Tải bản đầy đủ (.pdf) (265 trang)

văn học và phật học trên báo chí phật giáo việt nam trước năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.61 MB, 265 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THẢO



VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC
TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC NĂM 1945





LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN





THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THẢO


VĂN HỌC VÀ PHẬT HỌC
TRÊN BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TRƯỚC NĂM 1945

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 62.22.34.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS TS. LÊ GIANG







THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2014
Phản biện độc lập:
1. GS.TS. Huỳnh Như Phương
2. PGS.TS. Hà Văn Đức
Phản biện:
1. PGS.TS. Đoàn Thị Thu Vân
2. PGS.TS. Nguyễn Công Lý
3. PGS.TS. Trần Hồng Liên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 3 năm 2014
Tác giả luận án



Nguyễn Thị Thảo



KÝ HIỆU VÀ NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT



1. TK. : Thế kỷ
2. VH&KHNV : Văn học và Khoa học Nhân văn
3. HT. : Hòa thượng
4. Nxb : Nhà xuất bản
5. TP. : Thành phố
6. tr. : Trang
7. Ví dụ [115, tr.339] : Tài liệu số 115 ở mục tài liệu tham khảo, trang 339
MỤC LỤC

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2

3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp mới của luận án 9
7. Cấu trúc luận án 10

Chương 1: PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO VÀ BÁO CHÍ PHẬT
GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 11
1.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo từ cuối thập niên 1920
đến trước 1945 11
1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX 11
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hưng Phật giáo 13
1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hưng Phật giáo 18
1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ 18
1.1.3.2. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Trung Kỳ 23
1.1.3.3. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ 26
1.1.4. Những thành tựu chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo 28
1.1.5. Những nhân vật tiêu biểu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo 33
1.2. Tình hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 40
1.2.1. Báo chí Phật giáo ở Nam Kỳ 41
1.2.2. Báo chí Phật giáo ở Trung Kỳ 47
1.2.3. Báo chí Phật giáo ở Bắc Kỳ 50
Tiểu kết 54


Chương 2: PHẬT HỌC TRÊN BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 56
2.1. Thế giới quan Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 56
2.1.1. Vấn đề Thượng đế sáng tạo muôn vật 58
2.1.2. Vấn đề linh hồn bất tử 66

2.1.3. Vấn đề cảnh giới cực lạc và địa ngục 74
2.1.4. Vấn đề tồn tại của ngoại giới 82
2.2. Tư tưởng đạo đức Phật giáo trên báo chí Phật giáo trước 1945 91
2.2.1. Khuyến thiện và Nhân quả - nghiệp báo 92
2.2.2. Từ bi 97
2.2.3. Hiếu đạo 101
2.2.4. Lợi tha 104
2.3. Phật giáo với vấn đề dân tộc và đại chúng 108
2.3.1. Phật giáo với dân tộc 108
2.3.2. Phật giáo với đại chúng 116
Tiểu kết 123


Chương 3: VĂN HỌC TRÊN BÁO CHÍ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 125
3.1. Tổng quan về văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945 125
3.2. Dịch kinh Phật - một loại hình dịch văn học đặc biệt 130
3.3. Giá trị nội dung của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 148
3.3.1. Giáo dục tư tưởng đạo đức Phật giáo 148
3.3.2. Thể hiện tinh thần dân tộc 159
3.3.3. Thể hiện tinh thần nhân đạo 169
3.4. Giá trị nghệ thuật của thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 175
3.4.1. Giá trị nghệ thuật của thơ 175
3.4.1.1. Thể thơ 175
3.4.1.2. Ngôn ngữ thơ 177
3.4.2. Giá trị nghệ thuật của văn xuôi 184
3.4.2.1. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật 184
3.4.2.2. Kết cấu tác phẩm 192
3.4.2.3. Ngôn ngữ kể chuyện và đối thoại 197
Tiểu kết 204



KẾT LUẬN 205

DANH MỤC BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC 1945 208
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 209
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 219
PHỤ LỤC 1: Bìa báo chí Phật giáo trước 1945 220
PHỤ LỤC 2: Một số trang thơ văn trên báo chí Phật giáo trước 1945 235
PHỤ LỤC 3: Danh mục thơ trên báo chí Phật giáo trước 1945 245
PHỤ LỤC 4: Danh mục văn xuôi trên báo chí Phật giáo trước 1945 253


DẪN NHẬP

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Có thể nói, báo chí Việt Nam kể từ khi ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX là
phương tiện thông tin đại chúng quan trọng nhất trong xã hội Việt Nam. Đến hôm
nay, tuy đã có hàng loạt các phương tiện thông tin đại chúng khác liên tục xuất hiện,
nhưng báo chí vẫn không mất đi địa vị và giá trị quan trọng của nó trong đời sống
xã hội Việt Nam.
Theo sự phát triển của lịch sử dân tộc, bước sang những thập niên đầu của
thời kỳ hiện đại, báo chí Việt Nam đã từng tác động đến dư luận xã hội trên cả hai
lĩnh vực chính trị và văn học. Về chính trị, báo chí dĩ nhiên là sự kết nối, truyền
thông về các mặt thời sự, xã hội, nhiều tờ báo có khuynh hướng yêu nước đã góp
phần đáng kể vào công cuộc đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Về văn học, báo
chí là nhân tố quan trọng giúp cho văn học Quốc ngữ ra đời, góp phần to lớn trong
việc xây dựng và phát triển nền văn học Việt Nam hiện đại. Thiếu Sơn trong bài
diễn thuyết Báo giới và văn học quốc ngữ năm 1933 tại Hội Nam Kỳ Khuyến học

Sài Gòn, đã nhận thấy mối quan hệ đặc biệt của văn học và báo chí ở Việt Nam:
“Trong những nước văn minh, văn học ra đời trước báo chí, nhưng ở Việt Nam,
chính báo chí đã tạo nên nền văn học hiện đại” [95, tr.115].
Trong tình hình đó, từ những năm đầu TK.XX, những tư tưởng muốn chấn
hưng Phật giáo thỉnh thoảng được đăng trên các báo chí Quốc ngữ, nội dung chủ
yếu là đặt vấn đề chỉnh đốn và phát triển Phật giáo Việt Nam. Từ đó, các Hội
Nghiên cứu Phật học ra đời, cùng với nó là các tạp chí, tờ báo chuyên về Phật học
như: Từ bi âm, Duy tâm Phật học, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm v.v góp
phần quan trọng tạo nên phong trào Chấn hưng Phật giáo đầu TK.XX. Tuy nhiên,
có thể nói, báo chí Phật giáo lúc bấy giờ dù phổ biến còn hạn chế, không gây tiếng
vang lớn như báo chí thế tục, nhưng những vấn đề nó đặt ra rất gần gũi với văn hóa
dân tộc, với tâm linh người Việt, để từ đó có thể nuôi dưỡng một niềm tin sâu xa
cao quý trong lòng người dân Việt Nam.



