Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Giao kết hợp đồng trong kinh doanh theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.45 KB, 72 trang )

TRẦN THỊ TRÀ MY

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

TRẦN THỊ TRÀ MY


2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TRẦN THỊ TRÀ MY
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ:

60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. PHẠM THỊ THÚY NGA

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Trà My


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô
giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ts. Phạm Thị Thúy Nga đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong thời gian
qua đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những nguồn kiến thức phong phú.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo sau

đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã luôn
bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu
của mình.
TÁC GIẢ

Trần Thị Trà My


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ....................................................................5
7. Kết cấu của đề tài ....................................................................................................5
Chương 1:KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
TRONG KINH DOANH.............................................................................................6
1.1. Nhận thức chung về hợp đồng trong kinh doanh và giao kết hợp đồng trong
kinh doanh ...................................................................................................................6
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh ......................................6
1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng trong kinh doanh ................................................9
1.2. Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng trong kinh doanh ............................15
1.2.1. Nguồn của pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng trong kinh doanh ở Việt

Nam hiện nay ............................................................................................................15
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng trong kinh doanh ............19
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG
KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............................................................21
2.1. Các quy định về nguyên tắc giao kết hợp đồng .................................................21


2.1.1. Nguyên tắc tự do hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội…………. .............................................................................................................21
2.1.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
…………………. ......................................................................................................24
2.2. Chủ thể giao kết hợp đồng trong kinh doanh .....................................................27
2.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng ..................................................................32
2.4. Hình thức của hợp đồng .....................................................................................34
2.5. Thủ tục giao kết hợp đồng trong kinh doanh .....................................................36
2.5.1. Đề nghị giao kết hợp đồng trong kinh doanh ..................................................36
2.5.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng .............................................................42
2.6. Thời điểm, địa điểm giao kết hợp đồng .............................................................46
Chương 3:MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
……………………………………………………………………………………...49
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng trong
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay ..............................................................................49
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh ...52
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh 53
3.4. Kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật ................................58
KẾT LUẬN ...............................................................................................................62
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................64



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. BLDS

Bộ luật Dân sự

2. GKHĐ

Giao kết hợp đồng


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng là một trong những chế định pháp lý có bề dày lịch sử, là nền
tảng của giao dịch kinh doanh. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2005 và Bộ
luật Dân sự năm 2015 đã góp phần giải quyết được sự tản mạn, rải rác của những
quy định pháp luật hợp đồng được điều chỉnh ở nhiều văn bản có giá trị pháp lý
khác nhau như Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật Dân sự 1995, Luật
Thương mại 1997, và các đạo luật chuyên ngành khác; pháp luật hợp đồng Việt
Nam đã dần dần được thống nhất thành một hệ thống, các quy định cũng thể hiện
được sự tương thích với pháp luật thế giới và là một phần quan trọng của pháp luật
quốc gia.
Khi nhắc đến hợp đồng thì có một vấn đề không thể không đề cập đó là “giao
kết hợp đồng”. Hợp đồng chỉ là một công cụ hữu của các nhà kinh doanh khi được
giao kết nhanh chóng, thuận lợi, chặt chẽ và hợp pháp. Việc giao kết hợp đồng đúng
pháp luật sẽ làm phát sinh các quyền, nghĩa vụ ràng buộc các bên. Ngược lại, nếu
giao kết hợp đồng không tuân thủ các quy định pháp luật, thỏa thuận của các bên sẽ
không có giá trị ràng buộc, theo đó quyền lợi của các nhà kinh doanh không được
bảo vệ. Giao kết hợp đồng với thủ tục chặt chẽ, chi tiết sẽ tạo điều kiện cho các bên
thực hiện tốt hợp đồng, đồng thời ngăn ngừa vi phạm và giúp giải quyết tranh chấp

(nếu xảy ra) giữa các bên thuận lợi hơn. Nhưng giao kết hợp đồng không vì vậy trở
nên quá cứng nhắc mà nên linh hoạt để tránh làm mất đi cơ hội của các nhà kinh
doanh, nhất là trong điều kiện tự do hóa thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, khi khoa học công nghệ thông tin ngày càng phát triển.
Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại ở Việt
Nam thời gian qua cho thấy hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không
theo kỹ năng pháp lý. Trong khi đó, xu hướng hội nhập đang mở ra rất nhiều cơ hội
và cả thách thức cho thương nhân Việt Nam. Những vấn đề pháp lý như đề nghị và
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, năng lực chủ thể tham gia giao kết… nếu
1


không được nhìn nhận một cách thỏa đáng thì chúng ta sẽ rất khó có được những
bằng chứng pháp lý thuyết phục để bảo vệ quyền lợi cho mình. Do đó, có thể nói
giai đoạn giao kết hợp đồng gần như là giai đoạn quan trọng bậc nhất trong pháp
luật hợp đồng, nó sẽ là nền tảng thiết lập nên quan hệ giữa các bên và là cơ sở cho
những hậu quả pháp lý phát sinh sau này.
Pháp luật hợp đồng Việt Nam cũng đã thể hiện sự quan tâm đến yếu tố
này với những quy định cụ thể trong BLDS 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 trên
cơ sở kế thừa và phát triển những quy định của BLDS 1995 và Luật thương mại
1997, đồng thời cũng có sự tương thích nhất định với pháp luật thế giới, đặc biệt là
với hệ thống luật thành văn của Trung Quốc hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các quy định
này vẫn còn mang tính nguyên tắc chung, khiến cho việc áp dụng có thể gặp phải
những bất cập không đáng có, đôi khi còn không phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trước tình hình đó, tôi chọn “Giao kết hợp đồng trong kinh doanh” làm đề
tài luận văn thạc sĩ luật học của mình, qua đó có được cái nhìn tổng quan về vấn đề,
thấy được những điểm tiến bộ và thiếu sót của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng trong kinh doanh để tìm hướng khắc phục, góp phần vào quá trình thống nhất
và hoàn thiện hệ thống pháp luật hợp đồng của Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu

