Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số vấn đề cơ bản về điều hành chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.06 KB, 27 trang )

Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triền của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước đi
lên và đạt được những thành tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Trong đó,
ngành ngân hàng có sự đổi mới, phát triển rõ rết và có những bước tiến quan
trọng trong hệ thống các công cụ quản lý lãi suất - được coi là công cụ nhạy
cảm nhất. Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền
tệ được nhiều quốc gia trên thế giới xử dụng như một công cụ hữu hiệu điều
tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở thành công cụ
đắc lực để Ngân hàng Trung ương thực thi chính sách tiền tệ nhằm điều tiết
mối quan hệ giữa tiết kiệm và đầu tư, lạm phát và tăng trưởng kinh tế... trong
từng thời kỳ nhất định cho nên việc thi hành một chính sách lãi suất thích hợp
là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc về Ngân hàng nhà nước.
Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ sở
những kiến thức đã học cùng với những kiến thức trong khuôn khổ tài liệu
cho phép, em xin trình bày đề tài " Một số vấn đề cơ bản về điều hành chính
sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thời gian qua "
Mục tiêu của tôi khi thực hiện đề án này là: Về mặt lý luận: Tìm hiểu
sâu hơn về lãi suất cũng như việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
thời gian qua ở Việt Nam. Về mặt thực tiễn: Đánh giá và đưa ra giải pháp
nhằm góp phần cải thiện việc điều hành chính sách lãi suất.
Nội dung của đề án gồm có 3 phần chính:
Phần 1: Tổng quan về lãi suất
Phần 2: Thực trạng việc điều hành lãi suất của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam
Phần 3: Giải pháp định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay và
trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo, PGS.TS Nguyễn Hữu Tài đã hướng


dẫn trong quá trình thực hiện và hoàn thành đề án này. Vì thời gian và khả
năng của tôi còn hạn chế nên không thể tránh được những thiếu sót trong đề
án này. Mong thầy góp ý để tôi có thể hoàn thiện đề án này hơn ./.

SV: Nguyễn Hà Mi

1

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

I. Tổng quan về lãi suất
1. Khái niệm lãi suất:
Lãi suất là giá cả của vốn, chi phí phải trả cho việc thuê vốn. Hay có thể
nói lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất
định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó.
Trong nền kinh tế luôn có những chủ thể tạm thời dư thừa vốn, cùng lúc
đó có những người có cơ hội đầu tư sinh lời, cần vốn song lại thiếu vốn, thị
trường tài chính ra đời làm thông suốt quá trình chuyển vốn từ người thừa vốn
sang người cần vốn, các chủ thể qua quan hệ vay mượn tín dụng hoặc mua
bán các công cụ nợ đều đạt được mục đích của mình; người thừa vốn vừa bảo
đảm được vốn vừa thu được lợi, người thiếu vốn vừa được đáp ứng đủ cho
đầu tư. Từ thị trường đó, lãi suất được hình thành như giá cả của một loại
hàng hóa ( ở đây là vốn), nó là chi phí mà người đi vay phải trả cho người cho
vay để được quyền sử dụng vốn, nó vận động tuân theo quy luật cung cầu và
xác định trên cơ sở cân bằng giữa nhu cầu về vốn và cung về vốn trên thị

trường. Như vậy lãi suất chính là tín hiệu thị trường tham gia vào việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn và phân bổ nguồn vốn một cách hợp lý.
Ngoài ra lãi suất còn là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách
tiền tệ của mỗi quốc gia, nó do ngân hàng trung ương - cơ quan thay mặt nhà
nước thực thi chính sách tài chính tiền tệ nắm giữ, và sử dụng nhằm điều
chỉnh và can thiệp vào thị trường giúp hạn chế và khắc phục những yếu kém
của nền kinh tế.
2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, vai trò của
lãi suất được nhìn nhận một cách hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều khi được
hiểu như là một sự phân phối cuối cùng của sản phẩm giữa những người sản
xuất và người cho vay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường lãi suất giữ vai trò hết sức quan trọng
là một trong những đòn bẩy kinh tế. Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân nói chung. Vai trò của lãi suất được thể hiện ở nội dung
SV: Nguyễn Hà Mi

2

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

sau đây:
2.1 Lãi suất là công cụ để khuyến khích tiêt kiệm đầu tư
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản
tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu của

nền kinh tế.
Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình về thu nhập
như sau:
Thu nhập = Tiêu dùng + tiết kiệm
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ
gia đình, các doanh nghiệp mà còn đúng với cả nền kinh tế quốc gia. Giả sử
trong điều kiện của một nền kinh tế bình thường tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết
kiệm là hợp lý để tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất vốn tăng lên thì
trước hết các hộ gia đình phải xem xét các khoản chi cho tiêu dùng thuwongf
cuyên có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi để tăng thêm khoản tiết
kiệm trong tổng thu nhập. Sau từ khonar tiết kiệm này họ sẽ hướng đầu tư gửi
vào Ngân hàng, vào quỹ bảo hiểm hay đầu tư vào thị trường chứng khoán khi
thấy có lợi hơn.
Như vậy, lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia tỷ lệ giữa
tiêu dùng và tiết kiệm, Nhưng nâng lãi suất huy động đến mức nào thì phải
cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hòa của nền kinh tế quốc
dân.
Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới nền kinh tế vốn đang là vấn đề then
chốt. Muốn huy động được vốn phải có biện pháp thu hút vốn. Vấn đề là cần
duy trì một mức lãi suất như thế nào đê huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã
hội.
2.2 Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước
nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hướng hoạt động sản
xuất kinh doanh của các đơn bị kinh tế
- Lãi suất phải trả cho khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do
SV: Nguyễn Hà Mi

