống đạo và trong đời sống của quần chúng
nhân dân. Từ phong trào đó đã mở ra cho Phật giáo một hướng đi mới,
24
vừa hoàn thiện đời sống đạo, vừa đáp ứng được yêu cầu của lịch sử
dân tộc.
Hình thức và nội dung của báo chí Phật giáo dẫu khác nhau, nhưng
giống nhau ở mục tiêu cùng đấu tranh quyết liệt với các thế lực ngoại
bang, chống lại các hủ tục, mê tín dị đoan của Phật giáo thời bấy giờ.
Những tư tưởng, triết lý Phật học chung nhất mà báo chí Phật giáo thể
hiện là triết lý nhân quả, đức tin, đạo hiếu, lòng vị tha, tư tưởng vì dân
tộc, thuyết vô thường, vô ngã, nhân duyên Những tranh luận về
Thượng đế tạo vật, linh hồn bất tử, Cực lạc, địa ngục và ngoại giới đã
mở ra cho một cách nhìn đúng đắn, phù hợp với khoa học.
Về phần văn học, việc phiên dịch kinh Phật trên báo chí Phật giáo
trước 1945 có thể coi như một loại hình dịch văn học đặc biệt để
chuyển tải giá trị tinh hoa của văn học Phật giáo nước ngoài vào Việt
Nam. Bộ phận sáng tác văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 là
một loại hình sáng tác đặc biệt. Dầu chưa theo kịp xu hướng hiện đại
hóa đang xảy ra, nhưng với các thể loại văn thơ truyền thống, văn học
trên báo chí Phật giáo thể hiện được một cách sâu sắc tư duy, tình cảm
của Phật tử, những bài học về đạo đức, góp phần phát huy tinh thần
Phật giáo cũng như truyền thống quý báu của dân tộc.
Báo chí Phật giáo Việt Nam ngày nay đã phát huy được rất nhiều
phương hướng mới từ sự kế thừa của báo chí Phật giáo trước 1945.
Điểm kế thừa nổi bật của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn
đề tín ngưỡng trong đời sống xã hội, tạo điều kiện cho những ai đang
trăn trở với đức tin có tầm nhìn đúng đắn, khách quan hơn về tôn giáo.
Nhìn chung, việc nghiên cứu Phật học và văn học trên báo chí Phật
giáo Việt Nam trước năm 1945 mở ra triển vọng nghiên cứu rất lớn: từ
hướng nghiên cứu này, có thể có những đề tài nghiên cứu tiếp theo:
Phong trào chấn hưng Phật giáo, lịch sử Phật giáo cận đại, lịch sử
phiên dịch kinh Phật, ngôn từ Phật giáo trước 1945… Văn học Phật
giáo trên báo chí và sách vở trước 1945 cần phải được tiếp tục nghiên
cứu và giảng dạy ở các chương trình cao cấp Phật học. Nếu có điều
kiện, các cơ sở nghiên cứu Phật học, các trường đại học có thể mở một
vài buổi hội thảo về những vấn đề Phật học và văn học trên báo chí
Phật giáo trước năm 1945.