Luật hợp đồng là nền tảng của kinh doanh.Tìm hiểu luật hợp đồng là thiết
yếu đối với những người mong muốn tiến hành kinh doanh. Bởi thế các quy định về
hợp đồng luôn được giới luật học và cả các cá nhân, thương nhân quan tâm tìm
hiểu. Nhiều nghiên cứu đã được tiến hành đối với hầu hết các khía cạnh liên quan
đến pháp luật hợp đồng. Liên quan đến đề tài mà tác giả đã chọn, có thể kể đến một
số Luận án tiến sĩ, Luận văn thạc sĩ như: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng
theo quy định của bộ luật dân sự năm 2015” : Th.s Huỳnh Thị Xuân Oanh (2015);
“Hoàn thiện các quy định của pháp luật việt nam về đề nghị giao kết hợp đồng
nhằm thúc đẩy sự phát triển của các quan hệ thương mại trong điều kiện toàn cầu
hóa” của Nguyễn Đức Thông (2014),Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học quốc gia

2


Hà Nội; “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của Pháp luật Việt nam” của Lê
Minh Hùng (2010), Luận án tiến sĩ, Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh; “So sánh chế
định giao kết hợp đồng theo pháp luật Việt nam và pháp luật Hoa kỳ” của Nguyễn
Thị Mai Hương (2009), Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Một số vấn đề về giao kết hợp đồng dân sự trong pháp luật Việt nam” của Th.s Vũ
Đức Linh (2010); Hay các công trình nghiên cứu, bài viết như“Đề nghị giao kết
hợp đồng trong bộ luật dân sự Việt Nam” của Trần Thị Thu Phương (2012), Tạp
chí Luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2012, Số 2(141), tr.44-54;

“Hoàn thiện chế

định hợp đồng” của Ts. Phan Chí Hiếu (2005); “Chế định hợp đồng trong BLDS”
của Ts. Nguyễn Ngọc Khánh (2007), NXB Tư pháp;“Hình thức của hợp đồng theo
quy định của BLDS 2005” của Th.s Vũ Thị Minh Lý (2012), Tạp chí Luật học số 2
năm 2001; Phạm Hoàng Giang “Vai trò của án lệ với sự phát triển của pháp luật
hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 91 năm 2007; Đinh Mai Phương,

“Thực tiễn áp dụng các quy định của BLDS về hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 11 năm 2011; “Giáo trình luật hợp đồng” của PGS Ts Ngô Huy Cương,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà nội năm 2013…..
Các công trình khoa học trên đây đã phân tích làm rõ những quy định về hợp
đồng nói chung và giao kết hợp đồng nói riêng, là nguồn tài liệu vô cùng quý báu giúp
tác giả có thêm nhiều thông tin quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu luận văn.
Tuy nhiên, hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị và những kiến nghị của đề tài sẽ đem lại những kết
quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về giao kết hợp
đồng trong kinh doanh; đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng trong kinh doanh; qua đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
giao kết hợp đồng trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.

3


Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên, tác giả xác định
phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
+ Khái quát và làm rõ một số vấn đề lý luận như khái niệm hợp đồng trong
kinh doanh; giao kết hợp đồng; nguồn điều chỉnh quan hệ giao kết hợp đồng trong
kinh doanh; các nội dung cấu thành pháp luật về giao kết hợp đồng.
+ Nghiên cứu tham khảo kinh nghiệm quốc tế về giao kết hợp đồng và đưa
ra những gợi mở cho Việt Nam
+ Đánh giá thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn thực hiện quy định
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng trong kinh doanh. Chỉ ra những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế
+ Đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết

hợp đồng trong kinh doanh ở Việt nam hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về giao kết hợp đồng trong
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay
- Do hạn chế về thời gian, luận văn không nghiên cứu việc giao kết hợp
đồng trong thương mại quốc tế, các hợp đồng mua bán tài sản vô hình và các hợp
đồng trong lĩnh vực đầu tư. Luận văn chỉ nghiên cứu giao kết hợp đồng mua bán tài
sản hữu hình trong nước.
“Giao kết hợp đồng” theo nghĩa hẹp gồm có đề nghị giao kết hợp đồng và
chấp nhận. Trong Luận văn này, “giao kết hợp đồng trong kinh doanh” được hiểu
theo nghĩa rộng, theo nghĩa “ký kết hợp đồng”.