2
Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại, những tạp chí,
tờ báo Phật giáo ấy đã ít được quan tâm và đề cập đến. Sẽ đáng tiếc, nếu tình hình
này cứ kéo dài.
Với số lượng hàng chục tờ báo, báo chí Phật giáo trước 1945 thực sự là một
hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần dân tộc. Có thể qua những tờ báo
này giúp ta hiểu được lịch sử và văn học Phật giáo trong giai đoạn quan trọng: nửa
đầu TK.XX. Chọn đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam
trước năm 1945 để nghiên cứu, chúng tôi hy vọng có thể tìm về cội nguồn báo chí
Phật giáo, hiểu được văn học và tư tưởng Phật học giai đoạn này, từ đó hy vọng có
thể khơi dậy những giá trị tinh hoa của Phật giáo và dân tộc đã được tạo nên từ xưa.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Từ trước đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về báo chí Việt
Nam trước 1945. Trong đó có không ít công trình đề cập về sự hình thành và phát

triển của báo chí Phật giáo. Điều này đã giúp cho chúng tôi rất nhiều ý tưởng,
đường hướng để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
- Năm 1972, Nguyễn Văn Ẩn (Ban Báo chí học, phân khoa VH&KHNV,
Viện Đại học Vạn Hạnh) hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài Báo chí tôn
giáo tại Việt Nam. Trong chương III [2, tr.23], tác giả nhắc đến quá trình hình thành
và phát triển của báo chí Phật giáo giai đoạn 1920-1945 như Pháp âm, Phật hóa
Tân Thanh niên, Từ bi âm, Bát nhã âm, Tiến hóa, Duy tâm Phật học, Bồ đề, Viên
âm, Tam bảo, Đuốc tuệ, Tiếng chuông sớm. Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo
những năm 1920-1945 là phương tiện chính của công cuộc canh tân đất nước và
góp phần quan trọng vào công cuộc chung này. Giai đoạn này, dù đã có những đáng
tiếc xảy ra giữa các báo, như cuộc bút chiến, thậm chí có lúc mạt sát lẫn nhau bằng
những lời quá đáng giữa Từ bi âm và Tiến hóa về các vấn đề quản lý nội bộ của Hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học, nhưng người ta cũng dễ dàng thông cảm vì đó là
những khuyết điểm khó tránh khỏi của báo chí Phật giáo trong giai đoạn đầu. Ngoài
ra, tác giả còn đề cập đến những cuộc trao đổi khá sôi nổi về sự hiện hữu của Tây
phương cực lạc, giữa một bên nhận là có Tây phương cực lạc (Từ bi âm) và một bên
phủ nhận (Tiến hóa); về vấn đề canh tân Phật giáo giữa Tiến hóa và Duy tâm Phật



3
học; về giáo lý nhà Phật giữa Tiến hóa và Viên âm. Tác giả nhận định: các cuộc trao
đổi ấy cho thấy đã đến lúc phải thẳng thắn đặt ra nhiều vấn đề của Phật học âm ỉ lâu
nay. Tuy nhiên, với những vấn đề này, tác giả chỉ nêu vài ý kết luận khái quát mà
không phân tích, dẫn chứng cụ thể.
- Năm 1985, Nguyễn Lang công bố tập 3, cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận ở
Paris. Cho đến nay, công trình gồm cả ba tập đã được Nhà xuất bản Văn học (Hà
Nội) tái bản lần thứ ba (năm 2000). Trong tập 3, khi viết về phong trào Chấn hưng
Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Lang có đề cập đến một số tờ báo và tạp chí Phật giáo,
như: Pháp âm, Phật hóa Tân Thanh niên, Từ bi âm, Viên âm, Đuốc tuệ, Tiếng

chuông sớm, Duy tâm Phật học, Tiến hóa, Pháp âm Phật học, Tam bảo, Bát nhã âm,
Quan âm, Tinh tiến. Về báo chí Phật giáo, tác giả chỉ trình bày tổng quát quá trình
hình thành, tôn chỉ hoạt động và những đóng góp chung của các tạp chí, tờ báo Phật
giáo đối với Phật giáo và dân tộc nửa đầu TK.XX. Ngoài ra, tác giả còn nhắc đến
vài nét những cuộc tranh luận, thảo luận giữa các tạp chí lúc bấy giờ về tư tưởng
Phật học và đường hướng chấn hưng Phật giáo. Nhìn chung, theo tác giả đúc kết, sự
ra đời của báo chí Phật giáo lúc bấy giờ đã làm Phật học trở nên dễ dàng phổ biến
hơn đối với đại chúng. Ai cũng có thể đọc hiểu Phật pháp bằng chữ Quốc ngữ. Cho
nên có thể nói sự thành công của báo chí Phật giáo cũng là sự thành công của chữ
Quốc ngữ [67, tr.771-772]. Có thể nói Việt Nam Phật giáo sử luận (tập III) là công
trình nghiên cứu sâu về báo chí và Phong trào chấn hưng Phật giáo. Tuy nhiên
trong công trình này còn một số tạp chí chưa được đề cập đến (Bồ đề, Phật pháp chỉ
Niết bàn) và nhất là văn học Phật giáo hầu như chưa được quan tâm nghiên cứu.
- Công trình Triết học và tư tưởng của Giáo sư Trần Văn Giàu (Nxb. Thành
phố Hồ Chí Minh, 1988) đã dành một chương quan trọng cho việc nghiên cứu Phật
giáo nửa đầu TK.XX: Phong trào Chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng triết
học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai cuộc chiến
tranh thế giới [44, tr.320]. Trong chương này, tác giả đã khảo sát nhiều tờ báo, tạp
chí Phật giáo nổi tiếng như: Từ bi âm, Viên âm, Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ…¸để
tìm hiểu tình hình Phật giáo trước 1945. Trong mục Mấy vấn đề tư tưởng cuộc vận
động Chấn hưng Phật giáo đã đề ra, Trần Văn Giàu đã chỉ ra những điểm tiến bộ