3


Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

vậy, lãi suất sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản
xuất kinh doanh. Ngược lại, lãi suất cho vay vào sẽ thu hẹp đầu tư của các
doanh nghiệp.
- Lãi suất là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả.
Những ưu đãi về lãi suất về điều kiện cung cấp tín dụng và thanh toán là công
cụ của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành
các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế.
2.3 Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô
Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay vì vậy sự biến động của
lãi suất có tác động đến đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến các mục
tiêu của nền kinh tế vĩ mô biểu hiện trong các trường hợp sau:
- Lãi suất thấp sẽ kích thích các cá nhân, các doanh nghiệp đầu tư cũng
như tiêu dùng, khi đầu tư tăng, tiêu dùng tăng dẫn đến tăng tổng cầu, sản
lượng tăng làm giá tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với
ngoại tệ. Và ngược lại khi lãi suất cao làm hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng,
làm giảm tổng cầu, giảm sản lượng, giá giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu
hướng tăng giá so với ngoại tệ.
Như vậy bằng cách tăng lãi suất Ngân hàng Nhà nước có thể làm giảm
khả năng cho vay của ngân hàng Thương mại do đó thực hiện chính sách tiền
tệ thắt chặt giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh
doanh và chi tiêu của người tiêu dùng. Cũng như vậy, bằng cách hạ thấp lãi
suất Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát
triển hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển một ngành nghề nào đó. Ngân

hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hoặc mở
rộng đầu tư của các ngành nghề.
Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều
chỉnh kinh tế ở Việt Nam. Sau khi kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ
tương đối ổn định, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện hạ thấp dần khung lãi
suất để khuyến khích huy động đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh khôi
phục kinh tế.
SV: Nguyễn Hà Mi

4

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

2.4 Lãi xuất là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử
dụng triệt để các nguồn lực của nền kinh tế.
Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng
nào đó trong nền kinh tế , Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi
suất cho vay ( như giảm lãi suất cho vay ... ) , và ngược lại khi muốn hạn chế
phát triển của các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác
thì Nhà nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó . Như vậy , những
ngành được hỗ trợ sẽ phát triển hơn còn các ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển
hơn . Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền
kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực
2.5 Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế
Người ta thấy rằng trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi

suất có xu hướng tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng
của cầu quỹ cho vay lớn hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay.
Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng
giảm xuống.
Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy
được tình trạng sức khỏe của nền kinh tế.
Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào
sự biến động đó của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của
nền kinh tế như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính mức
thiếu hụt của ngân sách, người ta có thẻ dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để
dự báo tình hình kinh tế trong tương lai.
3. Phân loại lãi suất
3.1 Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
Lãi suất được chia thành 3 loại
+ Lãi suất ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn
+ Lãi suất trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn
+ Lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn
3.2 Căn cứ vào các loại hình tín dụng
SV: Nguyễn Hà Mi

5

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

Lãi suất được chia thành các loại sau:

+ Lãi suất tín dụng thương mại áp dụng khi các doanh nghiệp cho nhau
vay dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa.
+ Lãi suất tiền gửi: là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi. Nó được áp
dụng để tính tiền lãi phải trả cho người gửi tiền.
+ Lãi suất tiền vay: là lãi suất người đi vay phải trả cho Ngân hàng do
việc sử dụng vốn vay của Ngân hàng. Nó được áp dụng để tính lãi mà khách
hàng phải trả cho ngân hàng.
+ Lãi suất chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng cho khách hàng vay dưới
hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn
thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy
tờ có giá và được khấu trừ ngay khi Ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
+ Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi Ngân hàng trung ương tái cấp vốn
cho các ngân hàng dưới hình thức chiếu khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có
giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các Ngân hàng. Nó được tính bằng
tỷ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá cũng được khấu trừ ngay khi Ngân
hàng Trung ương cấp vốn tiền vay cho Ngân hàng.
+ Lãi suất liên Ngân hàng: là lãi suất mà Ngân hàng áp dụng khi cho
nhau vay trên thị trường liên Ngân hàng.
+ Lãi suất cơ bản: là lãi suất được các Ngân hàng sử dụng làm cơ sở để
ổn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
+ Lãi suất tín dụng Nhà nước: áp dụng khi Nhà nước đi vay của các chủ
thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoặc trái phiếu.
+ Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao
động vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân.
3.3 Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất
Lãi suất được chia thành 2 loại:
+ Lãi suất danh nghĩa : là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ
vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ
lệ lạm phát.
SV: Nguyễn Hà Mi


6

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

+ Lãi suất thực: là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay
đổi về lạm phát, hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
3.4 Căn cứ vào mức ổn định của lãi suất
Lãi suất được chia thành 2 loại:
+ Lãi suất ổn định: lãi suất được ấn định 1 mức cụ thể trên Hợp đồng vay
vốn, không chịu tác động của những biến động lãi suất thị trường. Lãi suất
này sẽ không thay đổi trong suốt thời gian vay vốn tại Ngân hàng. Thông
thường áp dụng trong cho vay ngắn hạn.
+ Lãi suất thả nổi: lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ, biến đổi
theo thời gian. Mức điều chỉnh và kỳ điều chỉnh lãi suất sẽ theo thỏa thuận
giữa khách hàng và ngân hàng (không trái với Pháp luật) và được quy định rõ
trên Hợp đồng vay vốn. Thông thường kỳ điều chỉnh lãi suất là 03 tháng/lần,
06 tháng/lần hoặc 1 năm/lần; mức điều chỉnh lãi suất thường được tính bằng
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm lớn hơn hoặc bằng 12 tháng (tùy mỗi Ngân hàng) +
biên độ nhất định (nhưng không vượt quá mức khống chế trần lãi suất của
Ngân hàng nhà nước); hoặc bằng lãi suất cho vay công bố của Ngân hàng tại
thời điểm điều chỉnh. Thông thường áp dụng trong cho vay trung và dài hạn.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
4.1 Ảnh hưởng của cung cầu của quỹ cho vay

Lãi suất là giá cả của cho vay vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và
cầu hoặc cả cung và cầu quỹ cho vay không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi
mức lãi suất trên thị trường, tuy mức độ biến động của lãi suất cũng ít nhiều
phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và Ngân hàng Trung ương, song đa
số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định
lãi suất. Từ điều này cho thấy, chúng ta có thể tác động vào cung cầu trên thị
trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu
chiến lược trong từng thời kỳ: chẳng hạn nhu thay đổi cơ cầu vốn đầu tư, tập
trung vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định
của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
SV: Nguyễn Hà Mi

