Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2006-2010: Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.61 KB, 29 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu là đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển hiện đại
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ năm 1986 Đảng , Nhà nước và chính phủ Việt
Nam đã có những chính sách nhằm phát huy nội lực và tận dụng ngoại lực cho phát
triển kinh tế . Việc xây dựng các chính sách kinh tế kết hợp với các chính sách ngoại
giao đã trở một trong những việc được các cơ quan hết sức quan tâm. Và từ những nhu
cầu thực tế đó thì từ năm 1993 Việt Nam đã xây dựng những khung chính sách cho
việc thu hút và sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA ) cho đầu tư phát triển
kinh tế. Trải qua gần 17 năm qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu nhất định
trong việc sử dụng ODA và tạo ra niềm tin cho các nhà tài trợ. Trong các nhà tài trợ
song phương cho Việt Nam thì Nhật Bản là một trong những nước sớm nhất và có
lượng vốn ODA cung cấp lớn nhất cho Việt Nam. Nhờ có vốn ODA của Nhật Bản mà
chúng ta đã tạo ra một kênh huy động vốn lớn bổ sung cho ngân sách nhà nước, một
nguồn vốn lớn cho xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế. Việc sử dụng vốn
ODA của Nhật Bản đã có những vai trò nhất định trong quá trình thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, xóa đói giảm nghèo, hoàn thiện cơ sở hạ tầng... Tuy nhiên trong quá trình thu
hút và sử dụng vốn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam đã xuất hiện nhiều những bất
cập, tồn tại cần được giải quyết. Do đó cần có những nghiên cứu nhằm đánh giá lại
những điều đã đạt được và chưa đạt được trong quá trình thu hút và sử dụng ODA, đặc
biệt là công tác thu hút ODA của Nhật Bản vào Việt Nam. Xuất phát từ yêu cầu đó em
đã chọn nghiên cứu đề tài: “Thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của
Nhật Bản vào Việt Nam giai đoạn 2006-2010: Thực trạng và giải pháp”, nhằm đưa
ra những góc nhìn khái quát về thực trạng công tác thu hút ODA của Nhật Bản vào
Việt Nam trong thời gian qua, từ đó đưa ra những đề xuất những giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác này.

1


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ ODA


1. Giới thiệu chung về nguồn vốn ODA:
1. Khái niệm:
Khái niệm về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được Ủy Ban hỗ trợ
phát triển (DAC) chính thức đề cập đến vào năm 1969. Từ đó đến nay, đã có nhiều
định nghĩa về ODA nhưng sự khác biệt giữa chúng không nhiều. Ở đây, xin đưa ra một
số khái niệm về ODA đã đưuọc các nhà tài trợ đề cập đến trong quá trình hỗ trợ phát
triển:
- Theo Ủy ban hỗ trợ phát triển (DAC): ODA là các khoản viện trợ không hoàn
lại, các khoản viện trợ có hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi của chính phủ các nước,
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, các tổ chức tài
chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân các nước đang và chậm phát triển.
- Theo Ngân hàng thế giới (WB): ODA là một phần của tài chính phát triển chính
thức (ODF) trong đó có yếu tố viện trợ không hoàn lại cộng với cho vay ưu đãi và phải
chiếm ít nhất 25% trong tổng viện trợ.
- Đối với Việt Nam: tại Điều 1 của Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định số 17/2001//NĐ-CP ngày 4 tháng 5 năm
2001 của Chính phủ quy định: Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) được hiểu là hoat
động hợp tác phát triển giữa Nhà nước hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ bao gồm chính phủ nước ngoài, các tổ chức liên chính
phủ hoặc liên quốc gia. Hình thức cung cấp ODA bao gồm ODA không hoàn lại và
ODA vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%.
Trong thông tư số 06/2001/TT-BKH hướng dẫn thực hiện Quy chế quản lý và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức được Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành ngày
20 tháng 9 năm 2001 đã quy định yếu tố không hoàn lại của ODA vay ưu đãi:
Yếu tố không hoàn lại là tỉ lệ phần trăm giá trị danh nghĩa của khoản vay phản
ánh mức độ ưu đãi của khoản vay ODA. Yếu tố này được xác đinh dựa trên lãi suất,
thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ lệ chiết khấu. Công
thức tổng quát để xác định yếu tố không hoàn lại đươc đưa ra như sau:

GE = 100% . (1


).

GE: Yếu tố không hoàn lại (%)
R : Tỷ lệ lãi suất hàng năm
2


A : Số lần trả nợ trong năm
d : Tỷ lệ chiết khấu của mỗi kỳ: d= (1 + d’)1/a – 1
d’ : Tỷ lệ chiết khấu của cả năm
G : Thời gian ân hạn
M : Thời hạn cho vay
Như vậy, các khái niệm ODA được đưa ra có những điểm khác nhau vì được xét
ở dưới các giác độ khác nhau. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách chung nhất về ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là các khoản viển trợ hoàn lại và không
hoàn lại, được tài trợ trong khuôn khổ hợp tác giữa các chính phủ, các tổ chức liên
chính phủ hoặc liên quốc gia cho chính phủ và nhân dân các nước đang và chậm phát
triển với mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân
dân và phát triển bền vững.
Điều kiện để một nguồn vốn được coi là vốn ODA:
- Lãi suất thấp: dưới 3%/năm, trung bình thường là: 1-2 %/năm.
- Thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài: 25- 40 năm mới phải hoàn trả
lại, thời gian ân hạn: 8-10 năm.
- Trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là
25% của tổng số vốn ODA.
2. Đặc điểm nguồn vốn ODA:
2.1. ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển
Đây là đặc điểm cơ bản của nguồn vốn ODA, được thể hiện ở tính chất ưu đãi
cao. Không kể đến các khoản ODA không hoàn lại, các khoản ODA vốn vay cũng

được hưởng chế độ ưu đãi như: lãi suất thấp, thườn dưới 3%/năm; thời gian sử dụng
vốn dài, thường từ 20-50 năm, trong đó thời gian ân hạn (không phải trả lãi) từ 5-10
năm và thời gian chịu lãi suất với lịch trả nợ cũng đa dạng, gồm nhiều giai đoạn và
được áp dụng những tỷ lệ trả nợ khác nhau theo từng giai đoạn
2.2. ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi
Bởi vì bao giờ cung có phần cho không là chủ yếu. Còn phần cho vay chủ yếu là
vay ưu đãi với lãi suất thấp hơn các khoản tín dụng rất nhiều (thường dưới 3%) và vay
thương mại rất nhỏ. Thời gian sủ dụng vốn dài, thường là từ 20-50 năm và để được
xếp vào ODA, một khoản cho vay phải có một yếu tố tối thiểu là 25% viện trợ không
hoàn lại.
2.3. ODA là nguồn vốn có nhiều ràng buộc:
Vì đi kèm với ODA bao giờ cũng có những ràng buộc nhất định về chính trị kinh
tế hoặc khu vực địa lý. Nước nhận viện trợ còn phải đáp ứng các yêu cầu của bên cấp
viện trợ như thay đổi chính sách đối ngoại, chính sách kinh tế, thay đổi thể chế chính
trị… cho phù hợp với mục đích của bên tài trợ
2.4. ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ
Vì khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nợ
3


thương chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên
sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lâm vào vòng nợ nần do không có
khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản
xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do
đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để
tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
3. Phân loại ODA:
Có nhiều cách để phân loại ODA, dưới đây là 3 cách phổ biến nhất:
3.1. Theo nguồn hình thành: (có 2 loại)
● ODA song phương: là khoản viện trợ trực tiếp từ nước này sang nước kia thông

qua việc kí kết hiệp định chính phủ.
Viện trợ song phương chiếm tỷ trọng cao: trên 80% tổng vốn ODA toàn thế giới.
(ODA của Nhật Bản vào Việt Nam là ODA song phương.)
● ODA đa phương: là hình thức viện trợ ODA cho các nước đang phát triển thông qua
các tổ chức tài chính quốc tế như: Ngân hàng thế giới (WB). Ngân hàng phát triển châu
Á( ADB), Ngân hàng phát triển châu Mỹ (IDB), Quỹ phát triển châu Phi…
Nguồn ODA đa phương hình thành chủ yếu từ sự đóng góp của các nước công
nghiệp phát triển.
3.2. Theo hình thức hoàn trả: (có 3 loại)
● Viện trợ không hoàn lại: Nước nhận viện trợ không phải hoàn trả lại khoản vốn
đã được cấp.
● Viện trợ có hoàn lại (Vay vốn): Được vay với lãi suất ưu đãi nhưng phải hoàn
trả lại vốn theo đúng thời gian quy định.
● ODA hỗn hợp: áp dụng 1 phần ODA khong hoàn lại, một phần cho vay ưu đãi.
Thậm chí, có loại ODA kết hợp 3 loại hình: một phần không hoàn lại, một phần vốn
vay ưu đãi và một phần tín dụng thương mại( lãi suất thị trường).
3.3. Theo mục đích sử dụng: (có 2 loại)
- Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là những khoản cho vay ưu đãi.
- Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công nghệ,
xây dưng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền đầu tư, phát triển
thể chế và nguồn nhân lực… loại hỗ trợ này chủ yếu là viện trợ không hoàn lại.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới ODA:
4.1. ODA gắn liền với chính trị:
Và là một trong những Phuong tiện để thực hiện ý đồ chính trị. ODA cũng chịu
ảnh hưởng bởi các quan hệ sãn có của bên cấp viện trợ cho nước nhận viện trợ bởi sự
tương hợp về thể chế chính trị, bởi quan hệ địa dư gần gũi. Bên cấp viện trợ và các
nguồn vốn chính thức khác thường cấp viện trợ cho những người bạn về chính trị và
đồng minh quân sự mà không cấp viên trợ cho những đối tượng mà họ cho là kẻ thù.
4