4
đặc biệt của Phật giáo đương thời thông qua cuộc thảo luận sôi nổi trên báo về
Thượng đế, linh hồn, Thiên đường, địa ngục… Có thể nói đây là công trình nghiên
cứu sớm nhất, công phu nhất của một nhà nghiên cứu mác-xít về báo chí Phật giáo
nửa đầu TK.XX. Trần Văn Giàu đã đánh giá cao tư tưởng yêu nước, khoa học của
nhiều tờ báo, tạp chí, sách vở Phật giáo giai đoạn này. Tuy nhiên công trình cũng

chưa dành sự quan tâm tới mảng văn học trên báo chí ấy.
- Báo chí Phật giáo với phong trào Chấn hưng Phật giáo (1930-1945), khóa
luận tốt nghiệp đại học ngành Lịch sử (Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1994)
của Thích Thanh Đạt đã giới thiệu khái quát một số tạp chí, tờ báo Phật giáo và
những vấn đề tư tưởng triết học Phật giáo thể hiện qua báo chí Phật giáo thời kỳ
1930-1945. Tuy nhiên, trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp đại học, tác giả chưa
có điều kiện sưu tập tư liệu đầy đủ, cũng như chưa phân tích sâu những đặc điểm và
giá trị nội dung, nghệ thuật của Phật học và văn học thể hiện trên báo chí Phật giáo
lúc bấy giờ.
- Công trình Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945 (Nxb. TP. Hồ Chí Minh,
2000) của Huỳnh Văn Tòng đã nêu rõ sự hình thành, phát triển và những đóng góp
của làng báo chí Việt Nam trên các lĩnh lực văn hóa, giáo dục, chính trị, kinh tế, xã
hội của Việt Nam. Trong phần Những tờ báo chuyên biệt, tác giả có đề cập đến quá
trình ra đời của tạp chí Pháp âm [116, tr.345], Viên âm [116, tr.339] và báo Đuốc
tuệ [116, tr.306], là những tạp chí, tờ báo Phật giáo đầu tiên ở Nam Kỳ, Trung Kỳ
và Bắc Kỳ giai đoạn trước 1945. Ngoài ra, phần phụ lục cuối tập sách với nhan đề
Mục lục báo chí Việt ngữ từ 1865-1945, tác giả đã liệt kê hầu như gần đủ những tạp
chí, tờ báo Phật giáo trước 1945 và ghi cả thông tin về năm xuất bản, đình bản, như:
Từ bi âm (1932-1941), Viên âm (1933-1936), Đuốc tuệ (1935-1939), Tiếng chuông
sớm (1935-1936), Duy tân (tâm) (1935-1943), Bồ đề (1936), Bát nhã âm (1936-
1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1939), Tiến hóa (1938-
1939), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941). Đây là công trình nghiên cứu tổng quát về
báo chí, trong đó có đề cập chi tiết đến những tạp chí, tờ báo Phật giáo đã ra đời
trước 1945. Tuy nhiên, khi khảo sát trực tiếp tư liệu báo chí Phật giáo hiện có,
chúng tôi thấy trong công trình này còn có rất nhiều lầm lẫn về năm đình bản một



5
số tờ báo, tạp chí Phật giáo, như: Từ bi âm (đình bản năm 1945, không phải năm

1941), Viên âm (đình bản năm 1945, không phải năm 1936), Đuốc tuệ (đình bản
năm 1945, không phải năm 1939), Tam bảo (đình bản năm 1938, không phải năm
1939), Tiến hóa (đình bản năm 1941, không phải năm 1939). Ngoài ra, tên chủ
nhiệm một số tạp chí cũng ghi không chính xác: chủ nhiệm tạp chí Tiến hóa là Đỗ
Kiết Triệu, chứ không phải Đỗ Kiết Tuân; tạp chí Duy tâm Phật học, chủ nhiệm là
Nguyễn Văn Ân, chứ không phải là Nguyễn Văn An.
- Công trình Lịch sử báo chí Việt Nam 1865-1945 (Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2000) do Đỗ Quang Hưng chủ biên cũng có phần đề cập đến thời điểm ra
đời của báo chí Phật giáo trước 1945. Theo các tác giả (Đỗ Quang Hưng, Dương
Trung Quốc, Nguyễn Thành), báo chí Phật giáo Việt Nam ra đời từ phong trào
Chấn hưng Phật giáo. Phần phụ lục cuối sách, các tác giả đã thống kê, giới thiệu
ngắn gọn về quá trình xuất hiện và hoạt động của một số tạp chí, tờ báo Phật giáo
Việt Nam đương thời như: Viên âm, Đuốc tuệ, Quan âm, Tinh tiến v.v
- Công trình Báo chí ở Thành phố Hồ Chí Minh (100 câu hỏi đáp về Gia
Định - Sài Gòn TP. Hồ Chí Minh, Nxb. TP. Hồ Chí Minh, năm 2007, Trương Ngọc
Tường, Nguyễn Ngọc Phan biên soạn) cho biết tạp chí Quốc ngữ Phật giáo đầu tiên
được xuất bản ở Sài Gòn là Pháp âm và trình bày khá đầy đủ về diện mạo, nội dung
của tạp chí này [121, tr.112]. Ngoài ra, công trình còn cho thấy vai trò của nhà báo
Xích Liên (sư Thiện Chiếu) đối với sự nghiệp chấn hưng và sự nghiệp báo chí Phật
giáo [121, tr.115]. Có thể nói, dù công trình này không nhấn mạnh nhiều đến báo
chí Phật giáo, nhưng các tác giả cũng đã góp phần khẳng định thêm cho chúng ta
thấy sự hiện hữu đầu tiên của báo chí Phật giáo Việt Nam giai đoạn trước 1945 và
những đóng góp của nhà báo Xích Liên đối với Phật giáo và dân tộc.
- Công trình Lược khảo Báo chí Phật giáo Việt Nam (1929-2008) của
Nguyễn Đại Đồng (Nxb. Tôn giáo, 2008) đã cho thấy rõ nét tình hình báo chí Phật
giáo Việt Nam từ khi ra đời năm 1929 (theo tác giả) cho đến năm 2008. Phần thứ
nhất, tác giả trình bày Báo chí Phật giáo từ khi ra đời đến Toàn quốc kháng chiến
(1929-1946) [34, tr.7]. Trong mục này, tác giả đã trình bày khá đầy đủ hoàn cảnh ra
đời, nhân sự lãnh đạo, các hoạt động và nội dung khái quát của báo chí Phật giáo




6
trước 1945. Tuy nhiên, chúng tôi thấy công trình vẫn còn thiếu tạp chí Phật pháp
chỉ Niết bàn. Nói chung, công trình đã cho chúng tôi cái nhìn tổng thể, hệ thống,
toàn diện về báo chí Phật giáo Việt Nam và tầm ảnh hưởng của báo chí Phật giáo
trong đời sống xã hội.
- Công trình Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam (Tư liệu báo chí Việt
Nam từ 1927-1938) của Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (Nxb. Tôn giáo,
2008) đã trình bày rõ ràng các hoạt động cụ thể của báo chí Phật giáo trong giai
đoạn đầu TK.XX, trong đó có nhấn mạnh vai trò của báo chí đối với phong trào
Chấn hưng Phật giáo nói riêng, đối với sự duy trì và bảo vệ nền độc lập dân tộc nói
chung. Công trình đã đem đến cho chúng tôi nhiều thông tin hữu ích về báo chí Phật
giáo lúc bấy giờ.
- Bên cạnh đó, Nguyễn Đại Đồng còn có các bài: “Tạp chí Viên âm”, “Tạp
chí Đuốc tuệ” trên tạp chí Nghiên cứu Phật học (2009) và “Tạp chí Duy tâm Phật
học” trên nguyệt san Giác ngộ (2011). Cả ba bài viết đều trình bày tổng quát về
diện mạo, nội dung của các tạp chí Phật giáo này.
- Những công trình: Việt Nam: Những sự kiện lịch sử (1919-1945) của
Dương Trung Quốc (2005), Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng và vấn đề
(Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG Hà Nội) của Lê Thị
Hồng Hạnh (2010),… đã giới thiệu khái quát về nội dung và sự ảnh hưởng của báo
chí Phật giáo trong đời sống xã hội. Luận văn Thạc sĩ trên còn cho thấy điểm nổi
bật của báo chí Phật giáo hiện nay là làm rõ các vấn đề tín ngưỡng xã hội, tạo điều
kiện cho những người đang trăn trở với đức tin có cách nhìn đúng đắn, khách quan
hơn về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Bộ phận báo chí này cũng phát
huy ý thức, truyền thống dân tộc, góp phần xây dựng nền kinh tế quốc gia vững
mạnh, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân và sự đoàn kết giữa các tôn giáo.
- Bên cạnh đó, những bài viết trên báo mạng như “Báo chí Phật giáo: Vấn đề
hội nhập và phát triển” của Thích Thiện Bảo (2000) đăng trên website