7

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

4.2 Ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng
Khi mức làm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, dù
ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tổ kích thích làm
tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền
lời thu được đã bị hao mòn do tác động của lạm phát. Trong tình hình ấy
những người có khả năng cho vay không muốn giữa tiền mặt, đổ xô đi mua
hàng hóa dự trữ vàng, ngoại tệ mạnh, hay đầu tư ra nước ngoài nếu có thể.
Điều đó dẫn đến cung quỹ cho vay giảm làm lãi suất tăng lên. Lạm phát tăng
lên không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy

mô về cầu quỹ cho vay. Bởi với lãi suất danh nghĩa cho trước, khi làm phát dự
tính tăng lên, chỉ phí thực của việc vay tiền giảm xuống, kích thích người ta đi
vay hơn là cho vay. Người đi vay sẽ kiếm được khoản thu lợi do giá hàng hóa
được mua bằng tiền đi vay sẽ tăng lên, tức là cầu quỹ cho vay tăng. Cầu quỹ
cho vay tăng sẽ đẩy lãi suất đi lên.
Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của
một nước là cực kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng
của cung ứng tiền tệ là cực kỳ cao.
Tóm lại khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng, điều này có một ý nghĩa
quan trọng trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát
tăng. Trên cơ sở đó, có một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, nhà
nước cần phải nâng lãi suất danh nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương,
hoặc nhà nước tung vàng, ngoại tệ ra bán để kiềm chế lạm phát.
Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất
định sẽ thất bại nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.
4.3 Ảnh hưởng của bội chi ngân sách
Khi Nhà nước bội chi ngân sách làm cho cầu của quỹ cho vay tăng làm
tăng lãi suất. Hơn nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng
về gia tăng mức lạm phát và do vậy mà sẽ gây áp lực tăng lãi suất. Xét ở góc
độ khác, thông thường khi bội chi ngân sách tăng, chính phủ thường gia tăng
việc phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm
SV: Nguyễn Hà Mi

8

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học


Lý thuyết tài chính tiền tệ

cho giá trái phiếu có xu hường giảm, lãi suất thị trường vì vậy mà tăng lên,
Hơn nữa, tài sản có của các ngân hàng thương mại cũng gia tăng ở khoản mục
trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt quá giảm, lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
4.4 Những thay đổi về thuế.
Thuế thu nhập cá nhân và thuế lợi tức công ty luôn tác động đến lãi suất
giông như khi thuế tác động đến giá cả hàng hóa. Nếu các hình thức thuế này
tăng lên cũng có nghĩa là điều tiết đi một phần thu nhập của những người
tham gia kinh doanh chứng khoán. Thông thường, ai cũng sẽ quan tâm đến
thu nhập, thực tế hay lợi nhuận sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy,
để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng thêm vào lãi suất
cho vay những thay đổi của thuế. Điều quan trọng được rút ra từ mối quan hệ
này là việc xác lập và điều chỉnh đối với chính sách thuế, nhằm hạn chế
những tác động ngoài ý muốn của mỗi thay đổi nói trên của thuế.
4.5 Các chính sách của nhà nước
+ Chính sách tiền tệ: với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân
hàng trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thông ngân hàng
của một quốc gia. Với công cụ lãi suất, ngân hàng trung ương có thể điều tiết
hoạt động của nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau:
- Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều
chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhằm thực hiện được mục tiêu giảm
lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
- Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu:
Ngân hàng trung ương tái chiết khấu các chứng từ do ngân hàng thương mại
xuất trình với điều kiện ngân hàng phải trả một lãi suất nhất định do ngân
hàng trung ương đơn phương quy định.
Mỗi khi lãi suất tái chiết khấu thay đổi có xu hướng làm tăng hay giảm
chi phí cho vay của ngân hang trung ương đối với ngân hàng thương mại và

các tổ chức tín dụng do đó khuyến khích hay cản trở nhu cầu vay vốn. Vì vậy
thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể
SV: Nguyễn Hà Mi

9

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

khuyến khích mở rộng hay làm giảm khối lượng tín dụng mà ngân hàng
thương mại cấp cho nền kinh tế. Do thay đổi lãi suất chiết khấu, ngân hàng
trung ương có thể tác đông gián tiếp vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết
khấu cao hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức lượng tiền
cung ứng của ngân hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi
suất thị trường.
- Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thị trường mở cửa: có
nghĩa là ngân hàng trung ương thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị
trường chứng khoán. Nhiệm vụ chính của chính sách thị trường mở là điều
hòa cung cầu về các chứng khoán và giấy tờ có giá khác để tác động vào các
ngân hàng thương mại trong việc cung cầu tiền tệ, cung ứng tín dụng.
- Ngân hàng trung ương tăng hay giảm mức dự trữ bắt buộc: khi tỷ lệ
dự trữ tăng lên tức là ngân hang trung ương quyết định giảm bớt số vốn khả
dụng của ngân hàng kéo theo những khó khăn ngân quỹ cho các ngân hàng,
hạn chế tín dụng của ngân hàng và ngược lại. Do đó cũng ảnh hưởng gián tiếp
đến lãi suất trên thị trường.
+ Chính sách thu nhập: Đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu

mức giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo
giá trị thực tế tăng, bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ
hơn. Do vậy cũng như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi
mức giá được giữ cố định, làm lãi suất giảm. Ngược lại một mức giá cao hơn
làm giảm cung tiền tệ theo giá thực tế, làm tăng lãi suất. Như vậy một mức
giá cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm tăng lãi suất. Như
vậy một sự thay đổi về chính sách giá cả cũng làm thay đổi lãi suất.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền
lương, khi tiền lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo
đơn vị sản phẩm tại một mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi
suất giảm.
+ Chính sách tỷ giá: bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình
thành quan hệ về sức mua giữa tiền của nước này so với một ngoại tệ khác,
SV: Nguyễn Hà Mi