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong quá

4


trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng như trong quá trình giải quyết các tranh chấp
kinh doanh thương mại.
Các phương pháp được sử dụng chủ yếu để nghiên cứu trong đề tài bao gồm
các phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa
học pháp lý nói riêng như phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ
thống hóa pháp luật, suy luận logic, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu bản án, quy nạp,
diễn dịch... Các phương pháp được sử dụng phù hợp với từng nội dung của các
phần trong luận văn nhằm bảo đảm các kết quả nghiên cứu là khách quan và có độ
tin cậy cao.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

Bộ luật dân sự luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam, trong đó các quy định về giao kết hợp đồng dân sự là một trong những nội
dung mấu chốt, không thể thiếu của pháp luật dân sự và được sử dụng nhiều trong
đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh. Việc
nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện vấn đề này là cần thiết, góp phần hoàn
thiện các quy định pháp luật, đồng thời đáp ứng được những yêu cầu hoạt động giao
kết hợp đồng trong kinh doanh, phù hợp yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật giao kết hợp đồng trong kinh doanh
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giao kết hợp đồng trong kinh doanh ở
Việt nam hiện nay.
Chương 3: Một số định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết
hợp đồng trong kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG TRONG KINH DOANH
1.1. Nhận thức chung về hợp đồng trong kinh doanh và giao kết hợp đồng
trong kinh doanh
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng trong kinh doanh
Pháp luật hợp đồng của Việt Nam trước năm 2005 không đưa ra một khái
niệm chung về hợp đồng trong các văn bản pháp luật, mà có sự phân biệt giữa hợp
đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương mại. Ba loại hợp đồng này có đặc
điểm khác biệt và được điều chỉnh bởi ba văn bản pháp luật: Bộ luật Dân sự (1995),

Luật Thương mại (1997), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989). Đây là nguyên nhân
tạo ra những bất cập, hạn chế trong lĩnh vực pháp luật hợp đồng của Việt Nam trước
đây [9, 23-28], [10, 31], [11, 56-57], [12, 14-16], [13, 4-7], [15, 1-6]. Để khắc phục
hạn chế này, pháp luật hợp đồng của Việt Nam đã được sửa đổi theo hướng không
có sự phân biệt một cách độc lập giữa hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp
đồng thương mại. Sự khắc phục này được thể hiện thông qua việc ban hành Bộ luật
Dân sự (2005), Luật Thương mại (2005) (cả hai luật này đều có hiệu lực từ ngày
01/01/2006), theo hướng: Bộ luật Dân sự quy định chung về hợp đồng áp dụng
chung cho tất cả các loại hợp đồng. Bộ luật Dân sự năm 2005 đã được thay thế bằng
Bộ luật Dân sự năm 2015, bộ luật này cũng quy định về khái niệm hợp đồng: Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự. (Điều 385)
Như vậy về bản chất pháp lý, hợp đồng trong kinh doanh chỉ là một dạng cụ
thể của hợp đồng dân sự. Trên cơ sở đó có thể xem xét hợp đồng trong kinh doanh
trong mối quan hệ với hợp đồng dân sự nói chung theo nguyên lý của mối quan hệ
giữa cái chung với cái riêng.

6


Hợp đồng trong kinh doanh là hợp đồng thực hiện mục đích kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ
trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Như vậy có thể định nghĩa hợp đồng trong kinh doanh như sau: Hợp đồng
trong kinh doanh là sự thỏa thuận giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với
bên liên quan về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong việc
thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình, đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi

Hợp đồng trong kinh doanh có một số đặc điểm:
Do hợp đồng trong kinh doanh là một trường hợp riêng của hợp đồng dân sự
do vậy hợp đồng trong kinh doanh cũng có đầy đủ những đặc điểm chung của hợp
đồng dân sự, bên cạnh đó cũng có những điểm đặc thù riêng, cụ thể:
Thứ nhất: về chủ thể thì hợp đồng trong kinh doanh được thiết lập chủ yếu
giữa các chủ thể kinh doanh hoặc ít nhất một bên là chủ thể kinh doanh. Theo
Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại năm 2005 “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Trong giao kết hợp đồng kinh doanh, có thể có
những giao kết hợp đồng đòi hỏi các bên đều phải là thương nhân như: hợp đồng
đại diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại… hay có những hợp đồng
chỉ đòi hỏi có ít nhất một bên là thương nhân như: hợp đồng ủy thác mua bán hàng
hóa, hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hóa, hợp đồng môi giới thương mại…).
Ngoài ra, các tổ chức, các nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành
chủ thể của hợp đồng thương mại khi họ có hoạt động liên quan đến thương mại.
Thứ hai: về hình thức thì hợp đồng trong kinh doanh được thiết lập theo
cách thức mà hai bên thỏa thuận, có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định,