Đó chính là tính chất địa lý-chính trị được thể hiện rất rõ trong viện trợ.
4.2. ODA gắn với điều kiện kinh tế:
Các nước viện trợ nói chung đều muốn đạt được những ảnh hưởng về chính trị ,
đem lại lợi nhuận cho hàng hóa dịch vụ tư vấn trong nước. Họ gắn quỹ viện trợ với
việc mua hàng hóa dịch vụ của nước họ như lad một biện pháp nhằm tăng cường khả
năng làm chủ thị trường xuất khẩu và giảm bớt tác động của viện trợ đối với cán cân
thanh toán. Mặt khác, nước nhận viện trợ còn phải chịu rủi ro của đồng tiền viện trợ.
Nếu đồng tiền viện trợ tăng giá so với đồng tiền của các nước nhận được do xuất khẩu
thì nước tiếp nhận sẽ phải trả thêm một khoản nợ bổ sung do chênh lệch tỷ giá tại thời
điểm vay và thời điểm trả nợ. Theo tính toán của các chuyên gia thì cho dù không đi
kèm theo điều kiện ràng buộc nào thì viện trợ vẫn đem lại lợi ích thương mại cho quốc
gia viện trợ.
4.3. ODA chịu ảnh hưởng của các nhân tố xã hội:
ODA là một phần GNP của các nước tài trợ nên rất nhạy cảm với các dư luận xã
hội ở các nước tài trợ. Nhân dân các nước cấp viện trợ coi trọng tầm quan trọng của cả
số lượng và chất lượng của viện trợ, họ sẵn sàng ủng hộ viện trợ với điều kiện là viện
trợ được sử dụng tốt. Còn đối với các nước nhận viện trợ, nguy cơ ohuj thuộc viện trợ
nước ngoài, gánh nặng nợ nần là một thực tế khó tránh khỏi. Do vây, các nước nhận
viện trợ cần phải rất thận trọng khi sử dụng ODA.
5. Vai trò của ODA:
5.1. Bổ sung cho nguồn vốn đầu tư:
Các nước đang phát triển là những nước rất cần vốn cho đầu tư phát triển, và
viện trợ chính là một hình thức bổ sung cho nguồn vốn trong nước. Vốn đầu tư có thể
thu hút từ các nguồn ODA, FDI hoặc nguồn vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế. Trong
điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn hẹp thì nguồn vốn nước ngoài có tầm quan
trọng đặc biệt. Nguồn vốn ODA thường được các nước đang phát triển đầu tư cải thiện
cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, xây dựng đương giao thông, phát triển năng lượng… vì
đây là những ngành cần phải đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm nên tư nhân không có khả

năng đầu tư.
Viện trợ còn thức đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và phát triển
nguồn nhân lực. Nhờ có viện trợ mà nước nhận tài trợ với cơ chế quản lý tốt sẽ tạo ra
được cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội vững chắc, giao thông thuận tiện, hệ thống pháp luật
ổn định, viện trợ là sự chuẩn bị cho vốn đầu tư trực tiếp được thu hút vào là điểu kiện
cho FDI được sử dụng một cách hiệu quả.
Viện trợ thúc đẩy đầu tư tư nhân: Ở những nước có cơ chế quản lý tốt thì viện trợ
nước ngoài không những không thay thế đầu tư tư nhân mà đóng vai trò như là nam
châm hút đầu tư tư nhân theo tỷ lệ sấp xỉ 2 USD trên 1 USD viện trợ. Đối với các nước
quản lý tốt thì viện trợ góp phần củng cố niềm tin cho khu vực tư nhân và hỗ trợ các
dịch vụ công cộng. Viện trợ tăng với quy mô 1% GDP sẽ làm tăng đầu tư tư nhân trên
5


1,9% GDP. Ở các nước có cơ chế quản lý tồi, viện trợ nước ngoài có thể khuyến khích
khu vực Nhà nước tiến hành các khaonr đầu tư thương mại đáng ra do khu vực tư nhân
thực hiện.
5.2. Chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực:
Cách mạng khoa học công nghệ đã tạo nên sự phát triển nhanh chóng ở nhiều
nước. Nhưng đây cũng là nguyên nhân làm tăng khoảng cách giữa các nước giàu và
nghèo. Tranh thủ các thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại của các nước đang phát
triển là bước “đi tắt đón đầu” trong chiến lược phát triển của những nước đi sau. Tuy
nhiên, chi phí để có thể tận dụng được những cơ hội này là rất lớn đối với ngân sách
hạn chế của những nước này. Vì vậy, chuyển giao công nghệ thông qua hỗ trợ phát
triển là hình thức phù hợp và cần thiết để các nước đang và chậm phát triển nhanh
chóng nắm băt được những công nghệ, kỹ thuật mới, tăng cường năng lực thể chế,
phát triển nguồn nhân lực…
5.3. Góp phần cải thiện thể chế và cơ cấu kinh tế:
Cải thiện thể chế và chính sách kinh tế ở những nước đang phát triển là chìa khóa
để tạo bước nhay vọt về lượng trong thúc đẩy tăng trưởng, tức là góp phần làm giảm

đói nghèo. Mặt khác, viện trợ có thể nuôi dưỡng cải cách. Khi các nước mong
mnuoons cải cách thì viện trợ nước ngoài có thể đóng góp những nỗ lực cần thiết như
hỗ trợ thử nghiệm cải cách, trình diễn thí điểm, tạo đà và phổ biến các bài học kinh
nghiệm. Những nước mà ở đó chính phủ thực hiện những chính sách vững chắc phân
bổ hợp lý các khoản chi tiêu và cung cấp dịch vụ có hiệu quả cao thì hiệu quả chung
của viện trợ là lớn. Ngược lại, ở những nước mà chính phủ và nhà tài trợ không đồng
nhất quan điểm trong việc chi tiêu, hiệu quả lại thấp thì các nhà tài trợ cho rằng cách
tốt nhất là giảm viện trợ và tăng cường hỗ trợ cho việc hoạch định chính sách và xây
dựng thể chế cho đến khi các nhà tài trợ thấy rằng viện trợ của họ sẽ đóng góp cho sự
phát triển.
Cơ chế quản lý tốt, ổn định kinh tế vĩ mô, Nhà nước pháp quyền và hạn chế tham
nhũng sẽ dẫn đến tăng trưởng và giảm đói nghèo. Tuy không có mối quan hệ về lượng
giữa viện trợ và chất lượng chính sách của nước nhận viện trợ nhưng trong một số
trường hợp viên trợ vẫn có thể góp phần cải cách, thông qua các điều kiện đặt ra hoặc
thông qua việc phổ biến ý tưởng mới.
5.4. Xóa đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội:
Viện trợ tác động tới tăng trưởng, từ đó tác động đến mục đích nâng cao mức
sống. Đối với các nước có cơ chế quản lý tốt, khi viện trợ tăng lên khiến tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế tăng lên thì mức thu nhập của người lao động có xu hướng
được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo được trực tiếp giảm xuống. Tăng trưởng không loại bỏ
đói nghèo nhưng rõ ràng tăng trưởng có tác động lớn đến cait thiển các chỉ tiêu xã hội.
Các cơ hội về y tế, chăm sóc sức khỏe hay giáo dục xuất hiện ngày một nhiều hơn
cùng với sự lớn dần lên của nền kinh tế. Nếu một nước có cơ chế quản lý tốt thì khi
6


viện trợ tăng lên sẽ kéo theo việc giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em. Điều đó có nghĩa là các
tiêu chí xã hội có quan hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đàu người, hay nói cách
khác nó có quan hệ chặt chẽ với viện trợ.
Tóm lại, viện trợ đã và đang có hiệu quả. Tuy nhiên, nguồn vốn ODA chỉ phát

huy hết vai trò của nó khi có một cơ chế quản lý tốt, một thể chế lành mạnh và một
môt trường chính trị hoàn thiện. Nếu không chẳng những ODA không phát huy vai trò
của nó mà còn đem lại gánh nặng nợ nần cho đất nước.
Việt Nam là một nước đang phát triển, hiện đang mong muốn nhận được nhiều
nguồn ODA và quản lý sử dụng ODA thật hiệu quả phục vụ cho phát triển đất nước.
Việt Nam cần nhận thức rõ được vai trò của ODA, các điều kiện để ODA phát huy vai
trò của nó để từng bước hoàn thiện công tác thu hút, quản lý và sử dụng ODA.