10

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

nhất là đối với các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi.
Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu
hảng hóa của một nước. khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của
hang nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa
trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi
suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo

cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Vì vậy khi thấy đồng tiền của nước mình sụt giá, ngân hàng trung ương
sẽ theo đuổi một chính sách tiền tệ thắt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, nâng
lãi suất trong nước, làm cho đồng tiền củng mình vững mạnh.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu,
nền công nghiệp trong nước có thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên,
kích thích nhập khẩu. Lượng tiền tệ tăng do với một tỷ giả thấp, với một
lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư vào
sản xuất, lãi suất tăng lên. Nhu vậy khi có một sự cạnh tranh giữa nền công
nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài tăng lên, có thể gây áp lực
buộc ngân hàng trung ương phải theo đuổi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao
hơn nhằm hạ thấp tỷ giá.
II Thực trạng việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam
1. Bối cảnh chung
Năm 1988 là năm mở đầu thời kỳ chuyển hướng từ nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, Với cơ
chế kinh tế mới, tất cả các tổ chức kinh tế được tự chủ về tài chính, sản xuất,
kinh doanh và tung ra hoạt động theo cơ chế thị trường.
Phối hợp với xu hướng mới này của nền kinh tế, hệ thông ngân hàng
Việt Nam bắt đầu chuyển đổi. Đặc trưng của quá trình này là: Tách hệ thống
ngân hàng từ một cấp sang hai cấp.
Sự chuyển đổi diễn ra 3 năm 1988 - 1990 song chưa có những chuyển
biến rõ nét, vẫn mang dáng dấp ngân hàng thời bao cấp. Trong giai đoạn này,
SV: Nguyễn Hà Mi

11

Lớp: Ngân hàng 49B



Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

sự đổ vỡ hàng loạt các quỹ tín dụng nhân dân đã gây cho nền kinh tế những
tổn thất lớn. Nhưng cũng từ đó chúng ta đã có những bài học kinh nghiệm
quý báu và tiếp tục kiên trì con đường đổi mới.
Từ năm 1990 đến nay là giai đoạn đổi mới và phát triển hệ thống ngân
hàng. Hệ thống ngân hàng Việt Nam chuyển hướng nhanh để hòa nhập nền
kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước. Chính sách tiền tệ bắt đầu hình
thành. Trong thời kỳ bao cấp, do suy thoái kinh tế, ngân sách quốc gia bị thâm
hụt. Nhằm bù đắp vào những khoản chi tiêu ngân sách, nhà nước tăng lượng
tiền phát hành vào lưu thông dẫn đến lạm phát phi mã, nền kinh tế lâm vào
khủng hoảng. Do vậy không thể duy trì cơ chế này. Năm 1991 Ngân hàng nhà
nước Việt Nam bắt tay vào xây dựng chính sách tiền tệ với mục tiêu ổn định
đồng tiền Việt Nam, tăng trưởng kinh tế. Việc xác định lượng tiền cung ững
hàng năm phục vụ hai mục tiêu đó sao cho lượng tiền cung ứng dủ, vửa đảm
bảo phương tiện lưu thông sản xuất không bị ách tắc vừa kiềm chế lạm phát.
2, Các giai đoạn thực hiện chính sách lãi suất ở Việt Nam
2.1 Giai đoạn trước năm 2000
Từ trước năm 1986 đến 2000, việc thực hiện chính sách lãi suất đã trải
qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn mang một nội dung và một mực đích khác
nhau, nhưng nói chung qua mỗi giai đoạn đã tích lũy được khá nhiều kinh
nghiệm. Điểm qua lại một số giai đoạn đầu của những năm đổi mới chính
sách lãi suất để có thể thấy rõ sự điều hành lãi suất của Ngân hàng Trung
ương ra sao.
a, Giai đoạn 1986-1993
Đây là giai đoạn mà lãi suất Việt Nam chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất
dương.

Trước tháng 3/1989, nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng, Ngân
hàng nhà nước có điều chỉnh lãi suất nhưng do lạm phát phi mã, lãi suất luôn
trong tình trạng âm. Lãi suất thực năm 1986 là -6,6%; năm 1987 là -5,8%.
Tức là người gửi tiền không những không có lãi mà giá trị đồng tiền vốn của
họ bỏ vào Ngân hàng còn không được bảo đảm. Điều này có nghĩa là:
SV: Nguyễn Hà Mi

12

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

- Lãi suất tiền gửi thấp hơn mức lạm phát.
- Lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động và thấp hơn mức lạm phát.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực:
- Khả năng huy động vốn cùng với yêu cầu rút bớt tiền lưu thông, giảm
bớt áp lực của tiền đối với giá của hàng hóa bị hạn chế nhiều.
- Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả tạo cho
các doanh nghiệp.
- Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có
cho ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ
chế thị trường.
- Không có tác dụng khuyến khích khu vực dân cư gửi tiền tiết kiệm vòa
hệ thống ngân hàng, họ tăng nắm giữ vàng bạc và ngoại tệ. Ngân hàng thiếu
vốn, lợi nhuận thấp nên không có khả năng cho vay ra nền kinh tế.
Từ tháng 3/1989, Ngân hàng nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi

suất, chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền trong lưu thông
và kiềm chế được lạm phát, tranh bao cấp qua lãi suất, ngân hàng nhà nước đã
nâng lãi suất huy động lên một mức rất cao trong một thời gian ngắn ( lãi suất
tiết kiệm không kỳ hạn 9%/ tháng; lãi suất tiết kiệm 3 tháng 12%/tháng )
Nhờ việc sử dụng công cụ lãi suất mà nền kinh tế đã thu hút được một
khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, kiếm chế lạm
phát, kích thích tăng trưởng phát triển. Ngoài ra, nó còn giúp chuyển lãi suất
âm sang lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát, lãi suất cho
vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hòa lợi ích người gửi tiền, người vay
vốn và tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, chính sách lãi suất này còn nhiều hạn chế, đó là hệ thống lãi
suất phức tạp, nhiều mức lãi suất tiền gửi và tiền vay. Đối với ngành kinh tế
(công, nông, thương nghiệp) có mức lãi suất riêng; đối với các thành phần
kinh tế ( quốc doanh và ngoài quốc doanh ) còn phân biệt lãi suất. Mức lãi
suất thực dương phi thực tế ( năm 1991 lãi suất thức là 25,6%; năm 1992 là
17,9% ) đã kích thích nạn đầu cơ tiền tệ, khan hiếm tiền mặt trong luwu thông
và làm tê liệt hoạt động tín dụng đầu tư phát triển.
SV: Nguyễn Hà Mi