7


giao kết hợp đồng phải được thiết lập bằng văn bản như hợp đồng đại lý thương
mại, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ khuyến mại, quảng cáo,
hội chợ, triển lãm thương mại… Điều 24 Luật thương mại năm 2005 đã quy định:
“Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc xác
lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng háo mà pháp luật
quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”. Luật
thương mại năm 2005 cũng cho phép thay thế hình thức văn bản bằng hình thức
khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ

liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Thứ ba: về đối tượng của hợp đồng trong kinh doanh có thể là sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ trong hoạt động kinh doanh. Theo nghĩa thông thường, hàng hóa
được hiểu là những sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích
thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào tính chất pháp lý, hàng hóa được chia
thành nhiều loại khác nhau như bất động sản, động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô
hình, các quyền về tài sản… Tại Việt Nam, theo Khoản 3 Điều 5 Luật thương mại
năm 1997, đối tượng được coi là hàng hóa bao gồm: máy móc, thiết bị, nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị
trường, nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Trên thức tế,
các hoạt động mua bán có tính chất thương mại ở Việt Nam không chỉ dừng lại ở
những loại hàng hóa này mà với cách liệt kê như Luật thương mại năm 1997 lại bó
hàng hóa trong một phạm vi hẹp. Khắc phục bất cập trên, Khoản 2 Điều 3 Luật
thương mại năm 2005 quy định:
“Hàng hóa bao gồm:
i) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
ii) Những vật gắn liền với đất đai”.
Như vậy, hàng hóa trong hợp đồng thương mại có thể là hàng hóa đang tồn
tại hoặc hàng hóa sẽ hình thành trong tương lai, có thể là động sản hoặc bất động
sản được phép lưu thông trong thương mại.

8


. Thứ tư: Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để
xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ trong kinh doanh
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các quyền
và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà
các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ
để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một

trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng dân sự và các hợp đồng
kinh tế, thương mại. Yếu tố này giúp phân biệt hợp đồng dân sự với hợp đồng
kinh tế.
Mục đích của hợp đồng kinh doanh khi các bên chủ thể tham gia là mục
đích kinh doanh nhằm phát sinh lợi nhuận trong khi đó hợp đồng dân sự các bên
tham gia nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng. Chủ thể tham gia hợp
đồng kinh doanh phải là các chủ thể kinh doanh.
Thứ năm: Về nội dung hợp đồng thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ giao kếthợp đồng đó là các điều khoản do các bên thỏa thuận. Các
bên thỏa thuận nội dung càng chi tiết thì việc thực hiện hợp đồng càng thuận lợi,
phòng ngừa được những tranh chấp có thể phát sinh.
1.1.2. Khái niệm giao kết hợp đồng trong kinh doanh
Như trên đã nói, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên, có thể là hai bên
hoặc nhiều hơn hai bên. Để một hợp đồng dân sự nói chung và hợp đồng trong kinh
doanh nói riêng phát sinh quyền, nghĩa vụ cho các bên thì giữa các bên, chủ thể của
hợp đồng phải tồn tại các hành vi pháp lý - giao kết hợp đồng. Thông thường sự
thỏa thuận đó được thể hiện bằng hành vi pháp lý của hai bên hoặc nhiều bên. Có
thể hiểu thỏa thuận là khởi nguồn cho hợp đồng và là vấn đề quan trọng nhất của
hợp đồng mà không thể thiếu. Đề nghị của một bên chỉ làm phát sinh nghĩa vụ khi
đề nghị đó được một bên khác chấp thuận. Hành vi pháp lý đó được hiểu và thể hiện
thành hành động hoặc không hành động của mỗi bên thông qua việc một bên đưa ra
đề nghị giao kết hợp đồng còn bên kia đồng ý với đề nghị đó, được gọi là chấp

9


thuận/chấp nhận giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, hầu hết trong các quy định pháp luật
của Việt Nam đều không đưa ra khái niệm "giao kết", có lẽ các nhà làm luật cho
rằng khái niệm này nằm trong khái niệm hợp đồng và được ngầm hiểu là hợp đồng.
Xét cho cùng, sự thỏa thuận bao gồm hai thành tố [5, tr. 179] mà không phụ

thuộc cả vào một bên trong quan hệ hợp đồng, có nghĩa là mỗi bên chỉ có thể đóng
góp vào sự thỏa thuận một thành tố nhất định trong hai thành tố đó. Hai thành tố nói
tới ở đây là "đề nghị giao kết hợp đồng" và "chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng".
Chúng ta có thể gọi là "đề nghị" và "chấp nhận" như là thuật ngữ chuyên môn. Bộ
luật Dân sự Bắc Kỳ 1931 sử dụng thuật ngữ "thỉnh - cầu lập - ước" và "giả lời
nhận". Như vậy, cho thấy bản thân sự thỏa thuận đã bao gồm hai thành tố là đề nghị
và chấp nhận, nhưng không phải sự thỏa thuận nào cũng là hợp đồng.
Khái niệm về đề nghị và chấp nhận vốn thường được dùng để xác định xem
hợp đồng đã được giao kết hay chưa[31, tr. 78]. Nếu không có sự thỏa thuận thống
nhất giữa đề nghị và chấp nhận, tòa án xem như không có hợp đồng nào tồn tại giữa
các bên. Sự thỏa thuận hình thành khi lời đề nghị giao kết hợp đồng của người này
được người được đề nghị chấp nhận. Vậy xem xét đề nghị và chấp nhận là những
yếu tố thiết yếu để nhận biết giao kết.
Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng là sự thể hiện ý chí độc lập, cho nên
nội dung của chúng phải phù hợp với sự thể hiện mong muốn của các bên.
Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định riêng đối với từng thành tố thỏa thuận và
được hiểu như là một khái niệm cơ bản, cụ thể:
- Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định
hoặc tới công chúng (Điều 386). Bộ luật Dân sự 2005 cho rằng, một đề nghị phải
được đưa tới người được xác định cụ thể (Điều 390, khoản 1). Ở đây có thể hiểu
một đề xuất chỉ có thể trở thành đề nghị khi đề xuất đó được đưa tới một hoặc một
nhóm người xác định cụ thể. Có tác giả Việt Nam cũng có cách hiểu như vậy đối
với Điều luật này[7, tr. 34].Có ý kiến khác , quan niệm khác về đề nghị giao kết hợp