daophatngaynay.com và giacngo.vn đã đề cập đến vai trò của báo chí Phật giáo
trong công cuộc chấn hưng cho đến hiện nay. Khi nói về vai trò của báo chí Phật
giáo trước 1945, tác giả chỉ nhấn mạnh đến tạp chí Pháp âm, Từ bi âm, Duy tâm



7
Phật học, Viên âm và báo Đuốc tuệ. Ngoài ra, tác giả cũng đề cập vài nét đến cuộc
tranh luận giữa các tạp chí về vấn đề Thượng đế sáng tạo, vấn đề linh hồn bất tử…
Qua bài viết, tác giả nhận định rằng báo chí Phật giáo trước 1945 đã làm sáng tỏ
trắng đen, phản bác những luận điểm sai lầm của một số người chưa hiểu rõ về đạo
Phật.
Trần Kiêm Đạt (2008) với bài viết “Sơ lược lịch sử báo chí Phật giáo Việt
Nam” đăng trên website phattuvietnam.net, cũng đã trình bày khái lược diện mạo
một số tạp chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Trong đó, tác giả khẳng định báo chí
Phật giáo Việt Nam thực sự khai sinh và phát triển từ khi có phong trào Chấn hưng
Phật giáo vào thập niên 1930. Nội dung bài viết phản ảnh thực tế Phật giáo trong
từng giai đoạn, đồng thời cũng đề cập đến những cuộc tranh luận giữa các tạp chí,
mà tiêu biểu là Duy tâm Phật học và Tiến hóa.
Bài viết “Báo xuân Phật giáo xưa” của Nguyễn Ngọc Phan (2012) đăng trên
website khoavanhoc-ngonngu.edu.vn đã trình bày những giai phẩm xuân mà báo chí
Phật giáo giai đoạn đầu TK.XX từng thể hiện, như Duy tâm Phật học, Đuốc tuệ, Từ
bi âm, Bát nhã âm v.v Tác giả cho rằng báo chí Phật giáo trong sự nghiệp xiển
dương Phật pháp và chấn hưng Phật giáo luôn gắn liền với nhân sinh thời cuộc, bộc
lộ những ưu tư trăn trở trước hoàn cảnh mất nước và sự cùng khổ của đồng bào.
Những bài viết qua báo mạng trên ít nhiều cũng đã chỉ ra được vai trò và giá
trị của báo chí Phật giáo đối với phong trào Chấn hưng Phật giáo và đối với dân tộc,
đồng thời cũng đề cập đến một vài vấn đề mà báo chí đương thời tranh luận sôi nổi.
Tuy nhiên, các bài viết chỉ dừng lại ở điểm khái quát sơ lược mà chưa đi sâu phân
tích về những tác động tư tưởng nhiều mặt của báo chí.

Nhìn chung, trên thực tế dù đã từng có một số nhà nghiên cứu viết về lịch sử
báo chí Việt Nam, trong đó có đề cập đến báo chí Phật giáo, thậm chí có những nhà
nghiên cứu đề cập chuyên biệt về báo chí Phật giáo Việt Nam, nhưng các công trình,
bài viết ấy mới chỉ dừng lại ở một vài khía cạnh riêng biệt, chưa bao quát hết các
tạp chí, tờ báo Phật giáo. Chưa có công trình nào đề cập cụ thể và toàn diện về diện
mạo, giá trị và đặc điểm của báo chí Phật giáo giai đoạn trước 1945 trên các lĩnh
vực Phật học, văn học, văn hóa tư tưởng, chính trị, kinh tế, xã hội v.v



8
ủa những người đi trước, trong luận án
này, chúng tôi hy vọng có thể nghiên cứu sâu hơn về đặc điểm, giá trị của Phật học
và văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Với đề tài Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước năm
1945, chúng tôi muốn giới thiệu một cách hệ thống về báo chí Phật giáo trước 1945.
Trên cơ sở đó luận án sẽ trình bày, luận giải những vấn đề Phật học và văn học trên
bộ phận báo chí ấy. Về Phật học, luận án sẽ trình bày các phương diện: thế giới
quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức, quan hệ Phật giáo với dân tộc và đại chúng… Về
văn học, luận án trình bày những giá trị đặc điểm nội dung, nghệ thuật của văn học
Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn này qua các thể loại thơ, văn xuôi, dịch văn học.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng chủ yếu chúng tôi chọn khảo sát là báo chí Phật giáo Việt Nam
trước 1945. Chúng tôi cố gắng khảo sát tất cả những tư liệu có thể tìm được. Hiện
nay còn 13 tạp chí và 2 tờ báo là: Tạp chí: Pháp âm (1929), Phật hóa Tân Thanh
niên (1929), Từ bi âm (1932-1945), Viên âm (1933-1945), Tiếng chuông sớm
(1935-1936), Duy tâm Phật học (1935-1943), Bồ đề (1936), Bác (Bát) nhã âm
(1936-1943), Pháp âm Phật học (1937-1938), Tam bảo (1937-1938) (Theo như
hình ảnh thì bản tiếng Hoa chỉ đề Tam bảo, nhưng bản tiếng Việt đề là Tam bảo chí,

Nguyễn Đại Đồng cũng viết là Tam bảo chí), Tiến hóa (1938-1941), Quan âm
(1938-1943), Phật pháp chỉ Niết bàn (1941) và báo: Đuốc tuệ (1935-1945), Tinh
tiến (1945).
Các tờ báo, tạp chí này hiện nay đang lưu trữ chủ yếu ở Thư viện Quốc gia
(Hà Nội), bên cạnh đó là ở một số chùa và tủ sách tư nhân.
Từ những tờ báo, tạp chí Phật giáo này, chúng tôi đi sâu vào nghiên cứu đặc
điểm, giá trị của tư tưởng Phật học và văn học.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầm những tác phẩm, bài viết, tờ
báo, tạp chí và những công trình từ trước đến nay có liên quan đến mảng báo chí