13

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

b, Giai đoạn 1993 - 1996
Ở giai đoạn này Ngân hàng Nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần cho vay,

vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận
Cùng một thời điểm Ngân hàng Nhà nước cho phép các tổ chức tín dụng
cho vay theo mức lãi suất thỏa thuận mà Ngân hàng thương mại thỏa thuận
với khách hàng. Mức lãi suất thỏa thuận có thể vượt mức cho vay hay lãi suất
tiền gửi cụ thể mà Ngân hàng đã công bố. Ở giai đoạn này vẫn có sự phân biệt
giữa lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư
nhân. Bên cạnh đó với cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận. Ngân hàng
thương mại có nơi cho vay cao hơn mức lãi suất 22%/ năm và có nơi cho vay
lên đến 30% đến 35% chính vì vậy mà trong thời kỳ này các Ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng khác đạt được mức lãi suất cho vay và
tiền gửi với chênh lệch từ 0,75% đến 1%/ tháng, đó là con số mơ ước của các
Ngân hàng Thương mại hiện nay. Với thực tế này đem lãi cho các Ngân hàng
thuuwong mãi các tổ chức tín dụng lợi nhuận rất cao trong khi đó các doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn về tài chính.
Đứng trước tình hình này tháng 10/ 1995 sau kỳ họp VIII khóa IX đã
thông qua bỏ thuế doanh thu của các Ngân hàng Thương mại và các tổ chức
tín dụng yêu cầu các đơn vị kinh doanh tiền tệ phải giảm chi phí hoạt động để
giảm lãi suất cho vay của mình. Ngân hàng Trung ương đã khống chế lãi suất
cho vay và tiền gửi là 0,35%/tháng, đó là tiền đề để hình thành chính sách lãi
suất mới thực hiện nhằm khống chế trần lãi suất cho vay như hiện nay đối với
các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác và bãi bỏ lãi suất cho
vay thỏa thuận từ 1/1/1996.
Có thể nói, từ năm 1993, Chính sách lãi suất đã dần linh hoạt hơn với lãi
suất thực dương và giảm dần cùng với tốc độ đi xuống của lạm phát, đông
thời nhờ có chính sách lãi suất đã đảm bảo khuyến khích tiết kiệm và hướng
tới đẩy mạnh đầu tư vị mục tiêu tăng trưởng kinh tế.
c, Giai đoạn 1996 - 2000
Đây là giai đoạn thực hiện cơ chế trần lãi suất hoàn toàn và bãi bỏ lãi
SV: Nguyễn Hà Mi


14

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

suất cho vay thỏa thuận.
Trên sơ sở nghị quyết của quốc hội về mức chênh lêch lãi suất
0,35%/tháng, nên ngân hàng nhà nước đã quyết định điều hành chính sách lãi
suất theo trần lãi suất nhằm khống chế lãi suất cho vay tối đa và các ngân
hàng thương mại chỉ được hưởng chênh lệch 0,35%/tháng bao gồm cả chi
phí , thuế, lợi nhuận thay cho việc quy định các mức lãi suất tiền gửi cụ thể và
xóa bỏ lãi suất cho vay thỏa thuận. Chính sách điều hành lãi suất vừa quy
định trần lãi suất vừa khống chế chênh lệch 0,35/tháng nên có quan điểm cho
rằng thực chất của nó là vừa quy định trần vừa quy định sàn lãi suất.
Trần lãi suất cho vay được quy định thành nhiều mức khác nhau, xuất
phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa
bàn khác nhau, cung cầu vốn khác nhau, quy mô khác nhau và do đó chi phí
khác nhau, nên quy định nhiều mức trần lãi suất cho vay khác nhau. Có 4 loại
lãi suất trần như sau:
- Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: là lãi suất thấp nhất áp dụng cho khu
vực thành thị
- Trần lãi suất cho vay trung dài hạn: Cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn
một chút do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.
- Trần lãi suất cho vay trên địa bạn nông thôn: Cao hơn trần lãi suất ngắn
hạn và trung dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn
hơn ở thành thị.

- Trần lãi suất của quỹ tín dụng đối với các thành viên: Là trần lãi suất
cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ lẻ, chi phí hoạt động
cao.
Chính sách lãi suất này đã kích thích hoạt động tín dụng phát triển, tăng
trưởng kinh tế, tạo việc làm, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tuy nhiên chính sách này cũng gặp một số hạn chế. Đó là:
- Việc ấn định mức chênh lệch lãi suất 0,35%/ tháng gây khó khăn cho
hoạt động của Ngân hàng và các biện pháp để giám sát sự thực hiện quy định
này là hầu như không có.
SV: Nguyễn Hà Mi

15

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

- Trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị tạo động lực cho các
ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động song lại bị cản trở trong việc thực
hiện chính sách ưu đãi nông nghiệp, khuyết khích nông nghiệp phát triển.
2.2 Giai đoạn 2000 đến nay
a, Giai đoạn 2000-2002
Đây là giai đoạn thực hiện điều hành chính sách lãi suất bằng công cụ lãi
suất cơ bản. Ngày 02/08/2000 thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành
các quyết định về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành
từ ngày 05/08/2000.
Đây chính là giai đoạn cụ thể hóa những quyết sách chiến lược đã được

nêu ra trong luật Ngân hàng nhà nước, khoản 2 điều 19 xác định " lãi suất cơ
bản là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín
dụng ấn định làm lãi suất kinh doanh"; điều 18 quy định " Ngân hàng nhà
nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn "
Việc chuyển hướng này có nhiều lý do, song về cơ bản là bởi lãi suất trần
đã trở thành một công cụ chỉ còn tính hình thức, xơ cứng mất hết tác dụng đối
với nền kinh tế. Nều tảng kinh tế vĩ mô trong nước chưa cho phép thưc hiện
tự do hóa lãi suất, do vậy thực hiện chính sách lãi suất theo lãi suất cơ bản là
bước chuyển giao từ việc điều hành hành chính sang việc để thị trường xác
định và nhà nước chỉ tác động qua các công cụ kinh tế.
Nội dung chủ yếu của cơ chế điều hành lãi suất mới
Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở nguyên tắc thị trường nhưng
với bước đi thích hợp thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường
tiền tệ; từng bước tiến tới tự do hóa lãi suất, quốc tế hóa hoạt động tài chính
trong nước, đồng thời vơi các biện pháp phát triển thị trường tiện tệ và nâng
cao năng lực điều hành của các tổ chức tín dụng, xử lý lãi suất đồng Việt Nam
trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá, quản lý ngoại hối.
Cụ thể là
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam : Ngân hàng nhà nước bãi
bỏ quy định trần lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng, chuyển
SV: Nguyễn Hà Mi