7


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ODA CỦA NHẬT BẢN
VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010
I. Giới thiệu chung về nguồn vốn ODA Nhật Bản:
1. Mục tiêu cấp ODA cho Việt Nam của Nhật bản:
Thứ nhất: Vị trí và tầm quan trọng của Việt Nam trong ASEAN sẽ là nhân tố
quan trọng cho sự phát triển nhiều mặt của Nhật Bản:
Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam nằm
trên các tuyến giao thông biển ở khu vực Tây Thái Bình Dương có nhiều cửa ngõ
thông thương ra biển, những hải cảng lớn như Hải Phòng, Cam Ranh, Đà Nẵng, Vũng
Tàu… đều rất có ý nghĩa lớn về mặt quân sự, có thể được xem như một yếu tố tác
động đến chiến lược an ninh của Nhật Bản . Trong tương lai không xa Việt Nam sẽ là
nước đóng vai trò quan trọng về mặt chính trị và kinh tế trong khu vực châu Á.
Một mặt chính phủ Nhật Bản khẳng định mục tiêu chủ yếu trong chính sách đối
ngoại của Nhật Bản là góp phần vào hòa bình và phát triển kinh tế trên toàn thế giới
nhưng không thể phủ nhận được rằng chính nhân tố hòa bình, ổn định chính trị và phát
triển kinh tế ở khu vực này rất quan trọng đối với sự phát triển của Nhật Bản. ASEAN
là một thể chế khu vực có vai trò then chốt trong chính sách châu Á của Nhật Bản.
Nhật Bản cũng đã khẳng định Việt Nam đóng vai trò then chốt trong ASEAN. Vì thế

thúc đẩy quan hệ với Việt Nam cũng sẽ giúp cho Nhật Bản xích lại gần hơn với Asean.
Và ngược lại mối quan hệ giữa Nhật Bản và ASEAN đã được đẩy mạnh thì nó cũng có
ảnh hưởng tới mối quan hệ song phương giữa hai nước: “hướng tới xây dựng một đối
tác chiến lược vì hoà bình, phồn vinh ở Châu Á”. (Trích lời Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng nhân dịp tới thăm Nhật Bản tháng 10/2006)
Thứ hai: Nhật Bản muốn gây dựng vị thế trên trường quốc tế:
Trên thực tế, các nước công nghiệp phát triển, đặc biệt là các cường quốc kinh tế
luôn cố gắng tạo thanh thế, mở rộng ảnh hưởng của mình trên chính trường thế giới,
tìm kiếm, lôi kéo sự ủng hộ của các nước phát triển chậm hơn trong các vấn đề có tính
chất quốc tế. Trong cuộc chạy đua tìm kiếm đồng mình, viện trợ ODA là một trong
những biện pháp tỏ ra rất hiệu quả. Chẳng hạn như, phần lớn viện trợ ODA của Mỹ là
dành cho đồng minh Ixraen.
Nhật Bản cũng là một cường quốc kinh tế, việc gây dựng và khẳng định vị thế
của mình ngày một được coi trọng và tăng cường. Sự ảnh hưởng của Trung Quốc cũng
khiến Nhật phải vùng lên tạo thế cân bằng. Điều này cho thấy tham vọng và mục đích
của Nhật Bản là thiết lập một trật tự thế giới mới trên cơ sở tạo lập được niềm tin và sự
đồng tình ủng hộ của các nước mang tính cách mạng theo ý muốn của họ.
8


Thứ ba: Nhật Bản đang nhìn Việt Nam như 1 thị trường đầy tiềm năng:
Trong con mắt của các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam là thị trường có triển vọng
đứng thứ tư toàn cầu, chỉ sau Trung Quốc, Thái Lan và Ấn Độ. Mặt khác vì tỉ lệ rủi ro
thấp của Nhật Bản khi đầu tư vào Việt Nam: "Việt Nam được nhiều nhà đầu tư coi là
nơi để phân bổ rủi ro. Các nhà đầu tư, nhất là các nhà đầu tư Nhật Bản rất chú ý tới
yếu tố này vì Việt Nam đang nổi lên là một nơi thay thế đầu tư khá lý tưởng do kết hợp
được cả các yếu tố khác như nguồn lao động có kỹ năng, chi phí nhân công thấp, môi
trường đầu tư được cải thiện, không có khủng bố, có nhiều chính sách ưu đãi và
khuyến khích đầu tư…". (Trích lời ông TaiHui - Trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế
khu vực Đông Nam Á của ngân hàng Standard Chartered)

Báo Nihon Keizai ngày 21/8/1995 từng nêu lên 7 thế mạnh của Việt Nam: lực
lượng lao động cần cù, chịu khó và có trình độ văn hoá cao, tài nguyên thiên nhiên
giàu có như dầu lửa, khí đốt, than, quặng, sắt, bô xít, nền nông nghiệp đầy tiềm năng,
bờ biển dài, tiềm năng nguồn du lịch phong phú, được kích thích bởi tốc độ tăng
trưởng nhanh của các nước châu Á xung quanh, tình hình chính trị ổn định.
Như vậy, nếu nhìn tổng thể về nội lực của Việt Nam thì chúng ta sẽ thấy những
yếu tố cơ bản mang lại lợi thế không nhỏ cho Nhật Bản khi đầu tư. Sự ưu tiên của
Nhật Bản đối với Việt Nam trước hết xuất phát từ lợi ích của Nhật Bản bởi vì ODA giữ
vai trò “mở đường” và tạo “cử chỉ thân thiện”, để sau đó Nhật Bản thực hiện chính
sách xúc tiến thương mại và đầu tư trực tiếp FDI. Qua ODA, các doanh nghiệp Nhật
Bản có thể tiếp cận nhanh hơn đến Việt Nam qua các hợp đồng xây dựng dự án cụ thể,
nhà đầu tư Nhật Bản cũng đến Việt Nam dễ dàng hơn vì cơ sở hạ tầng phát triển.
Thứ tư: Việt Nam và Nhật Bản có nhiều tiếng nói chung và điểm tương đồng:
Con người, đất nước Việt Nam và Nhật Bản đều cần cù, chịu khó, tiết kiệm và
tinh thần phấn đấu vươn lên, có lối sống cộng đồng chặt chẽ, có nhiều đặc điểm văn
hoá hàng nghìn năm cùng tồn tại trong điều kiện văn minh nông nghiệp lúa nước, cùng
tiếp thu ảnh hưởng của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, và tâm lý tương tự.
Có giả thiết cho rằng, sở dĩ, Nhật Bản luôn là đối tác viện trợ hàng đầu cho Việt
Nam là vì, một góc độ nào đó xuất phát từ mối bang giao mềm mỏng và nhân hoà của
chúng ta trong chiều dài lịch sử với Nhật Bản, không hẳn là phải chờ đến những năm
gần đây khi hai nước hướng tới mục tiêu trở thành đối tác chiến lược của nhau. Nhà
nghiên cứu Chương Thâu đặt vấn đề: liệu mối quan hệ “đồng văn đồng chủng” từ hơn
100 năm trước dường như vẫn còn đó dấu ấn, nhiều tình cảm tốt đẹp đã ăn sâu trong
nếp nghĩ của người dân hai nước. ODA bản chất là tiền đóng thuế của nhân dân nước
tài trợ thông qua cơ quan Chính phủ Nhật Bản và người dân Việt Nam ở các vùng quê
đang được hưởng lợi trong việc sử dụng các công trình công cộng xây dựng bằng
ODA. Ngài Izuki Ikuo - Tổng lãnh sự Nhật Bản tại Việt Nam cũng bày tỏ “người dân
Nhật Bản theo dõi các dự án ODA rất chặt chẽ. Chúng tôi sẽ theo dõi hiệu quả của các
dự án để xem cuộc sống của người dân ở vùng mà dự án đầu tư đượccải thiện như thế
9



nào và giải thích cho người dân đóng thuế ở Nhật Bản”. Tất nhiên, điều này cần có
thời gian và những luận cứ khoa học để khẳng định.
2. Chính sách ODA Nhật Bản tại Việt Nam:
Tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản là nước phát triển đầu tiên tuyên bố nối lại
viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, góp phần khai thông mối quan hệ
của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế chủ chốt.
Từ đó đến nay, mặc dù nền kinh tế Nhật Bản có những thời điểm gặp khó khăn,
nhưng Chính phủ Nhật Bản luôn là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam.
Chính sách ODA của Nhật Bản chủ yếu được thực hiện thông qua 2 tổ chức là
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC) và Cơ quan hợp tác và phát triển Nhật
Bản (JICA) được thành lập vào tháng 10 năm 1999 trên cơ sở việc sát nhập hai tổ chức
Quỹ hợp tác Kinh tế Hải ngoại Nhật Bản (OECF) và Ngân hàng Xuất-Nhập khẩu Nhật
Bản (JEXIM). Đây là, một tổ chức chuyên cung cấp các khoản tín dụng ưu đãi dài hạn,
chủ yếu cho các nước đang phát triển một cách phù hợp với chính sách kinh tế vĩ mô
và chiến lược liên kết, hợp tác kinh tế quốc tế của Nhật Bản. JBIC và JICA là tổ chức
xúc tiến hợp tác quốc tế và trực tiếp tổ chức thực hiện tài trợ thông qua việc triển khai
các dự án hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực tręn các lĩnh vực cho các nước đang
phát triển.
2.1. Chính sách cơ bản về ODA của Nhật Bản:
● Hỗ trợ tinh thần tự lực của các nước phát triển.
● Tăng cường an ninh, an toàn cho con người.
● Đảm bảo sự công bằng .
● Tận dụng kinh nghiệm, chuyên môn.
● Hợp tác với cộng đồng quốc tế.
2.2. Về lĩnh vực ưu tiên:
ODA của Nhật Bản dành cho Việt Nam trước đây nhằm vào 5 lĩnh vực ưu tiên:
● Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng thể chế, trong đó chú trọng hỗ trợ
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.