9
Phật giáo Việt Nam trước 1945. Đồng thời, chúng tôi cũng sưu tầm tất cả những tạp
chí, tờ báo Phật giáo trước 1945. Đây là những tài liệu làm nền tảng cho việc nghiên
cứu một cách trung thực và chính xác.
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu
sau:
5.1. Phƣơng pháp thống kê - phân loại
Dùng các phương pháp bổ trợ này nhằm mục đích thống kê, phân loại những
tài liệu có liên quan đến luận án đã sưu tầm được, từ đó góp phần tìm hiểu, thẩm
định giá trị đích thực của báo chí Phật giáo trước 1945.
5.2. Phƣơng pháp phân tích - so sánh - tổng hợp
Để đáp ứng nhu cầu của đề tài, luận án sử dụng xuyên suốt các phương pháp
chủ đạo: phân tích - so sánh - tổng hợp nhằm tìm ra những đặc điểm về nội dung tư
tưởng của các vấn đề Phật học, những giá trị nghệ thuật đặc sắc trong giáo lý nhà
Phật cùng những đặc điểm nội dung và giá trị nghệ thuật của thơ ca, văn xuôi đã thể
hiện trên báo chí Phật giáo trước 1945. Qua đó chứng minh sự đóng góp đích thực
của báo chí Phật giáo đương thời đối với Phật giáo và dân tộc. Trên cơ sở này, luận

án còn xác định sự ra đời và phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945 đã phát huy
được gì cho nền văn hóa, văn học của dân tộc trong chặng đầu hiện đại hóa.
5.3. Phƣơng pháp lịch sử xã hội
Vận dụng thêm phương pháp này để xác định những tiền đề hình thành và
phát triển của báo chí Phật giáo trước 1945. Nghiên cứu báo chí Phật giáo trong mối
liên hệ chặt chẽ với lịch sử - xã hội đương thời.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Hoàn thành luận án Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước
năm 1945, chúng tôi mong muốn có những đóng góp sau:
- Giới thiệu một cách có hệ thống tình hình báo chí Phật giáo trước 1945. Xác
định lại năm ra đời, năm kết thúc, mục đích tôn chỉ, ban biên tập của từng tờ báo, tạp
chí Phật giáo.



10
- Trình bày một cách có hệ thống, tường minh về các vấn đề chủ yếu của Phật
học và văn học trên báo chí Phật giáo trước 1945.
Luận án có thể góp phần vào việc tìm lại giá trị của báo chí Phật giáo trước
1945, những đóng góp của báo chí Phật giáo đối với đời sống tinh thần của dân tộc.
7. CẤU TRÚC LUẬN ÁN
Ngoài phần Dẫn nhập, luận án gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Phong trào Chấn hƣng Phật giáo và báo chí Phật giáo Việt
Nam trƣớc 1945: Trình bày khái quát về phong trào Chấn hưng Phật giáo và tình
hình báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 (từ trang 11 đến trang 55).
Chƣơng 2: Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình
bày thế giới quan Phật giáo, tư tưởng đạo đức Phật giáo, vấn đề Phật giáo đối với
dân tộc và đại chúng, nhằm rút ra những giá trị cơ bản của Phật giáo giai đoạn này
(từ trang 56 đến trang 124).
Chƣơng 3: Văn học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trƣớc 1945: Trình

bày khái quát về mảng văn học trên báo chí Phật giáo, phân tích giá trị nội dung,
nghệ thuật của thơ và văn xuôi trên những tờ báo ấy (từ trang 125 đến trang 204).
Đề tài luận án là “Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam
trước năm 1945”. Luận án phải đặt từ “Văn học” trước là để cho phù hợp với mã
ngành Văn học Việt Nam, nhưng trong khi triển khai thì Phật học (chương 2) được
trình bày trước Văn học (chương 3). Làm như vậy vì trên báo chí Phật giáo, tư
tưởng Phật học là vấn đề trung tâm, quan trọng nhất, phải nghiên cứu Phật học
(chương 2) trước rồi mới đến Văn học (chương 3). Văn học vẫn là vấn đề đi sau tư
tưởng và chủ yếu là phương tiện truyền bá tư tưởng Phật học.
Cuối luận án là phần Kết luận (từ trang 205 đến trang 207), Danh mục báo chí
Phật giáo (trang 208), Thư mục tài liệu tham khảo (từ trang 209 đến trang 218) và
Danh mục các công trình của tác giả đã công bố (trang 219). Người viết có chuẩn bị
thêm phần Phụ lục (từ trang 220 đến trang 258), giới thiệu một số hình ảnh báo chí,
tổng danh mục thơ và văn trên báo chí Phật giáo trước 1945.



11
Chƣơng 1
PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO
VÀ BÁO CHÍ PHẬT GIÁO VIỆT NAM TRƢỚC 1945

1.1. PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO TỪ CUỐI THẬP NIÊN 1920
ĐẾN 1945
1.1.1. Tình hình Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ XX
Đầu TK.XX, sau khi bình định được Việt Nam, Pháp thực hiện chính sách
nâng đỡ, tạo điều kiện cho đạo Công giáo phát triển. Chính quyền Pháp vì muốn
loại trừ ảnh hưởng của Phật giáo và Nho giáo, nên đã quyết tâm loại bỏ chữ Hán mà
thay bằng chữ Pháp [84, tr.474].
Lúc bấy giờ, kinh sách Phật toàn là chữ Hán, do vậy dân chúng học tiếng

Pháp hoặc ít học không đọc được kinh điển. Từ đó, tín đồ không thấu hiểu giáo lý
của Phật và đây là tiền đề khiến người dân cách xa dần đạo Phật, khiến đạo Phật
ngày càng suy vi. Đạo Phật đã suy đến mức toàn quốc không có một ngôi trường
Phật học nào cho người dân đến tham học [51, tr.20].
Thực dân Pháp đã cố tình loại trừ dần văn hóa dân tộc và thay vào đó là văn
hóa của phương Tây. Các khái niệm yêu nước, trung quân, đạo đức tôn giáo, phong
tục tập quán, tín ngưỡng… đều bị phê phán là lạc hậu, lỗi thời. Đạo Phật hầu như bị
gạt ra ngoài lề của đời sống xã hội đương thời. Dẫu biết rằng cả nước Việt Nam lúc
bấy giờ, mỗi làng đều có chùa thờ Phật, thậm chí có làng có đến ba ngôi chùa. Thế
nhưng, những ngôi chùa đó chỉ là nơi dành riêng cho phái nữ, những bà cụ… mỗi
tháng vào những ngày Rằm, mồng Một đến chùa lễ Phật. Đạo Phật thời kỳ đã trở
thành một tôn giáo tiêu cực, chán đời, mê tín dị đoan. Người dân tôn kính Đức Phật
như một bậc Thượng đế toàn năng có quyền ban phước giáng họa.
Cụ thể là chính quyền thực dân thực hiện chính sách kỳ thị, đàn áp Phật giáo
như: kiểm tra đời sống sinh hoạt của tăng chúng trong chùa, những chùa nào muốn
xây dựng, sửa chữa thì phải xin giấy phép và được chính quyền cấp giấy phép mới
được xây cất. Chúng dùng chính sách hủ hóa dân tộc ta bằng cách cho phép tự do