10


đồng, đại diện là Vũ Văn Mẫu theo đó "đề ước có thể làm riêng cho một người hay
là làm chung cho công chúng" [20, tr. 93], quan điểm này đã được đưa vào Bộ luật

dân sự năm 2015 bổ sung đối tượng “công chúng” (Điều 386 BLDS 2015).
- Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị về
việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.(Điều 393, Bộ luật Dân sự 2015). Định
nghĩa này được đưa ra có tính cách ứng dụng cho các trường hợp cụ thể theo pháp
luật Việt Nam, nên đã bao hàm trong nó cả điều kiện của chấp nhận.
Tại Điều 396 Bộ luật Dân sự 2005 không nhắc tới các cách thức hay hình
thức của chấp nhận, và dường như chỉ cho rằng chấp nhận là "sự trả lời" mà trong
khi đó cụm từ "sự trả lời" không rõ nghĩa, đôi khi làm người ta tưởng lầm rằng sự
chấp nhận phải bằng văn bản hoặc lời nói. Để khắc phục sự không rõ ràng này, Bộ
luật dân sự năm 2015 đã bổ sung khoản 2 Điều 393 như sau: “Sự im lặng của bên
được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, trừ trường
hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”
Những bổ sung này của Bộ luật dân sự năm 2015 là một nội dung mới và có
sự tương đồng nhất định với quy định tại Điều 19 Công ước của Liên hợp quốc về
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế 1980 (Công ước Viên) như sau:
(1) Sự đáp lại một đề nghị mà có ngụ ý là một chấp nhận nhưng chứa đựng
những điều kiện, những giới hạn hoặc những sửa đổi khác là một sự từ chối đề nghị
và tạo thành một phản đề nghị.
(2) Tuy nhiên, sự trả lời một đề nghị có ngụ ý là một chấp nhận nhưng chứa
đựng những điều kiện bổ sung hoặc khác biệt mà không làm thay đổi một cách thiết
yếu các điều kiện của đề nghị tạo thành một chấp nhận, trừ khi người đề nghị,
không chậm trễ một cách phi lý, phản đối bằng lời nói đối với sự không đồng nhất
hoặc gửi một thông báo về hậu quả đó. Nếu người đề nghị không phản đối như vậy,
thì các điều kiện của hợp đồng là các điều kiện của đề nghị với những sửa đổi được
chứa đựng trong chấp nhận.

11


(3) Những điều kiện bổ sung hoặc khác biệt liên quan, giữa những vấn đề

khác, về giá, thanh toán, chất lượng và số lượng hàng hóa, địa điểm và thời gian
giao nhận, phạm vi trách nhiệm của một bên đối với bên khác hoặc giải quyết tranh
chấp đều được xem là thay đổi một cách thiết yếu các điều kiện của đề nghị [4].
Trong phạm vi của luận văn này, giao kết hợp đồng trong kinh doanh được
hiểu là việc các bên (chủ thể kinh doanh) bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên
tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền, nghĩa vụ trong hoạt
động kinh doanh.
Các điều kiện của giao kết hợp đồng trong kinh doanh
Giao kết hợp đồng trong kinh doanh phải tuân thủ tất cả các điều kiện giao
kết hợp đồng thông thường:
- Điều kiện về chủ thể giao kết: Đảm bảo yêu cầu về năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự, phù hợp với những giao dịch trong hoạt động kinh
doanh, đó là các chủ thể kinh doanh, thương nhân và các bên có liên quan.
- Điều kiện về nội dung, mục đích giao kết hợp đồng:
Tùy thuộc vào từng loại hợp đồng, nội dung các hợp đồng có thể khác nhau
nhưng thông thường gồm 3 loại điều khoản cơ bản: Điều khoản chủ yếu, điều khoản
thông thường và điều khoản tùy nghi. Trong đó thể hiện toàn bộ các nội dung mà
các bên tham gia ký kết đã thỏa thuận thể hiện quyền và nghĩa vụ ràng buộc giữa
các bên với nhau.
+ Điều khoản chủ yếu: là những điều khoản cơ bản, quan trọng nhất của hợp
đồng (ví dụ: hợp đồng mua bán hàng hóa các điều khoản chủ yếu là đối tượng, số
lượng, chất lượng, giá cả).
+ Điều khoản thông thường: là những điều khoản đã được pháp luật qui
định, ghi nhận, nếu các bên không ghi vào hợp đồng thì coi như mặc nhiên công
nhận và có nghĩa vụ phải thực hiện những qui định đó.
+ Điều khoản tùy nghi: là những điều khoản do các bên tự thỏa thuận với
nhau khi chưa có qui định của Nhà nước hoặc có qui định nhưng các bên được phép
vận dụng linh hoạt mà không trái pháp luật.