● Hỗ trợ cải tạo và xây dựng các công trình điện và giao thông.
● Hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng ở nông thôn
và chuyển giao công nghệ mới tại các vùng nông thôn.
● Hỗ trợ phát triển giáo dục và y tế.
● Hỗ trợ bảo vệ môi trường.
Từ năm 2007, có một điểm khác biệt trong cơ chế nhận hỗ trợ ODA so với chính
sách ODA cũ là các dự án nhận hỗ trợ sẽ được lựa chọn thông qua đối thoại, chứ
không phải theo yêu cầu như trước đây và khoản hỗ trợ được hoạch định ngay tại nước
nhận ODA nhằm sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả. Do vậy, chính sách ODA
mới của Nhật Bản ưu tiên hỗ trợ hàng đầu vào 3 lĩnh vực sau :
10


● Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Để thực hiện mục tiêu này, Nhật Bản sẽ tập
trung hỗ trợ vào lĩnh vực cải cách kinh tế như hoàn thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ
phát triển kinh tế tư nhân, nâng cấp kết cấu hạ tầng giao thông vận tải, điện lực, công
nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực, cải cách doanh nghiệp Nhà nước.
● Cải thiện đời sống dân cư và các lĩnh vực xã hội.
● Hoàn thiện thể chế, pháp luật: Nhật Bản sẽ hỗ trợ Việt Nam cải cách hành
chính, trong đó có cải cách chế độ công chức thông qua việc sử dụng kinh nghiệm và
các công nghệ tiên tiến của Nhật Bản.
2.3. Về cơ chế vay vốn ODA của Nhật Bản:
ODA Nhật Bản được chia ra làm 2 loại đó là ODA song phương và ODA đa
phương. Trong đó, ODA song phương bao gồm viện trợ (Grants) và tín dụng (Loans).
Cho vay song phương do Bộ Tài Chính NB( MOF) xây dựng chính sách còn chính
sách viện trợ không hoàn lại thuộc quản lý của Bộ Ngoại Giao( MOFA). Ngoài ra, việc
cung cấp vốn đầu tư cho các dự án ở các nước đang phát triển do tổ chức phát triển
quốc tế NB( JAIDO) thực hiện. ODA đa phương được thực hiện thông qua kênh các tổ
chức quốc tế mà Nhật Bản đóng góp vào như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát
triển châu Á.

2.4. Về thời hạn và điều kiện vay vốn ODA của Nhật Bản:
ODA cung cấp với lãi suất rất thấp. Ví dụ, các khoản vay trong năm tài chính
1998 có tỷ lệ lãi suất trung bình 1,3% với thời gian đáo hạn trung bình cho một dự án
vay là 23 năm rưỡi. Thêm vào đó, có thể gia hạn thêm từ 7 - 10 năm sau. Việt Nam là
một trong các nước nằm ở khu vực ưu tiên cấp ODA hàng đầu của Nhật ( khu vực
châu Á chiếm 80% tổng số ODA Nhật cấp).
2.5. Về thể thức cho vay:
● Triển khai theo dự án:
- Dự án vay vốn (Project Loans): chủ yếu cung cấp để đầu tư mua sắm máy móc,
thiết bị, thuę vận hành, tư vấn kỹ thuật và các nhu cầu khác có liên quan.
- Cho vay để thực hiện trợ giúp kỹ thuật, chuyển giao công nghệ (Engineering
services loans- E/S)
- Cho vay thông qua trung gian tài chính hay còn gọi là theo quy trình 2 bước
(Two-step loans): cung cấp vốn vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong
lĩnh vực sản xuất công nghiệp hoặc nông nghiệp.
● Loại phi dự án (không có dự án riêng):
- Cho vay nhập khẩu hàng hóa (Commodity Loans): cung cấp cho các nước đang
phát triển đang thiếu ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa.
- Cho vay để tiến hành tái cơ cấu lại ngành, lĩnh vực.
- Cho vay theo chương trình định hướng vào lĩnh vực then chốt.
2.6. Quy trình xin vay và triển khai dự án:
Các dự án vay ODA được thực hiện qua một số bước như sau: Chuẩn bị (xây
11


dựng) dự án; Nộp hồ sơ xin vay; Thẩm định dự án; Thỏa thuận, thống nhất giữa các bên về
nội dung hợp đồng vay; Triển khai dự án; Kết thúc, đánh giá dự án hoặc điều chỉnh.
Trong đó, riêng khâu thẩm định dự án gồm 3 bước như sau:
- Sàng lọc sơ bộ: Hồ sơ dự án xin vay vốn (theo mẫu JBIC hướng dẫn) gửi đến JBIC sẽ
được phân loại thành 3 loại A, B, C phù hợp với tiêu chí bảo vệ môi trường mà JBIC đưa ra.

- Xem xét, phân tích đánh giá kỹ các yếu tố liên quan đến môi trường đối với
từng loại dự án đă phân loại.
- Khẳng định sự phù hợp của dự án liên quan đến các vấn đề môi trường, có 2
phương diện đánh giá cơ bản mà dựa trên đó hệ thống các tiêu chí được thiết lập bao
gồm: môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội.
Việc tìm hiểu bản chất đích thực của nguồn vốn ODA của Nhật Bản dành cho
Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng để một mặt tiếp nhận và sử dụng chúng một
cách có hiệu quả nhất mang lại lợi ích cho Việt Nam, mặt khác tránh được sự lệ thuộc
hay phải đánh đổi những lợi ích mà chúng ta không đáng phải đánh đổi với Nhật Bản.
Vậy, thực trạng việc tiếp nhận ODA Nhật Bản của Việt Nam như thế nào và chúng ta
đã có được những thành tựu gì cũng như những vấn đề gì còn vướng mắc? Phần II và
III sau đây viết sẽ đề cập đến vấn đề này.
II. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn ODA Nhật Bản:
1. Quy mô:
Việt Nam là một trong những thị trường thu hút được rất nhiều vốn ODA. Hiện
nay có 28 nhà tài trợ song phương, 23 tổ chức tài trợ ODA đa phương. trong đó có 24
nhà tài trợ cam kết ODA thường niên (úc, Bỉ, Canađa, Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp,
Đức, Italy, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lux-xem-bua, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Tây Ban
Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thái Lan, Anh, Hoa Kỳ, Ailen, ), 4 nhà tài trợ không cam kết
ODA thường niên (Áo, Trung Quốc, Nga, Singapore) mà cam kết ODA theo từng dự án
cụ thể. Dưới đây là bảng 10 nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam giai đoạn 1993-2006:
Số vốn ODA cam kết của 10 nhà tài trợ hàng đầu cho Việt Nam giai đoạn
1993-2006 (Đơn vị: Triệu USD)
Nhà tài trợ
Số lượng vốn cam kết
Nhật Bản
8.469,73
WB
5.329,82
ADB

2.900,97
Pháp
912,26
Đức
597,35
Đan Mạch
549,48
Thuỵ Điển
412,83
Trung Quốc
301,08
Ôxtrâylia
282,32
EU
269,83
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
12


Nhìn trên bảng số liệu ta thấy Nhật Bản là nước viện trợ cho lớn nhất cho Việt
Nam. ODA Nhật Bản tăng dần ngay cả trong những năm nền kinh tế Nhật Bản gặp
khó khăn nhất, và trong ba năm trở lại đây, 2006, 2007,2008. Nhật Bản luôn là nước
tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Từ 1992-2007 đạt khoảng 13 tỷ USD, chiếm
khoảng 30 % tổng khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam kết dành cho Việt
Nam, trong đó viện trợ không hoàn lại khoảng 1,5 tỷ USD. Ngày 31-3-2009, với số
tiền 900 triệu USD cho tài khóa 2008 được ký đã nâng tổng số tiền cam kết của các
nhà tài trợ cho Việt Nam năm 2008 lên con số 6 tỷ USD (so với 5 tỷ USD của năm
2007). Với con số này, ODA Nhật Bản dành cho Việt Nam năm 2008 vừa qua đã đạt
mức kỷ lục cao nhất từ trước đến nay.
Viện trợ phát triển chính thức ODA Nhật Bản cho Việt Nam

Đơn vị: tỷ Yên

(Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư)

13


2.Cơ cấu:
2.1. Theo loại hình viện trợ:
Bảng cơ cấu ODA Nhật Bản theo loại hình viện trợ tính đến năm 2003
Đơn vị: tỷ yên

( Nguồn: Bộ kế hoạch - đầu tư)
• Hợp tác vốn vay:
Hợp tác vốn vay là hình thức cho vay của chính phủ Nhật Bản đối với chính phủ
các nước đang phát triển với các điều kiện cho vay mềm dẻo hơn như lãi suất thấp và
thời hạn vay dài. Tại Việt Nam, hợp tác vốn vay chủ yếu dùng cho xây dựng cơ sở hạ
tầng như giao thông vận tải, điện lực, phát triển nông thôn. Hợp tác vốn vay thường do
Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) thực hiện.
Tín dụng ưu đãi của Nhật được thực hiện dưới hai hình thức:
- Tín dụng theo dự án
- Tín dụng phi dự án
Tỷ lệ vốn vay chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số ODA Nhật Bản( 87.3%).
Tư tưởng chủ đạo của ODA Nhật Bản là nhấn mạnh đến yếu tố làm chủ và chủ
động của nước tiếp nhận viện trợ, và do vậy Nhật Bản tập trung cho các khoản tín
dụng ưu đãi hơn là viện trợ. Chính phủ Nhật cho rằng nghĩa vụ trả nợ sẽ tạo động lực
mạnh hơn cho những nỗ lực tăng cường ý thức tự lực cánh sinh.
Cho đến nay thì Nhật Bản đã cùng hợp tác với các nhà đầu tư của ta để xây dựng
những dự án như: Dự án xây dựng cầu Bãi Cháy, dự án cầu Cần Thơ, dự án xây dựng
nhà ga hành khách Quốc Tế sân bay Tân Sơn Nhất, xây dựng đường cao tốc Đông Tây