12
hoạt động mê tín dị đoan, nhưng hạn chế con đường giáo dục văn hóa truyền thống
của dân tộc. Mục đích của chúng là làm cho dân ta ngu dốt để dễ bề sai khiến,
không muốn cho dân tộc ta trở nên lớn mạnh và đạo Phật từ đó cũng bị đồng hóa
với những tà thuyết ngoại đạo. Ngoài ra, một số ngôi chùa lớn đã bị chính quyền
Pháp phá hủy dần [84, tr.475].
Việt Liên với bài Phật giáo không phải là đạo hữu thần đã ghi rất rõ về sự
kiện này:
Nhưng xét cho kỹ, phần đông người mình chưa hiểu cái yếu nghĩa của Phật
giáo, cho là một đạo hữu thần, cũng cầu xin, cũng chuộc tội, chẳng khác chi

những kẻ ỷ lại thần quyền. Hoặc cho là một đạo hoang đường mê tín, chứa
những việc huyễn hoặc dị đoan, không hiểu Phật giáo có một cái triết lý rất
thâm thiết. Trải qua bao nhiêu thế kỷ đã bị chôn sâu trong cái não mê tín
của bọn ngu dân và bị khuất sau tấm lòng lợi dụng của một hạng tín đồ vô
học Nếu chẳng chấn hưng Phật giáo, chỉnh đốn Phật giáo lại, thì Phật giáo
cũng như các tôn giáo khác, sẽ theo một công lệ đào thải mà tiêu diệt trước
khi thế giới đại đồng [E, số 2, tr. 6-8].
Thời gian bị kìm hãm kéo dài cho đến năm 1920, giới tăng sĩ và trí thức
trong nước mới có cơ hội đứng ra hô hào, phát khởi phong trào Chấn hưng đạo Phật
Việt Nam. Từ đó, báo chí Phật giáo mới có cơ hội ra đời và được phổ biến rộng rãi
khắp nơi, đồng thời các kinh sách Phật giáo, nhờ phương tiện in ấn tiên tiến nên
cũng được xuất bản và lưu hành nhiều hơn.
Nhờ sự khởi sắc từ những thập niên đầu TK.XX mà sau này, việc đào tạo
tăng ni tại Việt Nam dần dần trở nên có quy củ. Hệ thống giáo dục được hình thành
và đi theo thứ bậc từ hệ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng đến đại học.
Quả thật, giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX, dù đất nước bị chia làm ba kỳ,
dưới ba hình thức cai trị khác nhau, nhưng sự thống nhất về dân tộc, văn hóa và tôn
giáo lúc bấy giờ vẫn được duy trì và gìn giữ. Sự hiện diện của đạo Phật xuyên suốt
từ Bắc chí Nam đã là một yếu tố góp phần to lớn, nhằm đối kháng với việc chia cắt
đất nước để cai trị theo chủ trương của người Pháp. Hơn nữa, dù chịu ảnh hưởng



13
mạnh của quá trình Âu hóa, nhưng Phật giáo Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ qua
phong trào Chấn hưng Phật giáo.
Ðạo Phật trong giai đoạn kháng Pháp nửa đầu thế kỷ XX đã gắn kết với quần
chúng, đã hòa chung với lòng yêu nước của muôn dân, thể hiện bằng mục đích Tu
là tìm hạnh phúc cho tha nhân và góp phần thực thi sứ mệnh đem lại hòa bình cho
quê hương đất nước. Lúc này có nhiều vị tăng sĩ đã cởi áo cà sa để khoác chiến bào,

hòa mình cùng dân tộc đấu tranh chống Pháp, đã có nhiều vị hy sinh anh dũng trong
cuộc kháng chiến gian khổ của dân tộc.
1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phong trào Chấn hƣng Phật giáo
Đầu TK.XX, sau cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nền kinh tế
tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng. Giai đoạn 1920-1930, khủng hoảng kinh tế bắt
đầu và kéo dài, các đế quốc tăng cường chính sách bóc lột ở các nước thuộc địa.
Đông Dương trở thành nạn nhân trong chính sách khai thác tàn nhẫn của Pháp. Việt
Nam cũng lâm vào tình trạng khốn khổ, “một cổ hai tròng” - vừa phát xít Nhật và
vừa thực dân Pháp đè nặng lên đôi vai người dân thuộc địa, dẫn đến mâu thuẫn và
phân hóa giai cấp trong xã hội Việt Nam. Điều này đã tác động mạnh mẽ đến mọi
lĩnh vực trong đời sống từ kinh tế, chính trị, văn hóa và cả tín ngưỡng tâm linh.
Nhờ tiếp thu những trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân thư, tân văn
của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cùng cuộc vận động cách mạng ở Trung
Quốc; các thuyết về nhân đạo, nhân quyền của những nhà khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII như J. Rousseau, S. Montesquieu, F. Voltaire mà các trí thức yêu nước Việt
Nam đã có sự thay đổi sâu sắc về tư tưởng. Bên cạnh đó, tấm gương Nhật Bản nhờ
Duy Tân mấy chục năm mà đánh bại đế quốc Nga đã làm tăng thêm niềm tin của
các nhà trí thức yêu nước Việt Nam. Phong trào Duy Tân ở Việt Nam phát sinh từ
những nguyên nhân trên. Mục đích của phong trào là xây dựng một đất nước Việt
Nam độc lập, thống nhất, giàu mạnh. Hình thức hoạt động của phong trào Duy Tân
ở Việt Nam diễn ra vừa công khai, vừa bí mật nhưng khá toàn diện, phổ biến rộng
khắp 3 miền của đất nước.