12



- Những điểm khác biệt là đặc điểm về việc đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng
và chấp nhận giao kết hợp đồng, thể hiện qua bảng sau:
Tiêu chí
Hình thức

Thời điểm

hiệu
lực

Điều kiện
ràng buộc

Rút
lại,
thay đổi,
hủy bỏ

Đề nghị giao kết hợp đồng

Chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng
Bằng lời nói, bằng văn bản, hành vi; Giao Bằng văn bản, bằng lời nói,
dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản, bằng hành vi hoặc sự im
phải có công chứng hoặc chứng thực, phải lặng, quy định chi tiết tại
đăng ký hoặc xin phép khi có quy định.
Điều 400 BLDS 2015
Được diễn giải chi tiết theo Điều 119 BLDS

2015 và Điều 11, 12, 13 Luật giao dịch điện
tử 2005
Điều 388 BLDS2015
- Theo ấn định của bên đề nghị nêu trong lời Việc chấp nhận phải hoàn
đề nghị
toàn tự nguyện. Thời hạn trả
- Khi bên được đề nghị nhận được đề nghị lời chấp nhận đề nghị giao
nếu bên đề nghị không ấn định rõ trong đề kết hợp đồng chi tiết theo
nghị
Điều 394 BLDS 2015.
-Xác định thời điểm bên đề nghị nhận được
lời đề nghị: (Khoản 2 Điều 388 BLDS 2015)
Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú (cá
nhân), trụ sở (pháp nhân); Đề nghị được đưa
vào hệ thống thông tin chính thức của bên
được đề nghị; Khi bên được đề nghị biết được
đề nghị giao kết hợp đồng thông qua phương
thức khác.
- Phải chắc chắn, thể hiện ý chí của người đề Việc chấp nhận đề nghị giao
nghị; rõ ràng và đầy đủ, ghi nhận tất cả các kết hợp đồng phải không
nội dung cần thiết của một hợp đồng. Việc kèm theo một điều kiện nào
thay đổi đề nghị có thể thiết lập một đề nghị do người được đề nghị đưa
giao kết mới (Điều 389 BLDS 2015)
ra, nếu người được đề nghị
đưa ra một điều kiện để chấp
nhận thì coi như đó là một
đề nghị mới (Điều 392
BLDS 2015).
Điều 389 BLDS 2015
Trường hợp 1: Nếu bên được đề nghị nhận Chấp nhận đề nghị giao kết

được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại hợp đồng có thể rút lại nếu
đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận thông báo việc rút lại này
được đề nghị
đến trước hoặc cùng thời
Trường hợp 2: Điều kiện thay đổi hoặc rút lại điểm bên đề nghị nhận được
đề nghị phát sinh trong trường hợp bên đề trả lời chấp nhận giao kết
nghị có nêu rõ về việc được thay đổi hoặc rút hợp đồng, quy định tại Điều
lại đề nghị khi điều kiện đó phát sinh
397 BLDS 2015
Trường hợp 3: Nếu bên đề nghị thay đổi nội
dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là
đề nghị mới
13


Hủy bỏ: Điều 390 BLDS 2015
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy bỏ
đề nghị nêu đã nêu rõ quyền này trong đề
nghị và bên được đề nghị nhận được thông
báo này trước khi họ gửi thông báo chấp nhận
đề nghị

Các hình thức giao kết hợp đồng trong kinh doanh
Giống như giao kết hợp đồng nói chung, trong kinh doanh cũng bao gồm
nhiều hình thức giao kết hợp đồng, tùy thuộc từng trường hợp cụ thể mà các bên
tham gia có thể lựa chọn cho giao dịch của mình những hình thức phù hợp.
Hình thức miệng (bằng lời nói): Thông qua hình thức này các bên chỉ cần
thỏa thuận miệng với nhau về những nội dung cơ bản của hợp đồng. Hình thức này
thường được áp dụng đối với những trường hợp các bên tham gia đã có độ tin tưởng
lẫn nhau hoặc các đối tác lâu năm hoặc là những hợp đồng mà sau khi giao kết, thực

hiện sẽ chấm dứt hoặc tính chất giản đơn của giao dịch.
Hình thức viết (bằng văn bản): Các cam kết của các bên trong hợp đồng sẽ
được ghi nhận lại bằng một văn bản xác định. Trong văn bản đó các bên phải ghi
đầy đủ những quyền và nghĩa vụ tương ứng của mỗi bên và là nội dung cơ bản của
hợp đồng, cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Căn cứ vào văn bản hợp đồng các bên
dễ dàng thực hiện quyền của mình và thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên
kia vì vậy bản hợp đồng đó coi như là một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự
của mỗi bên. Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo
ra chứng cứ pháp lý vững chắc hơn so với hình thức miệng vì vậy trong thực tế
những giao dịch quan trọng, có giá trị lớn hoặc những giao dịch có tính "nhạy cảm"
đối với những đối tượng và người giao kết "nhạy cảm" thì nên thực hiện bằng hình
thức văn bản.
Hình thức có công chứng, chứng thực: Hình thức này áp dụng cho những
hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của hợp đồng là
những tài sản mà nhà nước quản lý, kiểm soát hoặc pháp luật có quy định thì khi
giao kết các bên phải lập thành văn bản có Công chứng hoặc chứng thực của Cơ
quan quản lý hành chính có thẩm quyền trong lĩnh vực này. Hợp đồng được lập ra
theo hình thức này có giá trị chứng cứ (để chứng minh) cao nhất. Hợp đồng loại này
có giá trị chứng cứ cao nhất chứ không phải có giá trị cao nhất vì các hợp đồng
được lập ra một cách hợp pháp thì đều có giá trị pháp lý như nhau. Thể hiện rõ nhất