Sài Gòn, dự án đường hầm Hải Vân, dự án phát triển cơ sở hạ tầng qui mô nhỏ cho
người nghèo, Dự án nhà máy nhiệt điện Phả Lại, dự án nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, dự
án cải thiện môi trường nước Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, dự án mở rộng cảng
Cái Lân, dự án nâng cấp quốc lộ số 5, dự án mạng lưới thông tin liên lạc nông thôn
miền Trung Việt Nam, dự án nhà máy nhiệt điện Ô Môn.
14


• Hợp tác viện trợ không hoàn lại:
Hợp tác viện trợ không hoàn lại là việc trao tặng vốn cho chính phủ các nước
đang phát triển mà không kèm theo nghĩa vụ hoàn trả. Mục đích chính của hợp tác
viện trợ không hoàn lại là đáp ứng cho những nhu cầu căn bản của con người (nâng
cao mức sống cho tầng lớp người dân nghèo đói nhất), đào tạo nhân lực và xây dựng
cơ sở hạ tầng. Hợp tác viện trợ không hoàn lại do bộ ngoại giao thực hiện, trong đó
các dự án hợp tác viện trợ không hoàn lại do địa phương hoặc viện trợ không hoàn lại
hỗ trợ cho các tổ chức phi chính phủ (NGO) của Nhật Bản do Đại sứ quán Nhật Bản
tại Việt Nam thực hiện.
Viện trợ không hoàn lại chiếm 7.3% trong tổng cơ cấu ODA Nhật Bản. Viện trợ
không hoàn lại tập chung vào việc xóa đói giảm nghèo và giải quyết nhu cầu thiết yếu
của con người, cải thiện, nâng cao đời sống con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời
sống nhân dân đối với nước ta. Chính phủ Nhật Bản cũng đã viện trợ không hoàn lại
để phát triển những dự án như: xây dựng TT đào tạo nguồn nhân lực, viện trợ học
bổng phát triển nguồn Nhân lực, cầu Miền Bắc -Trung, xây lại cầu ở đồng bắng sông
Cửu Long, trường kỹ thuật giao thông vận tải I, NC trường tiểu học vùng bão lụt khu
vực miền Trung, NC trường tiểu học miền núi phía Bắc, nâng cấp khoa Nông nghiệp,
trường ĐH Cần Thơ, xây dựng cảng cá Vũng Tàu, hệ thống tưới tiêu Tân Chi, nâng
cao điều kiện sống ở Nam Đàn Nghệ An, nâng cấp bệnh viện (bệnh viện Chợ Rẫy,
bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Hai Bà Trưng, viện Nhi Trung ương, bệnh viện Trung
ương Huế, bệnh viện Đà Nẵng,... ). Sản xuất Vắc xin Sởi, nhà máy nước Gia Lâm, mở

rộng hệ thống cấp nước Hải Dương, nâng cấp hệ thống cấp nước miền Bắc, nâng cấp
thiết bị trồng rừng (Tây Bắc), thiết bị trồng rừng Tây Nguyên, trồng rừng ven biển khu
vực Nam Trung bộ.
• Hợp tác kỹ thuật:
Hợp tác kỹ thuật là hình thức cử chuyên gia, nghiên cứu phát triển, chương trình
đào tạo, cung cấp thiết bị nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển đào tạo nguồn nhân lực
và xây dựng thể chế. Hợp tác kỹ thuật của chính phủ Nhật Bản phần lớn do cơ quan
hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA) thực hiện.
Khác với vốn vay chủ yếu dành cho phát triển cơ sở hạ tầng (giao thông vận tải)
thì hợp tác kỹ thuật chủ yếu tập chung cho phát triển nguồn nhân lực, xây dựng thể chế
thông qua chuyên gia kỹ thuật và kiến thức thích hợp cho Việt nam.
Chương trình đào tạo kỹ thuật và cử các chuyên gia đơn lẻ là hai hình thức hợp
tác cơ bản. Hiện nay, chính phủ Nhật cũng đã mở một số hình thức mới như chương
trình tình nguyện viên cấp cao tại Việt Nam (2001), Chương trình nâng cao năng lực
cộng đồng (1998)…. Tuy nhiên, ODA Nhật Bản giành cho Việt Nam trong cơ cấu hợp
tác kỹ thuật còn hạn chế, chiếm 5.4%.
Hiện nay, dự án hợp tác kỹ thuật: tổng cộng có 15 dự án hiện đang thực hiện
15


(Phục hồi rừng đầu nguồn miền Bắc, Thụ tinh nhân tạo bò, Hợp tác về luật, Sức khoẻ
Sinh sản Nghệ An, Nâng cao kỹ thuật môi trường nước,...) ; ngoài ra Nhật đã tiếp nhận
9.729 thực tập sinh (tính đến năm 2003) ; cử 1.612 chuyên gia (tính đến năm 2003) ; 114
thanh niên tình nguyện theo chương trình hợp tác tình nguyện viên hải ngoại Nhật Bản.
2.2. Cơ cấu theo lĩnh vực:
a. Phát triển nguồn nhân lực, xây dựng thể chế:
• Phát triển nguồn nhân lực:
Thực hiện đường lối “đổi mới” nhằm mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, Đảng và
Nhà nước Việt Nam luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo phát triển nguồn
nhân lực, coi “phát triển nguồn nhân lực và giáo dục và đào tạo” là quốc sách hàng

đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đó chính phủ Nhật Bản đã và đang hỗ
trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế với nhiều chương trình và dự án
quan trọng.
Dự án “Trung tâm Hợp tác Nguồn Nhân lực Việt Nam - Nhật Bản” là một trong
các dự án quan trọng trên lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực và là biểu tượng của tình
đoàn kết hữu nghị giữa hai nước.
Năm 2000, theo Hiệp định ký kết giữa Chính phủ Nhật Bản và Chính phủ nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Trung tâm hợp tác Nguồn Nhân lực Việt Nam –
Nhật Bản (VJCC) đã được chính thức thành lập trong đó kết hợp khoản viện trợ không
hoàn lại của Chính phủ Nhật Bản để xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị cho Trung tâm
và việc tiếp nhận các chuyên gia dài hạn Nhật Bản trong chương trình Hợp tác Kỹ thuật.
Sau gần một năm xây dựng hai trung tâm ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, trong
khuôn viên trường Đại học Ngoại thương, ngày 19 tháng 3 năm 2002 Trung tâm VJCC
Hà Nội đã chính thức được khai trương và đi vào hoạt động và sau đó đến Trung tâm
VJCC Tp Hồ Chí Minh ngày 10 tháng 5 năm 2002.
Ngoài ra, Từ năm 1992 đến nay, Việt Nam đã cử khoảng 31.000 tu nghiệp sinh
sang Nhật Bản. Năm 2004, Việt Nam đã lập Văn phòng quản lý lao động tại Tokyo.
Ngày 11/11/2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định 141/2005/NĐ-CP về quản
lý lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài. Năm 2007 đưa được 6.513 tu nghiệp,
tăng 15% so với 2006. Năm 2008, số tu nghiệp sinh và lao động Việt Nam sang Nhật
Bản tu nghiệp và làm việc khoảng 6.670 người, tăng gần 5% so với năm 2007.
• Xây dựng thể chế:
Xây dựng thể chế làm cơ sở cho xã hội và kinh tế có vai trò quan trọng không thể
thiếu cả đối với tăng trưởng kinh tế và khắc phục các vấn đề về môi trường sinh hoạt
và xã hội. Chính phủ Nhật Bản đang hỗ trợ cho việc thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp
lý, cải cách chế độ công chức và cải cách tài chính của Việt Nam
Ví dụ về việc hỗ trợ xây dựng hệ thống pháp luật của Nhật Bản với Việt Nam
- Giai đoạn 1(1996-1999): Nhật Bản cử các chuyên gia để hỗ trợ phác thảo và
thực hiện của cải cách pháp luật cũng như việc cải cách tư pháp.
- Giai đoạn 2 (1999-2002): hỗ trợ mở rộng hơn sang các cơ quan có liên quan