16

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ


sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ biên độ %, dựa trên việc tham
khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường các ngân hàng thương mại áp
dụng với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro
thấp.
Lãi suất cho vay và huy động của tổ chức tín dụng gắn với lãi suất cơ
bản. Theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng cao nhất = lãi suất cơ bản +
tỷ lệ
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng ngoại tệ :
- Cho vay bằng đồng đô la Mỹ : Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay
của ngân hàng thương mại đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh
hoạt phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn còn sự kiểm soát của nhà
nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn hạn ( từ 1 năm trở xuống ) không vượt
quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore ) kì hạn
3 tháng + 1%/năm ; lãi suất cho vay dài hạn ( từ 1 năm trở lên ) không vượt
quá mức SIBOR kì hạn 6 tháng + 2,5%/năm.
- Cho vay bằng ngoại tệ khác : Do chiếm tỷ trọng nhỏ trong hoạt động
tiền
gửi và tín dụng trên thị trường nên cho phép các ngân hàng thương mại tự
xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoại tệ
này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung - cầu vốn tín dụng của
từng loại ngoại tệ ở trong nước.
b, Giai đoạn 2002 - 2008
Đây là giai đoạn Ngân hàng nhà nước thực hiện cơ chế lãi suất thỏa
thuận.
Ngày 1-6-2002, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) VN đã ban hành quyết
định về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng
thương mại bằng đồng VN của tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng.
Theo đó, TCTD xác định lãi suất cho vay bằng đồng VN trên cơ sở cung cầu
vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các pháp nhân

SV: Nguyễn Hà Mi

17

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

và cá nhân VN, nước ngoài hoạt động tại VN.
Ngoài ra, NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo
mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các
TCTD để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Đây là một bước
chuyển căn bản của VN trong việc điều hành lãi suất, tạo điều kiện cho các
TCTD mở rộng mạng lưới để huy động, cho vay vốn với mức lãi suất phù
hợp với quan hệ cung cầu vốn thị trường, đồng thời nâng cao năng lực tài
chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với
thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của các TCTD VN. Với cơ chế này, Nhà
nước chính thức không can thiệp vào hoạt động điều hành lãi suất bằng việc
ấn định lãi suất cho vay mà chỉ gián tiếp điều tiết lãi suất nhằm có lợi nhất
cho nền kinh tế. Cơ chế này cũng giúp giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín
dụng và giúp các ngân hàng nới lỏng các biện pháp bảo đảm tiền vay (thế
chấp) đối với khách hàng. Cũng trong cùng ngày 1-6-2002 NHNN đã có
quyết định công bố lãi suất cơ bản bằng đồng VN là 0,60%/tháng
(7,2%/năm).
Khi được thỏa thuận mức lãi suất, các ngân hàng sẽ mở rộng diện cho
vay, đó là điều kiện để xóa bỏ nạn tín dụng đen. các ngân hàng thương mại
(NHTM) sẽ được chủ động hơn trong vấn đề kinh doanh.

Hơn nữa, lãi suất thỏa thuận cũng giúp cho dòng chảy vốn thông thoáng
và cho vay ở nông thôn sẽ tăng lên. Lâu nay, lãi suất đầu ra của các NHTM bị
khống chế bởi lãi suất trần do NHNN quy định. Cụ thể, lãi suất trần được tính
bằng lãi suất cơ bản 0,6% cộng 0,3% (với loại vay ngắn hạn) và cộng 0,5%
(với loại vay trung, dài hạn). Tại các đô thị, do nguồn vốn dồi dào, có nhiều
ngân hàng cạnh tranh nên lãi suất cho vay thường thấp, hiếm khi đụng lãi suất
trần.Quyết định 546 đã tạo điều kiện cho các NHTM chủ động trong việc huy
động và cho vay với lãi suất thỏa thuận, làm cho dòng chảy đồng vốn thông
thoáng hơn, đồng thời các NHTM ở nông thôn có thể sẽ tăng lãi suất cho vay
để tránh bị lỗ. Khi mức lãi vay ở nông thôn tăng lên thì các NHTM sẽ điều
tiết vốn huy động từ các đô thị về nông thôn, mở rộng việc cho vay đối với
SV: Nguyễn Hà Mi

18

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

nông dân. Sự điều chỉnh này sẽ là điều kiện để xóa bỏ nạn tín dụng đen.
Đối với nguồn cung ngoại tệ, từ ngày 01/03/2007, NHNN đã chính thức
thực hiện bỏ quy định về trần lãi suất tiền gửi USD của pháp nhân tại TCTD
để hoàn toàn tự do hóa lãi suất thị trường, phù hợp với tiến trình hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên đến giai đoạn cuối năm 2007, đầu năm 2008, thị trường bất
động sản xuất hiện những dấu hiệu bất ổn khi giá cả tăng chóng mặt, trong
khi thị trường chứng khoán lại đi xuống. Với mục tiêu chính là kiềm chế lạm