14


loại hợp đồng này đó là các giao dịch liên quan đến bất động sản như mua bán, góp
vốn bằng quyền sử dụng đất…
Hình thức khác: ngoài những hình thức nói trên, hợp đồng có thể thực hiện
bằng các hình thức khác như bằng các hành vi (ra hiệu, ra giấu bằng cử chỉ cơ
thể…) hoặc thực hiện bằng các phương tiện và dữ liệu điện tử (giao dịch điện tử)
trong đó các hành vi, thông điệp điện tử đó phải chứa đựng thông tin cho bên kia

hiểu và thoả thuận giao kết trên thực tế.
1.2. Pháp luật điều chỉnh về giao kết hợp đồng trong kinh doanh
1.2.1. Nguồn của pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng trong kinh doanh ở
Việt Nam hiện nay
Pháp luật giao kết hợp đồng là một thành phần thuộc hệ thống pháp luật, do
vậy nguồn của nó cũng chính là nguồn của pháp luật nói chung. Về nguồn của pháp
luật hay nói cách khác đó chính là hình thức biểu hiện bên ngoài của pháp luật.
Trong khoa học pháp lý hiện nay có các loại nguồn chủ yếu, bao gồm: tập quán
pháp, tiền lệ pháp, văn bản quy phạm pháp luật, các học thuyết khoa học pháp lý.
Trong đó ở Việt Nam, tập quán pháp và văn bản quy phạm pháp luật đã được công
nhận từ lâu, tiền lệ pháp đã chính thức được đưa vào nguồn luật tại Việt Nam bằng
việc ban hành án lệ của Tòa án nhân dân tối cao. Riêng đối với các học thuyết khoa
học pháp lý không được coi là nguồn chính thức, tuy nhiên cũng đóng vai trò quan
trọng trong hệ thống pháp luật.
Pháp luật điều chỉnh hợp đồng nói chung và giao kết hợp đồng nói riêng theo
pháp luật Việt Nam hiện nay được quy định tương đối rõ ràng trong các văn bản
quy phạm pháp luật, cụ thể:
Một là, Bộ luật Dân sự
Các quy định về giao kết hợp đồng đã được quy định tương đối chi tiết trong
Bộ luật dân sự năm 2005, đến thời điểm hiện tại nó đã hoàn thành nhiệm vụ của
mình và được thay thế bằng Bộ luật dân sự năm 2015, với nhiều quy định mới phù
hợp hơn với tình hình thực tế trong nước cũng như thông lệ quốc tế.

15


Bộ luật dân sự năm 2015 được thông qua ngày 24 tháng 11 năm 2015 điều
chỉnh các quan hệ dân sự, trong đó nổi bật và trọng tâm là chế định về hợp đồng.
Đóng vai trò quan trọng trong chế định hợp đồng là phần các quy định về giao kết
hợp đồng gồm 24 điều (từ Điều 385 đến Điều 408), mở đầu cho các quy định về

hợp đồng dân sự. Bộ luật dân sự điều chỉnh giao kết hợp đồng qua việc quy định
các nguyên tắc cơ bản của giao kết hợp đồng, những nội dung liên quan đến đề nghị
giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, hình thức hợp đồng dân sự, nội
dung hợp đồng dân sự, vấn đề hiệu lực của hợp đồng dân sự. Các quy định này
mang tính điều chỉnh chung cho các quan hệ hợp đồng trong giai đoạn giao kết.
Ngoài ra, Bộ luật còn có quy định một số loại hợp đồng dân sự thông dụng
làm cơ sở điều chỉnh pháp lý các quan hệ giao kết hợp đồng cho từng loại hợp đồng
như hợp đồng mua bán tài sản, hợp đồng trao đổi tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp
đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển,
hợp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng uỷ quyền, hứa thưởng và thi
có giải. Tuy là những quy định cụ thể về một số loại hợp đồng thông dụng nhưng
với vai trò của Bộ luật dân sự là luật gốc nên ngoài các quy định chung đó, tuỳ từng
lĩnh vực và trường hợp cụ thể mà có sự áp dụng kết hợp với các luật chuyên ngành
khác.
Hai là, các văn bản luật chuyên ngành
Các luật chuyên ngành quy định việc giao kết hợp đồng trong từng lĩnh vực
cụ thể dựa trên cơ sở luật gốc là Bộ luật dân sự. Ngày càng nhiều văn bản luật
chuyên ngành trong mọi lĩnh vực cụ thể được ban hành thể hiện sự phong phú đa
dạng của đời sống kinh tế - xã hội. Trong hoạt động kinh doanh có thể kể đến các
văn bản luật như Luật thương mại, Luật Đầu tư 2014; Luật Đất đai 2013; Luật
Doanh nghiệp 2014; Luật giao dịch điện tử 2005; Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000;
Luật Xây dựng 2014; Luật Nhà ở 2014; ; Luật Chứng khoán 2006; Luật Đấu thầu
2013…v.v. và toàn bộ hệ thống các văn bản dưới luật có liên quan.
Mối quan hệ giữa Bộ luật dân sự và luật chuyên ngành trong điều chỉnh
giao kết hợp đồng trong kinh doanh