16


khác bao gồm tòa án nhân dân tối cao, viện kiểm soát nhân dân tối cao.
- Giai đoạn 3 (2003- nay): chú trọng việc đào tạo cán bộ tư pháp cho Viêt Nam,
hỗ trợ một cách toàn diện, xây dựng các cơ quan đào tạo thống nhất các cán bộ tư
pháp: luật sư, kiểm soát viên…
b. Phát triển cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của đất
nước. Cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn bị đánh giá là lạc hậu, nhỏ bé, thô sơ và phân
bổ không đều. Chính vì vậy, ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng luôn là một trong những
kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn của đất nước ta. Phát triển cơ sở hạ tầng sẽ ảnh
hưởng tích cực đến việc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, kích thích đầu tư trong
nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy mà chính phủ Nhật luôn đề cao vai trò
của cơ sở hạ tầng trong sự phát triển của đất nước ta. Đại sứ Nhật Bản nói rằng phát
triển cơ sở hạ tầng vẫn là một trong những ưu tiên chính của VN. Từ 1992-1994,
nguồn ODA của Nhật Bản vào Việt Nam luôn ưu tiên cho việc phát triển cơ sở hạ tầng.
Phát triển cơ sở hạ tầng là ngành tiếp nhận vốn ODA lớn nhất với tổng giá trị hiệp định
ký kết đạt khoảng 9,88 tỷ USD thời kỳ 1993-2008.
Kể từ năm 1994 đến nay, nhiều công trình quan trọng sử dụng vốn ODA như: QL
1A, QL5, QL18, QL10, hầm đường bộ Hải Vân, cầu Mỹ Thuận, cầu Bãi Cháy, các
cảng Sài Gòn, Cái Lân, Tiên Sa, Hải Phòng, , Nhà ga T2 sân bay quốc tế Tân Sân
Nhất,... đã đưa vào khai thác với lượng hàng hóa, hành khách thông qua tăng trưởng
xa so với dự kiến.
Hiện nay vẫn còn rất nhiều dự án lớn đang triển khai bằng nguồn vốn ODA trong
kế hoạch 5 năm 2006- 2010. Điển hình là Dự án xây dựng cầu Thanh Trì và đoạn phía
Nam vành đai 3 Hà Nội. Nhật Bản cũng đã làm việc với VN trong việc xây dựng cơ sở
hạ tầng, trong đó có 3 dự án trọng điểm được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đặt hàng
Chính phủ Nhật Bản. Đó là dự án phát triển khu công nghệ cao Hoà Lạc, dự án xây
dựng đường bộ cao tốc Bắc - Nam và dự án đường sắt cao tốc Bắc - Nam. Năm 2009,

dự án xây dựng tuyến đường sắt đô thị thành phố Hà Nội (đoạn Nam Thăng Long-Trần
Hưng Đạo, tuyến số 2, giai đoạn 1 có giá trị 14,688 tỷ Yên). Đây là dự án rất lớn giúp
giải quyết vấn đề vận tải trong nội đô Hà Nội từ phía Nam cầu Thăng Long đến trung
tâm thành phố.
c. Nông nghiệp và phát triển nông thôn:
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế
Việt Nam. Nhật Bản cũng đã rất chú trọng trong việc phát triển nông-lâm-ngư-nghiệp
của Việt Nam. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay, khi xã hội Việt Nam còn nhiều vấn
đề như dân số tăng nhanh trong khi diện tích đất đai, rừng bị thu hẹp hay khoa học kỹ
thuật còn nghèo nàn, lạc hậu ở nhiều địa phương, và hơn hết là việc thiếu trầm trọng
những kỹ sư nông-lâm-ngư-nghiệp có kỹ thuật, tay nghề. ODA của Nhật cũng đã
không ngừng hỗ trợ cho Việt Nam trong lĩnh vực nông nghiệp. Hỗ trợ kỹ thuật cho
17


Việt Nam chủ yếu trong ba lĩnh vực:
• Cải thiện thu nhập, cũng như đời sống người nông dân
• Nâng cao hệ thống giáo dục nông nghiệp ở Việt Nam
• Phát triển thủy sản ở Việt nam
Các chương trình và dự án ODA ký kết trong thời kỳ 1993-2008 đạt tổng trị
giá khoảng 5,5 tỷ USD, trong đó có nhiều dự án quy mô lớn như dự án giảm nghèo các
tỉnh vùng núi phía Bắc, dự án phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng,
dự án phát triển sinh kế miền Trung, chương trình cấp nước nông thôn, giao thông
nông thôn và điện khí hóa nông thôn, chương trình thủy lợi đồng bằng sông Cửu Long
và nhiều dự án phát triển nông thôn tổng hợp kết hợp xóa đói, giảm nghèo khác. Ngoài
ra khoảng 12.409 km đường nông thôn và 35.343 m cầu nhỏ nông thôn được cải tạo
nâng cấp, 111 cầu nhỏ nông thôn với chiều dài 25-100m/cầu được xây dựng đã góp
phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời sống người
dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong việc tiếp cận
tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.

Gần đây dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn đáng chú ý là: Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn, Cơ quan hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) ký biên bản dự án
hợp tác Việt Nam - Nhật Bản về phát triển năng lực ngành nghề nông thôn có trị giá
3,5 triệu USD, triển khai trong ba năm tại bốn tỉnh Tây Bắc là Ðiện Biên, Lai Châu,
Sơn La và Hòa Bình. Ðây là các địa phương có tỷ lệ hộ nghèo cao, nhưng nhiều tiềm
năng phát triển ngành nghề thủ công và chế biến nông, lâm sản. Mục tiêu của dự án là
xây dựng mô hình phát triển nông thôn toàn diện thông qua tập huấn kiến thức cho
người nghèo, đầu tư vốn tạo ra những mặt hàng nông, lâm sản chất lượng, trên cơ sở
tiềm năng và điều kiện của địa phương.
NIPON KOEI là công ty tư vấn được JICA lựa chọn đã hợp tác với HRPC để tiến
hành khảo sát và đánh giá tiềm năng của 80 xã thuộc 4 tỉnh vùng dự án. Đoàn công tác
của HRPC với 10 chuyên gia đã triển khai từ ngày 8/1/2009 đến 22/1/2009, hoàn
thành công việc khảo sát tại 60 xã của 3 tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên Phủ, và sẽ
tiếp tục khỏa sát 20 xã còn lại của tỉnh Lai Châu từ 3/2/2009. Và dự án đã được đề
xuất với bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn vào đầu tháng 3/2009.
d. Giáo dục:
Giáo dục là một trong những lĩnh vực quan trọng trong sự phát triển bền vững
của một quốc gia. Phát triển giáo dục là một trong những động lưc thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, là điều kiện tiên quyết để phát triển
nguồn nhân lực, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh. Giáo
dục đào tạo đang là mục tiêu hàng đầu của các quốc gia đang phát triển và Việt Nam
cũng không phải ngoại lệ. Chính vì vậy, Nhật Bản rất chú trọng trong việc phát triển
giáo dục - đào tạo ở Việt Nam.
Quan hệ hợp tác về giáo dục và đào tạo giữa hai nước Việt Nam, Nhật Bản đã
18


phát triển dưới nhiều hình thức: hợp tác giữa hai Chính phủ, giữa các trường học, giữa
các tổ chức, giữa các cá nhân. Những năm gần đây, Nhật Bản là một trong những nước
viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho ngành giáo dục và đào tạo của Việt Nam. Trong

chuyến thăm Nhật Bản của PTT-BT Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (cuối
tháng 3/2008), hai bên đã ký Bản ghi nhớ về việc Nhật giúp Việt Nam đào tạo 1000
tiến sỹ cho Việt Nam đến năm 2020 và tiếp tục tăng học bổng cho Việt Nam trong 3
năm tới.
Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, ODA Nhật Bản hỗ trợ cho việc thực hiện cải
cách giáo dục ở tất cả các cấp học (giáo dục tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông, giáo dục đại học, cao đẳng và dạy nghề), đào tạo giáo viên, tăng cường năng
lực công tác kế hoạch và quản lý giáo dục, cung cấp học bổng đào tạo đại học và sau
đại học ở nước ngoài, cử cán bộ, công chức đào tạo và đào tạo lại tại nước ngoài về
các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ và quản lý.
Chính phủ Nhật Bản nhận khoảng trên 100 học sinh sinh viên Việt Nam sang
Nhật Bản đào tạo hàng năm. Ngoài ra còn có nhiều học sinh du học tự túc. Tổng số lưu
học sinh Việt Nam ở Nhật hiện nay khoảng hơn 1000 người. Ngoài ra, trong 5 năm
(1994-1999), Chính phủ Nhật đã viện trợ 9,5 tỉ yên để xây dựng 195 trường tiểu học ở
các tỉnh miền núi và vùng ven biển hay bị thiên tai.
Về phía Việt Nam, Việt Nam cũng đã mời nhiều giáo sư, chuyên gia Nhật Bản
sang giảng dạy, tiếp nhận các học giả Nhật Bản sang tìm hiểu về văn hoá, lịch sử Việt
Nam. Với sự trợ giúp của chính phủ Nhật Bản, Việt Nam đang thí điểm dạy tiếng Nhật
tại một số trường phổ thông cơ sở tại Hà Nội và TP.HCM. Nhật Bản dự kiến mời 2.000
thanh niên Việt Nam sang Nhật Bản trong 5 năm, theo nhiều chương trình trong đó
bao gồm cả chương trình dành cho học sinh cấp 2 và cấp 3.
Mới đây, Ngày 2/10/2008, trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã
khánh thành phòng học tiếng Nhật do Chính phủ Nhật Bản tài trợ. Đây là một trong
các dự án của chương trình “Viện trợ Văn hoá không hoàn lại quy mô nhỏ” do Chính
phủ Nhật Bản tài trợ, với tổng trị giá hơn 67.000 USD trang bị thiết bị nghe nhìn phục
vụ giảng dạy và học tập tiếng Nhật.
Đến nay, Chính phủ Nhật Bản đã tài trợ 6 dự án về giáo dục tại các tỉnh, thành
phố phía Nam với tổng trị giá hơn 246.000 USD.
e. Y tế:
Trong lĩnh vực y tế, vốn ODA không hoàn lại chiếm tỷ trọng cao, khoảng 58%

trong tổng vốn ODA (khoảng 0,9 tỷ USD) đã được sử dụng để tăng cường cơ sở vật
chất và kỹ thuật cho công tác khám và chữa bệnh (xây dựng bệnh viện và tăng cường
trang thiết bị y tế cho một số bệnh viện tuyến tỉnh và thành phố, các bệnh viện huyện
và các trạm y tế xã, xây dựng cơ sở sản xuất kháng sinh, trung tâm truyền máu quốc
gia, tăng cường công tác kế hoạch hóa gia đình, phòng chống HIV/AIDS và bệnh
truyền nhiễm như lao, sốt rét; đào tạo cán bộ y tế, hỗ trợ xây dựng chính sách và nâng
19