phát, từ đầu năm đến giữa năm 2008, NHNN Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản
3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất cơ bản là 14%. Việc làm này
đã gây sốc trên thị trường tiện tệ cũng như hoạt động của các NHTM, các
NHTM liên tục bám đuổi nhau tăng lãi suất huy động nội tệ. Hệ quả là đã đẩy
lãi suất lên quá cao, tác động tiêu cực đến GDP, đến hiệu quả của nền kinh tế
và tính an toàn của hệ thống NHTM.
c, Giai đoạn 2008 đến nay
Năm 2008 chứng kiến sự biến động mạnh của lãi suất với sự điều hành
chính sách tiền tệ linh hoạt và uyển chuyển của NHNN.Từ năm 2008 - đầu
năm 2010 là giai đoạn quay lại cơ chế điều hành lãi suất trần.
Do ảnh hưởng của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi đầu là
cuộc khủng hoảng tín dụng tại Mỹ, tỷ lệ lạm phát của Việt Nam tăng rất cao
trong năm 2008 (19.89%). Vì vậy chính sách thắt chặt tiền tệ đã được thực thi
từ đầu năm 2008, đến giữa năm, ngày 17/05/2008, NHNN thông báo điều
chỉnh chính sách lãi suất nhằm nới lỏng thị trường.
NHNN ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ- NHNN về việc điều hành
lãi suất trên cơ sở thực hiện nghiêm túc khoản 1 điều 476 bộ luật dân sự, điều
9 và điều 18 luật NHNN. Theo quyết định này, lãi suất cho vay của tổ các tổ
chức tín dụng đối với khách hàng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản
do NHNN công bố.
Từ cuối năm 2008 đến 2010, lãi suất cơ bản được giữ khá ổn định ở mức
8%/năm. Nhìn chung cơ chế trần lãi suất đã có tác động tích cực bình ổn thị
trường trong thời kỳ khủng hoảng, và các cú sốc bởi những thay đổi trong

SV: Nguyễn Hà Mi

19

Lớp: Ngân hàng 49B



Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

chính sách để chống lạm phát và suy giảm kinh tế.
Từ đầu năm 2010 đến nay, tình hình kinh tế bắt đầu ổn định, cơ chế lãi
suất trần không còn phù hợp với những diễn biến mới của thị trường. Nguồn
vốn huy động của các TCTD chủ yếu là ngắn hạn trong khu nhu cầu vốn vay
trung – dài hạn là rất lớn, điều này có thể làm rủi ro mất cân đối kỳ hạn vốn
tăng lên.
Chính vì vậy, ngày 26/2 NHNN đã ban hành thông tư 07/2010/TTNHNN cho phép các ngân hàng thương mại được thực hiện lãi suất thỏa
thuận đối với các khoản vay trung dài hạn. Điều đó có nghĩa là NHTM có thể
thỏa thuận với khách hàng để cho vay với lãi suất cao hơn lãi suất trần cho
các khoản vay trung dài hạn.
Đến ngày 14/4 NHNN lại ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN
hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi
suất thỏa thuận.
Tuy nhiên, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng phải xác định và kiểm
soát các giới hạn tín dụng đối với một khách hàng và việc cho vay theo lãi
suất thỏa thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật về các tỷ lệ bảo đảm
an toàn trong hoạt động của từng tổ chức tín dụng và điều kiện hoạt động kinh
doanh của tổ chức đó. Bên cạnh đó, định kỳ hàng tháng, các ngân hàng phải
gửi báo cáo cho NHNN về cho vay bằng đồng Việt Nam theo lãi suất thỏa
thuận.
3. Những đánh giá trong điều hành chính sách lãi suất thời gian gần
đây:
Thời gian qua, Ngân hàng nhà nước đã ó những bước thay đổi về điều
hành lãi suất trong nền kinh tế để đảm bảo cho chính sách lãi suất phù hợp với
định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, Chính phủ trong mỗi thời kỳ.

Giai đoạn trước năm 2000, Ngân hàng nhà nước áp dụng mức lãi suất
trần tín dụng khi nền kinh tế thị trường còn sơ khai, chưa phát huy được hết
mặt tích cực nhạy cảm của nó. Vì thế, sang đến năm 2000 Ngân hàng nhà
nước đã chuyển lãi suất trần sang lãi suất cơ bản. So với cơ chế trần lãi suất
tín dụng, cơ chế lãi suất cơ bản có một số ưu việt sau:
- Nền tảng thị trường đã được đưa vào cơ chế xác định lãi suất cơ bản .
SV: Nguyễn Hà Mi

20

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

- Môi trường cho việc ấn định lãi suất kinh doanh của các tổ chức tín
dụng
được mở rộng tạo khuôn khổ linh hoạt cho các tổ chức tín dụng khi áp
dụng lãi suất.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng và khách hàng gửi, vay vốn có
thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất cố định hoặc lãi suất thả nổi có điều chỉnh, có
lợi cho các bên khuyến khích tổ chức tín dụng mở rộng huy động vốn và cho vay
trung và dài hạn.
- Làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND - tỷ giá lãi suất ngoại tệ linh
hoạt hơn, phản ánh được chính xác hơn cung - cầu vốn, ngoại tệ tạo cơ sở
cho ngân hàng nhà nước khi cần thiết có thể can thiệp để ổn định thị trường.
Tuy nhiên sau đó, Ngân hàng nhà nước thay đổi các cơ chế lãi suất một
cách linh hoạt tùy vào những điều kiện kinh tế nhằm phát huy vai trò của lãi

suất đối với nền kinh tế. Năm 2002, Ngân hàng nhà nước áp dụng cơ chế lãi
suất thỏa thuận nhằm tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng mạng lưới để huy
động, cho vay vốn với mức lãi suất phù hợp với quan hệ cung cầu vốn thị
trường, đồng thời nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, các tiêu
chuẩn an toàn và khả năng hội nhập với thị trường tài chính tiền tệ quốc tế của
các TCTD VN. Đến năm 2008 do khủng hoảng tài chính toàn cầu, ngân hàng
áp dụng chính sách tiền tệ linh hoạt cùng với mức lãi suất trần để ngăn lạm
phát, suy thoái kinh tế. Tuy nhiên, sau một thời gian áp dụng cơ chế trần lãi
suất, cơ chế này đã bộc lộ quá nhiều hạn chế, vì thế ngày 26/2/2010, NHNN
đã cho phép các TCTD theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay bằng
VNĐ trung và dài hạn, đối với ngắn hạn là ngày 14/4.
Ngay sau khi cơ chế mới được thực hiện, lãi suất thỏa thuận đã nhanh
chóng tạo nên những hiệu ứng tích cực đối với nền kinh tế:
Thứ nhất, hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và
phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, chấm dứt tình trạng phí “ngầm” mà
Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát.
Thứ hai, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất

