Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.32 KB, 26 trang )

Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
A/ LỜI MỞ ĐẦU
Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp, nó là biến số
kinh tế hết sức quan trọng của kinh tế học, của thị trường và của cuộc
sống kinh doanh. Lãi suất về bản chất nó là giá cả của tín dụng nói chung, nó
rất nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động làm thay đổi hành vi sản
xuất và tiêu dùng của cả xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực
tiễn đã chứng minh, sự thay đổi của lãi suất thực sẽ tác động đến cả sản
lượng và giá cả của nền kinh tế, nó có tác động to lớn đối với việc tăng hay
giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng tạo thuận lợi
hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng.Vai trò của lãi suất ngày càng trở nên
quan trọng trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường, đặc biệt trong
giai đoạn đất nước tiến hành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đối với Việt Nam, lãi suất luôn luôn là một trong những mối quan tâm
hàng đầu của các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kinh tế và các tầng lớp
dân cư. Do đó, việc nghiên cứu về lãi suất, đo lường và dự đoán lãi suất vô
cùng quan trọng, làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách kinh tế của quốc
gia, các chủ thể trong nền kinh tế.... Trên cơ sở những kiến thức đã học và
những tài liệu thu thập được cũng như những hiểu biết thực tế của mình, em
chọn nghiên cứu đề tài:
“ Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008-2009”.

1

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
B/ NỘI DUNG:


I/. Lý luận chung về lãi suất:
1. Khái niệm:
Vốn : là biểu hiện bằng tiền hay lượng tiền ứng trước để thỏa mãn các yếu tố
đầu vào của quá trình kinh doanh, là biểu hiện bằng tiền của tất cả các tài sản
được sử dụng để đầu tư vào kinh doanh.
Bản chất của vốn:
 Phải được tích lũy một lượng đủ lớn.
 Vốn luôn vận động.
 Có khả năng sinh lời
Chi phí vốn: là chi phí cơ hội của việc sử dụng vốn.
Lãi suất: về mặt bản chất nó là giá cả của tín dụng nói chung. Chúng ta
hiểu lãi suất theo nghĩa giá cả giống như mọi loại hàng hóa khác trên thị
trường.
Điều khác biệt duy nhất của lãi suất so với các loại giá cả khác là nó chính là
giá cả của một loại hàng hóa rất trừu tượng, đó là cái giá phải trả cho sự “trì
hoãn thanh toán“. Hiểu một cách cụ thể và chính xác hơn nó chính là chi phí
cơ hội do việc không có sẵn tiền mặt gây ra, chẳng hạn bất tiện khi cần thanh
toán mà không có tiền hoặc có nhu cầu sử dụng bây giờ nhưng không thể
thỏa mãn ngay lập tức... Như thế hiểu rõ và chính xác nhất lãi suất chính là:
“cái giá phải trả cho hy sinh tiêu dùng tương ứng với khoản tiền cho vay đi,
bản chất nó chính là chi phí cho việc nhận lại tiền muộn hơn và trì hoãn tiêu
dùng trước mắt“. Trong cuộc sống nó được hiểu là “giá của một khoản tiền
vay“.
2. Phân loại lãi suất :
Trên thị trường vốn ở các nước, thông thường có các loại lãi suất sau đây:
2.1. Lãi suất cơ bản: lãi suất do NHTƯ công bố làm cơ sở cho các ngân
hàng thương mại và các tổ chức ấn định lãi suất kinh doanh.
2