cao năng lực quản lý ngành.
Dự án nâng cấp tiêu chuẩn dịch vụ y tế tại bệnh viện Lục Yên, dự án nâng cấp thiết
bị y tế tại Trung tâm Mắt Hải Phòng, dự án nâng cấp thiết bị y tế tại Trung tâm Bảo vệ
Sức khỏe Sinh sản, nâng cấp bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Hai Bà
Trưng, Viện Nhi Trung ương, bệnh viện Trung ương Huế, bệnh viện Đà Nẵng…
f. Cấp thoát nước:
Ngoài lĩnh vực trên thì lĩnh vực cấp thoát nước cũng được Nhật Bản chú trọng
trong nhiều năm qua nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và năng lực cạnh tranh quốc
tế. Chính vì vậy Nhật Bản đã, đang và sẽ hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo hệ thống
cung cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải… ở Việt Nam
Mới đây là dự án Thoát nước Cải thiện Môi trường Hà Nội (II) 29,289 tỉ Yên mở
rộng ra ngoài phạm vi của sông Tô Lịch và tăng cường khả năng thoát nước ra sông
Nhuệ, góp phần giải quyết tình trạng úng ngập, cải thiện môi trường hiện nay ở Hà
Nội và dự án Thoát nước Cải thiện Môi trường TP Hải Phòng II 21,306 tỉ Yên nâng
cấp hệ thống thoát nước và xử lý chất thải lỏng ở thành phố này.
Trong giai đoạn 1 của Dự án thoát nước cải thiện môi trường Hà Nội (kết thúc
vào năm 2005), JICA đã tiến hành cải tạo một số sông hồ lớn trong thành phố, xây
dựng trạm bơm (hồ điều tiết Yên Sở, trạm bơm Yên Sở).
Tiếp nối dự án trên, dự án lần này sẽ tiến hành cải thiện môi trường lưu vực sông
nối với các sông chủ yếu trong thành phố, xây dựng trạm bơm với công suất thoát
nước gấp đôi nhằm cải thiện tình trạng lũ lụt và môi trường tại Hà Nội.

Bằng việc xây dựng nhà máy xử lý nước thải quy mô bậc trung tiếp theo nhà máy
xử lý nước thải được xây dựng thí điểm trong giai đoạn 1, Dự án hy vọng sẽ đóng góp
vào việc cải thiện tình trạng vệ sinh của thành phố. Sau giai đoạn 1 (năm 2005 với
3,044 tỉ Yên) phục vụ cho thiết kế chi tiết, dự án vốn vay lần này sẽ xây dựng nhà máy
xử lý nước thải.
Ngoài ra, JICA còn tiến hành xây dựng hệ thống xử lý rác thải nhằm cải thiện
môi trường nước và nâng cấp hệ thống thoát nước tại Hà Nội và TP Hải Phòng. Sau
giai đoạn 1 (năm 2004 với 1,517 tỉ Yên) phục vụ cho thiết kế chi tiết, dự án vốn vay
lần này sẽ xây dựng nhà máy xử lý rác thải.
Biều đồ cơ cấu ODA theo ngành và lĩnh vực giai đoạn 1993-2008:

20


(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
III. Đánh giá vai trò và hạn chế của ODA Nhật Bản:
1. Đánh giá vai trò:
1.1. Bổ sung cho nguồn vốn đầu tư:
ODA Nhật Bản góp phần rất lớn thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta. Như ta đã biết, để tiến hành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước cần hội đủ rất nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố vốn và kĩ thuật. Trong giai
đoạn 1992- 2007, tổng số vốn ODA Nhật Bản cam kết dành cho Việt Nam đạt khoảng
13 tỉ USD, chiếm khoảng 30% tổng số khối lượng ODA của cộng đồng quốc tế cam
kết dành cho Việt Nam. Nhật Bản cũng là nước đứng đầu trong thực hiện và giải ngân
nguồn vốn này, với tổng số vốn thực hiện lên tới hơn 5,2 tỷ USD.
Mặt khác, ngoài việc trực tiếp bổ sung nguồn vốn, ODA còn góp phần thu hút
các loại nguồn vốn khác cho nền kinh tế. Việc hỗ trợ Việt Nam xây dựng cơ sở hạ
tầng và tăng cường cải cách cơ cấu hành chính, pháp luật khiến cho môi trường đầu tư
của Việt Nam ngày càng trở nên hấp dẫn. Những dự án lớn, những công trình trong
lĩnh vực giao thông và điện đã hoàn thành và đưa vào sử dụng góp phần tạo điều kiện

cho Việt Nam mở rộng tái sản xuất, tạo môi trường thuận lợi thu hút nguồn vốn trong
nước và vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) vào Việt Nam để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế Việt Nam. Đó là động lực mạnh mẽ cho sự tăng trưởng vượt bậc của
21


Việt Nam trong những năm gần đây. Ngày càng nhiều luồng vốn FDI từ nước ngoài đổ
vào Việt Nam, trong đó đặc biệt là của các công ty Nhật Bản, đã tạo ra một số lượng
lớn việc làm cho dân cư. Tính đến hết năm 2003, các doanh nghiệp FDI của Nhật Bản
đã tạo ra công ăn việc làm cho khoảng 39.000 người lao động Việt Nam.
1.2. Chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ:
Bên cạnh việc cung ứng về vốn, các dự án ODA còn mang lại công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, nghiệp vụ chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Hợp tác kỹ thuật là
một bộ phận của ODA Nhật Bản, được chính phủ Nhật Bản đặc biệt coi trọng. Các
chương trình hợp tác kỹ thuật do chính phủ Nhật Bản thực hiện tiến hành ở Việt Nam
với rất nhiều hình thức đa dạng đã góp phần chuyển giao, cải tiến trình độ công nghệ
cũng như tiếp thu công nghệ ở nước ta. Các dự án hợp tác kĩ thuật đã góp phần chuyển
giao công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên, nhân viên y tế… của nước ta bằng cách
cho họ tham gia vào các dự án phát triển thuộc nhiều lĩnh vực cụ thể như nông nghiệp,
lâm nghiệp, đánh cá, y tế, nghiên cứu về dân số và kế hoạch hóa gia đình, dạy nghề và
các hoạt động nghiên cứu liên quan đến các lĩnh vực đó… Ngoài ra, các khảo sát về
phát triển được tiến hành nhằm kiểm tra lại khả năng thành công của các dự án từ khía
cạnh kỹ thuật, kinh tế, tài chính – cũng góp phần vào việc cải tiến trình độ công nghệ
của nước ta. Nhìn chung, các dự án ODA của Nhật Bản vào Việt Nam đều có trình độ
công nghệ cao.
1.3. Góp phần cải thiện thể chế và cơ cấu kinh tế:
Bên cạnh việc hỗ trợ vốn và kĩ thuật, ODA Nhật Bản có vai trò đặc biệt quan
trọng trong việc góp phần tăng cường năng lực và thể chế thông qua các chương trình,
dự án hỗ trợ công cuộc cải cách pháp luật, cải cách hành chính (như dự án Cải cách
Hành chính Thuế giai đoạn 1, giai đoạn 2) hay hỗ trợ cải cách cơ cấu kinh tế (sáng

kiến NEW Miyazawa)… Điều này giúp cải tạo môi trường đầu tư của Việt Nam trong
mắt bạn bè quốc tế, từ đó thu hút được thêm nhiều vốn đầu tư nước ngoài. Đó là chưa
kể việc Việt Nam mới chỉ được coi là nền kinh tế đang chuyển đổi, chưa được công
nhận là nền kinh tế thị trường, điều luôn khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu
thiệt thòi khi đứng trên các sân chơi lớn. Việc cải cách cơ cấu kinh tế sẽ góp phần đắc
lực trong việc rút ngắn khoảng thời gian chuyển đổi này (Theo cam kết của Việt Nam
là trong vòng 12 năm nhưng có thể rút ngắn được thời gian nếu chúng ta thực sự nỗ
lực). Thêm vào đó, ODA Nhật Bản cũng đã góp phần bù đắp một lượng lớn vốn cho
thâm hụt ngân sách của nước ta. Theo tính toán của các chuyên gia Nhật Bản bằng các
biện pháp kinh tế lượng, trong khoảng 10 năm kể từ khi nối lại viện trợ cho Việt Nam
(1992-2001), ODA Nhật đã góp phần tăng GDP của Việt Nam thêm 1,57%, dự trữ tiền
mặt lên 4,65%, nhập khẩu thêm 5,94% và xuất khẩu thêm 3,84% trong năm 2000.
1.4. Xóa đói giảm nghèo, giải quyết các vấn đề xã hội:
Thông qua các dự án lớn trong lĩnh vực này, ODA của Nhật Bản giúp cho nông
dân nghèo tiếp cận với các nguồn vốn để tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển nông –
22


lâm – ngư nghiệp, phát triển hạ tầng nông thôn như: giao thông, điện, nước sạch... Qua
đó, đã góp phần hỗ trợ phát triển nông nghiệp và cải thiện một bước quan trọng đời
sống người dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là trong
việc tiếp cận tới các dịch vụ công trong các lĩnh vực y tế, giáo dục. Số liệu điểu tra
mức sống của người dân trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 58% vào
năm 1993 xuống còn 37% vào năm 1998, 18,1% vào năm 2004 và 14,8% năm 2007.
Kết quả này cho thấy Việt Nam đã vượt được mục tiêu phát triển thiên niên kỉ (MDGs)
đã cam kết với thế giới. Việt Nam được coi là một trong những nước thành công nhất
trong việc thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo. Và để đạt được điều đó thì không
thể không kể đến những đóng góp to lớn của Nhật Bản.
Nhờ lượng vốn lớn và hợp tác kỹ thuật đa dạng, ODA của Nhật đã góp phần vào
sự phát triển của ngành giáo dục đào tạo Việt Nam từ cấp trung ương đến địa phương,