SV: Nguyễn Hà Mi

21

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức độ rủi

ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số
yếu tố liên quan khác. Sự phân hóa khách hàng sẽ diễn ra rõ hơn: Khách hàng
có uy tín sẽ được hưỡng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín phải chịu lãi
suất cao với mức độ khác nhau rõ rệt.
Thứ ba, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy
động vốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn
của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và
quy mô huy động với thời hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.
III. Giải pháp định hướng điều hành lãi suất ở Việt Nam hiện nay và
trong thời gian tới.
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu, Việt Nam đang từng buwocs chuyển
mình để hòa nhập vơi nền kinh tế thế giới, hòa nhập nhưng không hòa tan, đó
là điều kiện không đơn giản. Từ những kinh nghiệm của các nước trên thế giới
Việt Nam đã và đang tìm những bước đi phù hợp với điều kiện của mình
nhằm tiến tới chính sách lãi suất hoàn thiện. Việt Nam liên tục điều chỉnh lãi
suất cho phù hợp với nền kinh tế. Sau đây tôi xin đưa ra một số giải pháp về
việc điều hành chính sách lãi suất:
- Đổi mởi cơ chế điều hành lãi suất Ngân hàng. Chúng ta nên thực hiện
cơ chế lãi suất tín dụng theo quan hệ cung cầu trên thị trường vố, phải có
chính sách lãi suất phù hợp với đường lối đổi mới kinh tế. Chúng ta không thể
quy định lãi suất một cách cứng nhắc theo kiểu hành chính gò bó áp đặt mà
nên tiến tới tự do hóa lãi suất, đó là một quá trình hoàn toàn mang tính quy
luật, như vậy lãi suất mới trở thành đòn bầy trong nền kinh tế. Song cũng
không nên thả nổi lãi suất mà phải có định hướng lãi suất cụ thể cho các tổ
chức tín dụng khác nhau hoạt động ở những vùng có điều kiện kinh tế khác
nhau. Có như vậy các tổ chức tín dụng mới hoạt động được trong một cơ chế
cạnh tranh lành mạnh đảm bảo kinh doanh có lãi phục vụ có hiệu quả cho
khách hàng và nền kinh tế.
SV: Nguyễn Hà Mi


22

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

- Đổi mới cơ chế quản lý của Ngân hàng Nhà nước đối với Ngân hàng
thương mại và các tổ chức tín dụng.
Ngân hàng nhà nước nên điều hành kinh doanh của các Ngân hàng
thương mại bằng những cơ chế, chính sách để các ngân hàng thương mại đi
đúng quỹ đạo của cơ chế thị trường. Cạnh tranh giảm chi phí nhiệm vụ, đa
dạng hóa sản phẩm dịch vụ có chất lượng ngày càng cao chứ không phải cạnh
tranh tăng lãi suất huy động để huy động vốn giảm lãi suất cho vay để thu hút
khách hàng.
- Nâng cao tính ổn định của lãi suất tín dụng và tỷ lệ lãi suất ổn định phải
thấp hơn tỷ lệ lạm phát
- Phân định rõ chức năng xã hội trong hoạt động của các Ngân hàng thương
mại và các tổ chức tín dụng theo hướng xóa bỏ dần cơ chế bao cấp qua lãi suất tín
dụng.
- Tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh
giữa các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phù hợp với chính
sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước. Tôn trọng tính
độc lập và tự chủ về kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đi đôi với vai
trò tăng cường quản lý vĩ mô của nhà nước thông qua chính sách lãi suất.

SV: Nguyễn Hà Mi


23

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

KẾT LUẬN
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa hội nhập đang ặt ra những thách thức
rất lớn cho các nước kém phát triển trong đó có Việt Nam. Phấn đấu quyết liệt
vươn lên để phát huy cao nội lực, tăng khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế
đã, đang và sẽ trở thành sự sống còn của sự tồn tại và hội nhập và phát triển
trong xu thế này. Để hòa nhập vào xu thế đó chúng ta phải chăm lo ổn định và
lành mạnh hóa lĩnh vực tài chính tiền tệ.
Lãi suất là công cụ tiền tệ của nền kinh tế thị trường, nó có độ nhạy cảm
cao. Việc sử dụng lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi
suất được coi là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi phải có định hướng thích hợp
nhất tùy thuộc vào những đặc thù và những điều kiện thực tiễn nước ta nhằm
mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất,
góp phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư và thương mại hóa theo hướng tự
do bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại. Từng bước tiến tới một hệ thống
tài chính tiền tệ và Ngân hàng hoàn chỉnh, vững chắc bảo đảm thực hiện thành
công chính sách tiền tệ ở tầm vĩ mô. Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính
sách lãi suất vừa có tác dụng thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vừa có thể
khuyến khích nhà sản xuất sử dụng dụng vốn vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh đảm bảo quyền lợi cho người vay vốn người gửi tiền và Ngân hàng, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiến tới công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước như mục tiêu của Đảng và Nhà nước đã đề ra.


SV: Nguyễn Hà Mi

24

Lớp: Ngân hàng 49B


Đề án môn học

Lý thuyết tài chính tiền tệ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài
2. Giáo trình Kinh tế vĩ mô 1 - Đại học Kinh tế Quốc dân
3. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Miskin
4. Thời báo ngân hàng
Và các nguồn tài liệu khác trên Internet
Báo điện tử thời báo kinh tế Việt Nam - www.vneconomy.com
Thị trường 24h - www.thitruong24h.com.vn
Tổng cục thống kê - www.gso.gov.vn
Ngân hàng nhà nước Việt Nam - www.sbv.gov.vn

SV: Nguyễn Hà Mi

Lớp: Ngân hàng 49B


×