14
Chính những biến động lịch sử đó đã tác động mạnh mẽ vào phong trào
Chấn hưng Phật giáo thời kỳ này. Nhiều nhà nho chí sĩ đã đánh giá cao vai trò của
Phật giáo đối với sự phát triển của xã hội, sự tự cường của dân tộc. Trong bối cảnh
đó, báo chí Quốc ngữ có khuynh hướng duy tân ra đời như: Nông cổ mín đàm

(1901), Lục tỉnh tân văn (1907), Đăng cổ tùng báo (1907), Đông Dương tạp chí
(1913), Nam phong tạp chí (1917), An Nam tạp chí (1926), Phụ nữ tân văn
(1929)… Những tờ báo này đã góp phần “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”
như khẩu hiệu của phong trào Duy Tân đầu TK.XX. Chính những tờ báo này cũng
góp phần thúc đẩy cho phong trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra nhanh chóng và
phát triển mạnh trong đời sống xã hội.
Các nhà cách mạng tiêu biểu của phong trào Duy Tân, trong đó có Phan Chu
Trinh đã từng nhận định rằng Phật giáo hưng thịnh thì đất nước cũng sẽ hưng thịnh.
Có thể nói Phan Chu Trinh là người đặt niềm tin rất lớn vào sự đóng góp của một
nền Phật giáo phục hưng đối với nền hòa bình dân tộc, cho nên ông thường hô hào
việc chấn hưng đạo Phật để hỗ trợ cách mạng. Trong một buổi diễn thuyết, ông đã
từng nói:
Nước Đại Nam chúng ta ngày nay sở dĩ yếu hèn là vì thiếu tinh thần tôn
giáo, chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa, chỉ bo bo giữ cái
lối riêng của mình. Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng
như vậy: quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến
nước ta thì bại tẩu; nào bị cướp sáo ở Chương Dương Độ, nào bị bắt trói ở
Bạch Đằng, như vậy chẳng phải là nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư?
Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư? [67, tr.750].
Giai đoạn giữa năm 1935, có nhiều bài viết trên báo Tràng an lấy tên là H.T
luận bàn về Phong trào Phật giáo chấn hưng. Tác giả đã cho rằng có ba nguyên
nhân của sự phục hưng Phật giáo, đó là do lòng tự ái của dân tộc, niềm khát ngưỡng
một lý tưởng để theo và do nạn kinh tế khủng hoảng.
Thế nhưng lại còn có ý kiến cho rằng phong trào Chấn hưng Phật giáo ra đời
là do ý đồ mỵ dân của thực dân Pháp: chúng muốn đẩy dân ta đắm chìm trong tín
ngưỡng mê tín của tôn giáo, để họ quên đi sự chống đối ngoại bang. Theo Nguyễn



15

Lang, sự nghi ngờ đó được xuất phát từ hai sự kiện: thứ nhất là do việc Nhà nước
bảo hộ đã dễ dàng ký giấy cho phép thành lập các Hội Phật giáo; thứ hai là do có
một vài người được xem như là “người của chính quyền” đã hoạt động trong các
Hội Phật giáo, như Trần Nguyên Chấn trong Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học,
Nguyễn Năng Quốc và Lê Dư trong Hội Phật giáo Bắc Kỳ [67, tr.762]. Nhưng các
sĩ phu yêu nước ngay từ đầu đã không nghĩ như thế, các học giả có uy tín như
Nguyễn Lang [67], Trần Văn Giàu [44] đều thẳng thắn bác bỏ quan điểm sai trái ấy.
Huỳnh Thúc Kháng trên báo Viên âm, Phan Khôi trên báo Tràng an đã gạt
bỏ ra ngoài những quan điểm sai lầm về Phật giáo và phong trào Chấn hưng Phật
giáo. Các vị đã đưa ra ý kiến tán đồng với quan điểm của Phan Chu Trinh khi cho
rằng, chấn hưng Phật giáo là một việc làm có ích cho quốc dân như đã dẫn ở trên.
Đặc biệt, Huỳnh Thúc Kháng vừa phát biểu ý kiến tán đồng vấn đề chấn
hưng Phật giáo trên tạp chí Viên âm, vừa khuyên Viên âm nên cố gắng:
Viên âm hãy gắng lên. Người ta nói khoa học với tôn giáo không cùng đi
với nhau, là nói ở xứ văn minh nào kia, chứ ở xứ khai thông chậm trễ dân
trí mơ mù như xứ ta, tôn giáo còn là phương thuốc chữa bệnh chung cho
người mình có hiệu nghiệm. Huống là cái thuyết từ bi cứu khổ, độ tha, giác
tha và nhân quả luân hồi của Phật giáo thông cả các giai cấp trong xã hội,
mà ai thực hành theo có bổ ích cho chúng sanh không phải là ít, chưa nói
đến “Niết bàn” là chỗ thượng thừa cao xa kia [D, số 3].
Những quan điểm trên cho chúng ta hiểu được, phong trào Chấn hưng Phật
giáo tại Việt Nam đã nhận được sự đồng tình của nhiều chí sĩ yêu nước đầu TK.XX.
Nhìn rộng ra châu Á, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam diễn ra
trong bối cảnh chung của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở các nước châu Á: Tích
Lan, Ấn Độ, Trung Quốc… nhằm khôi phục lại các giá trị của Phật giáo, phát triển
Phật học.
Bắt đầu từ cư sĩ David Hewavitarane, người Tích Lan, sau này xuất gia thành
đại đức Dharmapala. Để chấn hưng Phật giáo, Dharmapala đã thành lập Hội Đại Bồ
đề Ấn Độ và xuất bản tạp chí Bồ đề, thành lập các trung tâm Phật học và tu viện




16
Phật giáo. Dharmapala thường hun đúc tinh thần chấn hưng Phật giáo của tín đồ
Phật giáo Ấn Độ bằng những lời kêu gọi trong mỗi thời thuyết pháp ở Ấn Độ: “Phật
giáo ở Ấn Độ đã bị truy phóng một thời gian dài 800 năm. Ngày nay, họ đã và đang
quay trở về Tổ quốc. Tất cả chúng ta hãy thức tỉnh siêu vượt chế độ, giai cấp và tín
điều, với mục đích duy nhất của Hội Đại Bồ đề là đem giáo lý của Đấng Phật đà
tặng mọi người dân Ấn Độ” [64, tr. 201].
Năm 1908, đại đức Dharmapala đã viết thư liên lạc với cư sĩ Dương Nhân
Sơn ở Trung Quốc để mời cộng tác và từ đó phong trào lan rộng nhanh chóng.
Tại Trung Quốc, cư sĩ Dương Nhân Sơn đã đứng lên thiết lập Kỳ Hoàn Tịnh
xá, triệu tập những học giả nghiên cứu Phật học bằng Hán văn, Anh văn và Pali.
Tiếp đó, năm 1912, HT. Thái Hư lập Phật học viện Vũ Xương, ra tạp chí Giác xã
năm 1918, sau đổi thành Hải triều âm, làm tiền đề cho nhiều Phật học viện ra đời.
Các hiệp hội Tăng Giáo dục, Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Tổng hội, Phật giáo
Liên hiệp, Phật giáo Cư sĩ lâm liên tiếp ra đời khắp mọi nơi.
Những hoạt động tích cực để chấn hưng Phật giáo của các nhân vật Phật giáo
xuất chúng từ Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc đã tác động đến các nước ở châu Á
khác như: Miến Điện, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Việt Nam v.v Phong trào
đổi mới Phật sự từ các nước này cũng được diễn ra nhanh chóng và có hiệu quả. Có
thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp và
mạnh mẽ từ phong trào Chấn hưng Phật giáo Trung Quốc, đặc biệt là những tư
tưởng cải cách Phật giáo của HT. Thái Hư.
Mặt khác, ở Việt Nam đầu TK.XX, do nhiều nguyên nhân về kinh tế, văn
hóa, xã hội và tư tưởng đã xuất hiện nhiều phong trào tôn giới mới. Những phong
trào tôn giáo này bắt nguồn từ Phật giáo, từ tín ngưỡng dân gian, hoặc từ “Tam
giáo” (Phật - Lão - Nho) rồi cải biên, trong đó có đạo Cao Đài do các ông Ngô
Minh Chiêu (1878-1930), Lê Văn Trung (1875-1934), Phạm Công Tắc (1893-
1959),… thành lập năm 1926; Phật giáo Hòa Hảo do ông Huỳnh Phú Sổ (1920-

1946) thành lập năm 1939,… Sự phát triển của các tôn giáo đương thời đã tạo ra
sức cạnh tranh mạnh mẽ đối với Phật giáo. Đây cũng là nhân tố tác động đến sự ra
đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo.