từ giáo dục tiểu học đến đào tạo sau đại học. Nguồn vốn này đã giúp chúng ta, trước
hết là khắc phục được những khó khăn về cơ sở hạ tầng giáo dục, đồng thời tạo điều
kiện cho ngành giáo dục Việt Nam theo kịp và hòa nhập vào nền giáo dục của khu vực
và thế giới. Ngành giáo dục và đào tạo của chúng ta đã đưa ra được định hướng đào
tạo, nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ tiên tiến vào một số lĩnh vực chủ
chốt như: khoa học cơ bản, khoa học xã hội và nhân văn, kinh tế, nông lâm nghiệp,
điện tử viễn thông, tự động hóa, dược, môi trường… Bên cạnh đó, một lượng lớn
nguồn vốn ODA được đầu tư vào lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, đặc biệt
là các vùng sâu vùng xa đã góp phần trang bị lại cơ sở vật chất cho rất nhiều bệnh viện
tuyến từ trung ương đến địa phương, giải quyết những khó khăn trong việc chăm sóc,
chữa trị, đặc biệt là các bệnh xã hội và nâng cao sức khỏe cộng đồng, dân số kế hoạch
hóa gia đình. Nhờ đó mà chỉ số phát triển con người (HDI) cũng như chỉ số phát triển
quốc gia của Việt Nam dần được cải thiện. HDI đã tăng từ 0,646 năm 1995 lên 0,691
năm 2003, đứng thứ 112 trong tổng số 177 nước được xếp hạng. Điều này phản ánh
những thành tựu đạt được trong các lĩnh vực phát triển con người chủ chốt như mức
sống, y tế và giáo dục.
2. Hạn chế:
2.1. Nhận thức về ODA:
Nâng cao hiệu quả sử dụng ODA là một trong những vấn đề quan trọng mà Việt
Nam phải giải quyết. Một trong những nguyên nhân chính của việc sử dụng ODA chưa
có hiệu quả là nhận thức và hiểu về bản chất của ODA chưa được chính xác và đầy đủ
trong quá trình huy động và sử dụng. Nhận thức cho rằng ODA là cho không và trách
nhiệm trả nợ nguồn vốn vay ODA thuộc về chính phủ. Nhận thức sai lệch như vậy đã
dẫn đến tình trạng kém hiệu quả trong việc thực hiện một số chương trình và dự án
ODA. Thực tế, mặc dù hầu hết ODA là dưới dạng các khoản vay ưu đãi với lãi suất thấp,
thời gian trả nợ và ân hạn dài, ODA không phải là thứ cho không và việc sử dụng ODA là
một sự đánh đổi. Nếu sử dụng ODA không hiệu quả, gánh nặng trả nợ sẽ tăng lên.
23



2.2. Tốc độ giải ngân:
Tỷ lệ giải ngân ODA ở Việt nam vẫn còn thấp. Từ năm 1993 đến 2006, vốn ODA
đã giải ngân là 15,9 tỷ USD, chỉ chiếm 42,9% tổng số ODA cam kết (37 tỷ USD). Như
trong Hình 1, tỷ lệ giải ngân bình quân chỉ khoảng 50% trong những năm gần đây. Tỷ
lệ giải ngân bình quân của Việt Nam cũng thấp hơn của các nước ASEAN (xem Bảng
1). Tỷ lệ ODA trong GDP của Việt Nam dao động từ 3,5% đến 4,5%, thấp hơn một số
nước có cùng trình độ phát triển kinh tế.

Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa để đẩy nhanh tiến độ giải ngân ODA vì so với
sự tăng lên của vốn cam kết mỗi năm, kết quả đạt được còn xa với mong đợi. Theo dự
đoán của các chuyên gia Ngân hàng Phát triển Châu Á, nếu Việt Nam cải thiện được
tỷ lệ giải ngân ODA, tốc độ tăng trưởng GDP có thể tăng từ mức 8 – 8,4% như hiện
tại lên tới 9% và Việt Nam có thể trở thành nước có mức thu nhập trung bình vào
năm 2009, sớm hơn mục tiêu là năm 2010.
Có một vài nguyên nhân giải thích vì sao ODA lại giải ngân chậm ở Việt Nam:
Thứ nhất: thông thường phải mất một thời gian dài để các chương trình và dự án
ODA được triển khai. Khoảng 50% nguồn vốn ODA ở Việt Nam được dành cho các
dự án cơ sở hạ tầng, lĩnh vực cần nhiều thời gian hơn để tiến hành và thậm chí kết thúc
chậm hơn từ 3 đến 5 năm so với các dự án ở các lĩnh vực khác (trong các khâu đền bù,
giải phóng mặt bằng; chất lượng nhà thầu; lựa chọn tư vấn ở các khâu của dự án).
điều này đã dẫn đến việc giải ngân chậm. Một số nước đang phát triển khác, chẳng hạn
như một số nước ở châu Phi, chỉ sử dụng một phần ba nguồn vốn ODA cho các dự án
cơ sở hạ tầng và có tỷ lệ giải ngân cao hơn.
Thứ hai: năng lực quản lý và giám sát thực hiện dự án và chương trình ODA của
Việt Nam còn hạn chế và bất cập, đặc biệt là ở khi có sự tham gia của chính quyền địa
phương.
Thứ ba: khuôn khổ pháp lý về quản lý và sử dụng vốn ODA chưa đồng
bộ và việc hiểu các văn bản này cũng không thống nhất. Hơn nữa, sự khác nhau trong
nhận thức giữa các đối tác Việt Nam và các nhà tài trợ còn lớn, làm hạn chế việc thực
24



hiện các dự án. Trong Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ gần đây (2007), các nhà tài trợ
cho Việt Nam đã khẳng định rằng việc giải ngân ODA sẽ được cải thiện mạnh mẽ nếu
cách thức thực hiện của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ hài hoà được với nhau.
Có những ví dụ rất khó tin về vấn đề trên: Đơn cử như việc tranh luận về cao độ
đặt bệ trụ của cầu (thuộc dự án 44 cầu tuyến Thống Nhất) đã mất tới 8 tháng trời. Theo
phía Nhật Bản, bệ trụ nên đặt thấp, dưới lòng sông để đảm bảo thông thoáng dòng
chảy, nhưng cơ quan thẩm định ở Tổng công ty Đường sắt Việt Nam lại dứt khoát
không đồng ý vì cho rằng rất khó đảm bảo an toàn khi vừa thi công vừa chạy tàu.
2.3. Năng lực quản lý và tình trạng thất thoát:
Cơ cấu tổ chức và năng lực cán bộ trong công tác quản lý và thực hiện ODA còn
yếu và chưa đáp ứng những yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả ODA. Theo bảng xếp
hạng về cảm nhận tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế công bố tháng 9 năm
2008, trong 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, Việt Nam xếp tới thứ 121. Sự thất thoát và
tham nhũng ở dự án PMU18, những dự án lớn trong lĩnh vực dầu khí, vụ hối lội PCI
vừa qua là những ví dụ về hạn chế trong quản lý và theo dõi ODA. Thách thức về đảm
bảo sự minh bạch và trách nhiệm trong quản lý ODA từ phía Việt Nam đang là một
vấn đề hết sức cấp thiết.
Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultants
International, viết tắt là PCI, Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương, Nhật Bản) là
vụ việc nổi đình đám trong năm 2008 tại Việt Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của
một số quan chức công ty PCI Nhật Bản với Ban Quản lý dự án PMU tại thành phố Hồ
Chí Minh, cụ thể là với ông Huỳnh Ngọc Sỹ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Công
chính Thành phố Hồ Chí Minh kiêm Giám đốc Ban Quản lý PMU Đông-Tây.
Sự kiện PCI đã gây một cú sốc lớn trong dư luận Nhật. Ngay cả những người dân
bình thường ở Nhật cũng biết. Có lẽ nhiều người Nhật đã bàng hoàng khi thấy trong
vụ PCI số tiền chi tiêu bất chính quá lớn (chỉ một dự án mà số tiền bất chính lên tới
820.000 đô la) và nhất là tiền hối lộ đó được cho là đưa cho quan chức của một nước
mà GDP đầu người mới 850 đô la.

Nhật đã phải đi đến quyết định tạm ngừng cấp ODA cho Việt Nam trong năm
2009, đồng thời đóng băng lượng tài trợ khoảng 700 triệu đô la đã cấp trong năm
2008. Hầu hết nguồn vốn này tập trung cho các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng. Sự
kiện này làm xấu đi hình ảnh đất nước Việt Nam trong con mắt bạn bè quốc tế.
Sau đó, uỷ ban hỗn hợp Việt Nam - Nhật Bản phòng chống tham nhũng liên quan
tới ODA Nhật Bản đã được thành lập. Trước thái độ của Chính phủ Việt Nam trong
chống tham nhũng và xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm liên quan đến các cá các
cá nhân của Việt Nam, ngày 23/02/2009, Nhật Bản mới quyết định nối lại ODA cho
Việt Nam.
2.4. Phân cấp:
Phân cấp trong quản lý và sử dụng ODA đã được thực hiện và thu được những
25


×