16


Thứ nhất, áp dụng những quy định về giao kết hợp đồng (Tiểu mục 1, Mục 7,

chương XV, phần thứ ba: Nghĩa vụ và Hợp đồng, Bộ luật Dân sự 2015): Bản chất
của hợp đồng là sự thoả thuận giữa các chủ thể. Sự thoả thuận có thể đạt được khi
nó dựa trên các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng. Yếu tố tự nguyện khi kí kết hợp
đồng là sự thống nhất của hai phạm trù ý chí và sự bày tỏ ý chí. Các bên khi có sự
thống nhất ý chí cần phải được bày tỏ ra bên ngoài, dưới hình thức nhất định. Hợp
đồng đó phải phản ánh một cách trung thực, khách quan những mong muốn của các
bên tham gia giao kết mới được gọi là tự nguyện. Trong nền kinh tế thị trường, các
chủ thể trong việc giao kết hợp đồng, họ tự mình lựa chọn bạn hàng, lựa chọn thời
điểm kí kết và tự do bày tỏ ý chí, thống nhất ý chí để xác lập các điều khoản của
hợp đồng phù hợp với mong muốn của mình. Mặt khác, trong cơ chế thị trường, các
đơn vị kinh tế dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lí đi nữa đều có
quyền bình đẳng trong quan hệ hợp đồng nói chung. Như vậy, nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng là nguyên tắc để kí kết hợp đồng trong kinh doanh. Ngoài
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, Bộ luật dân sự còn quy định nguyên tắc mà khi kí
kết hợp đồng các chủ thể nhất định phải tuân theo, đó là nguyên tắc không trái với
pháp luật và đạo đức xã hội. Tự do kinh doanh, trong đó có tự do hợp đồng phản
ánh bản chất của nền kinh tế thị trường. Tự do kinh doanh nói chung và tự do hợp
đồng nói riêng phải được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật. Có như vậy, tự
do của người này mới không làm hạn chế hoặc mất đi quyền tự do của người khác.
Vì vậy, cùng với việc quy định quyền tự do giao kết hợp đồng cho các chủ thể, pháp
luật cũng quy định việc kí kết hợp đồng không được vi phạm điều cấm của pháp
luật. Điều này đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Thứ hai, áp dụng những quy định về thời điểm giao kết hợp đồng: Bộ luật
dân sự đã quy định một cách rõ ràng các thời điểm giao kết hợp đồng cho từng loại
hợp đồng, từng hình thức kí kết hợp đồng cụ thể. (Điều 400, BLDS 2015) Những
quy định cụ thể, chi tiết đó của Bộ luật dân sự là căn cứ pháp lí cho việc kí kết các
hợp đồng thương mại đặc biệt là trong điều kiện mà pháp luật về hợp đồng thương

17



mại không có quy định. Các chủ thể của hợp đồng thương mại có thể áp dụng các
quy định của Bộ luật dân sự về đề nghị giao kết, thời hạn chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng chấm dứt, đề nghị giao kết hợp đồng cũng như trong quy định về thời
điểm giao kết hợp đồng khi kí hợp đồng thương mại. Có như vậy, mới đảm bảo cho
việc kí kết hợp đồng thương mại được thực hiện ổn định trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng, bảo vệ được lợi ích các bên.
Thứ ba, áp dụng những quy định về sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng: Bộ
luật dân sự 2015 cũng quy định về các căn cứ sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ, đơn
phương đình chỉ hợp đồng. Một bộ phận các quy định trên có thể thay thế những
quy định về thanh lí hợp đồng trong kinh doanh thương mại. Trong thực tế, việc
thanh lí hợp đồng trong kinh doanh không còn ý nghĩa pháp lí vì khi hợp đồng được
thực hiện xong tức là các bên đã đạt được quyền và nghĩa vụ của mình. Hợp đồng
được thực hiện đầy đủ và trọn vẹn có nghĩa là quan hệ kinh tế giữa các bên kí kết
hợp đồng cụ thể này đã chấm dứt, trong các văn bản pháp luật chuyên ngành về hợp
đồng thương mại hầu như không có quy định nào về vấn đề này. Do đó, áp dụng các
quy định của Bộ luật dân sự về sửa đổi, chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng trong điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng trong thương mại là vấn đề cần thiết.
Thứ tư, áp dụng những quy định về các biện pháp đảm bảo thực hiện hợp
đồng: Bộ luật dân sự quy định về vấn đề này đầy đủ và rõ ràng hơn. Bộ luật dân sự
quy định nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng. Ngoài biện pháp thế chấp,
cầm cố, bảo lãnh tài sản là đặc trưng cho hoạt động của các tổ chức tín dụng còn có
các biện pháp khác như đặt cọc, kí cược, kí quỹ. Các chủ thể của hợp đồng thương
mại có thể áp dụng các biện pháp này để bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng, đặc
biệt là biện pháp kí quỹ. Những quy định của Bộ luật dân sự về các biện pháp đảm
bảo thực hiện hợp đồng hoàn toàn là căn cứ pháp lí tin cậy cho các chủ thể hợp
đồng thương mại áp dụng.
Thứ năm, áp dụng những quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng vô hiệu:
Bộ luật dân sự là văn bản chứa đựng các quy định chặt chẽ nhất về hợp đồng vô


18


×