17
Ngoài những nguyên nhân từ quốc tế, nguyên nhân chính trị - xã hội và tôn
giáo trong nước, sự ra đời của phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam còn do
những nguyên nhân nội tại trong giới Phật giáo. Trước đó và ngay cả giai đoạn này,
có lúc có nơi, sự suy giảm uy tín của Phật giáo đối với dân chúng khá rõ.
Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận của giới tăng sĩ đã đi sai lạc con
đường chính pháp, không chuyên tâm tu hành mà chỉ chuyên lo “ứng phó” đạo
tràng để thu tài vật, lợi dụng tín ngưỡng dân gian để cầu danh cầu lợi cho bản thân.
Cư sĩ Khánh Vân đã trực tiếp lên án tình hình này trên tạp chí Duy tâm Phật học số
18 năm 1926: “Có kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ
trì, nhập sóc vọng, cũng sám hối như ai, nhưng lại luyện bùa học ngải, luyện roi
thần, khi lên ông, lúc gặp bà, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra lợi dụng lòng
mê muội của thiện nam, tín nữ, rộng túi tham vơ vét cho sạch sành sanh”.
Cư sĩ Thanh Quang cũng nói về tình trạng này trên báo Đuốc tuệ bằng những
lời lẽ phê phán gay gắt: “Đau đớn thay xứ ta, những hạng xuất gia vào chùa phần
nhiều chỉ học đặng vài bộ kinh, lo luyện hơi cho hay, tập nhịp tán cho già, nay lãnh
đám này, mai lãnh đám kia; cũng tràng hạt, cũng cà sa, thử lật mặt trái của họ ra mà
xem thì có khác nào người trần tục” [F, số 178-179, tr.3-5].
Rõ ràng, vấn đề “tha hóa đạo đức” của một bộ phận trong giới tu sĩ đã làm
ảnh hưởng đến sự suy đồi của Phật giáo. Điều đó đã khiến cho nhiều nhà lãnh đạo
Phật giáo, người có tâm huyết với Phật giáo trăn trở, lo lắng. Sư Thiện Chiếu, nhà
trí thức trẻ đầy nhiệt huyết không thể ngồi yên, đã mạnh dạng chỉ trích trên tờ Đông
Pháp thời báo số 532, ra ngày 14.1.1927: “Xét lại tăng giới hiện thời ở nước ta mà
nhất là ở Nam Kỳ, phần nhiều không chuyên tâm về đường học vấn, kẻ hảo tâm

thời lo độc thiện, có khi lạc vào cái chủ nghĩa yếm thế nên không biết nghĩa vụ và
trách nhiệm của mình; mình đã chẳng biết thời làm sao truyền bá ra cho người khác
biết được?”.
Nhìn chung, trước bối cảnh trong và ngoài nước như thế, nhiều tăng sĩ cùng
nhân sĩ trí thức yêu nước có nhiệt tâm, có tín tâm với đạo Phật đã tìm mọi cách chấn
hưng Phật giáo để khôi phục lại truyền thống tín ngưỡng, đạo lý và phong tục tập
quán của dân tộc, đồng thời qua đó đoàn kết tập hợp lực lượng để chống Pháp,



18
giành độc lập cho dân tộc. Công cuộc này đã làm thay đổi rất nhiều về nội dung và
hình thức hoạt động của Phật giáo Việt Nam.
1.1.3. Hoạt động của phong trào Chấn hƣng Phật giáo
Có thể nói, phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam được khởi đầu từ các
đô thị Nam Kỳ với những đóng góp quan trọng của HT. Khánh Hòa và sư Thiện
Chiếu, để sau đó lan ra Trung và Bắc Kỳ.
1.1.3.1. Phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ
Từ năm 1920, mặc dù trong cả nước, tình hình Phật giáo không có gì sáng
sủa nhưng tại Nam Kỳ, rải rác ở các nơi, nhiều vị có tâm huyết vẫn duy trì các đạo
tràng tu học Phật pháp và thuyết giảng tại các chùa lớn, như: HT. Thích Từ Phong
giảng dạy Phật pháp cho tăng sĩ tại chùa Giác Hải. Hòa thượng còn tổ chức khắc
bản in kinh và khuyến khích việc phiên dịch kinh Phật ra chữ Quốc ngữ. Từ năm
1922, Hòa thượng đã cho xuất bản bộ Quy Nguyên Trực Chỉ do chính mình phiên
dịch ra Quốc ngữ. HT. Khánh Hòa thì thuyết giảng Phật pháp cho chư tăng tại chùa
Tiên Linh. HT. Chí Thành quy tụ tăng sĩ về giảng dạy Phật pháp hàng năm tại chùa
Phi Lai. Hòa thượng còn tổ chức thành lập trường Phật học dành cho ni giới tại
chùa Giác Hoa (Bạc Liêu) và đã thu hút được trên một trăm học ni về tham học. Tại
Trà Vinh, HT. Huệ Quang giảng dạy Phật pháp tại chùa Long Hòa; HT. Khánh Anh
giảng tại chùa Long An. Cả hai đạo tràng đều có từ bốn mươi đến một trăm học

tăng tham học. Ngoài ra còn có HT. Tâm Thông chùa Trường Thọ (Gò Vấp - Gia
Định), HT. Hoằng Nghĩa chùa Giác Viên (Chợ Lớn), HT. Huệ Tịnh chùa Linh
Thuyền (Gò Công)… cũng thể hiện nhiệt huyết truyền bá Phật pháp ngay tại trú xứ
của chính các vị đó.
Năm 1923, trong một buổi họp của đại diện các Tổ đình tại chùa Long Hòa,
Trà Vinh, HT. Khánh Hòa đã khởi xướng thành lập tổ chức Lục Hòa Liên hiệp
nhằm mục đích tạo điều kiện cho các vị có tâm huyết, lo lắng về sự suy đồi của Phật
giáo Việt Nam có cơ hội gặp gỡ nhau để bàn bạc việc Chấn hưng Phật giáo, qua ba
nỗ lực: chỉnh đốn tăng già, kiến lập Phật học đường, diễn dịch và xuất bản kinh sách

×