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế

Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
2.2. Lãi suất sàn và lãi suất trần: lãi suất thấp nhất và cao nhất trong một
khung lãi suất nào đó, mà NHTƯ ấn định cho các NHTM, hoặc do
các NHTM qui định trong hệ thống của nó, nhằm thống nhất các hoạt
động trong nền kinh tế quốc dân.
2.3. Lãi suất tái chiết khấu: lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTƯ dành cho
các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng thông qua nghiệp vụ
tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Lãi suất tái chiết khấu là lãi
suất của các NHTM để từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất
cho vay khác trong khung lãi suất được phép.
2.4. Lãi suất tái cấp vốn: lãi suất do NHTƯ áp dụng khi tái cấp vốn.
2.5. Lãi suất danh nghĩa: lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính
đến sự biến động của giá trị tiền tệ
2.6. Lãi suất thực: lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ,
như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ.
2.7. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng: là lãi suất mua bán vốn
giữa các NHTM do NHTƯ điều hành và ấn định.
3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế Việt Nam theo hướng CNH, HĐH:
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, vai trò của lãi
suất được nhìn nhận một cách hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều khi được hiểu
như là một sự phân phối cuối cùng của sản phẩm giữa những người sản xuất và
người cho vay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường lãi suất giữ vai trò hết sức quan trọng
là một trong những đòn bẩy kinh tế. Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của nền
kinh tế quốc dân nói chung vai trò của lãi suất được thể hiện ở nội dung sau đây:
3.1/Lãi suất là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư:

Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết
kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
3

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
Giả thiết, trong điều kiện của một nền kinh tế bình thường tỷ lệ giữa tiêu
dùng và tiết kiệm là hợp lý để tăng tỷ lệ tiết kiệm cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân thì biện pháp hiệu quả là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất vốn tăng
lên thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét các khoản chi cho tiêu dùng
thường xuyên có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi để tăng thêm khoản
tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau từ khoản tiết kiệm này họ sẽ hướng đầu tư gửi
vào Ngân hàng vào quỹ bảo hiểm hay đầu tư vào thị trường trứng khoán khi
thấy có lợi hơn .
Như vậy, lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia tỷ lệ giữa
tiêu dùng và tiết kiệm. Nhưng nâng lãi suất huy động đến mức nào thì phải cân
nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế quốc dân .
Ơ Việt nam, vấn đề là cần duy trì một mức lãi suất như thế nào để huy
động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã hội là một bài toán khó khăn và nan giải, bởi
tâm lý ưa dùng tiền mặt và tự cất trữ bằng những của cải có giá trị như vàng,
ngoại tệ.
3.2/. Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước
nhằm điều tiết lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hướng hoạt động sản xuất
kinh doanh của các đơn vị kinh tế

 Lãi suất phải trả cho khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do
vậy, lãi suất sẽ khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển
sản xuất kinh doanh. Ngược lại, lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đâu tư của
các doanh nghiệp .
 Lãi suất là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả những
ưu đãi về lãi suất về điều kiện cung cấp tín dụng và thanh toán là công cụ
của Nhà nước nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các
nghành các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược phát triển kinh tế.
4

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
3.3/ Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô:
Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay, vì vậy sự biến động của
lãi suất có tác động đến đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến các mục tiêu
của nền kinh tế vĩ mô biểu hiện trong các trường hợp :
 Lãi suất thấp sẽ kích thích đầu tư, kích thích tiêu dùng làm tăng tổng cầu,
sản lượng tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm dẫn tới nội tệ có xu hướng
giảm giá so với ngoại tệ.
 Lãi suất cao hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng làm giảm tổng cầu, sản
lượng giảm sẽ giảm giá, thất nghiệp tăng dẫn tới nội tệ có xu hướng tăng
giá so với ngoại tệ.
Như vậy, bằng cách tăng lãi suất Ngân hàng Nhà nước có thể làm giảm
khả năng cho vay của Ngân hàng Thương mại do đó thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt giảm bớt khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh
doanh và chi tiêu của người tiêu dùng .

Ngược lại, bằng cách hạ thấp lãi suất Ngân hàng Nhà nước có thể tạo
điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát
triển một nghành nghề nào đó, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi
suất cho vay để thu hẹp hoặc mở rộng đầu tư của các nghành nghề .
Từ năm 1989 đến nay, chính sách lãi suất luôn được sử dụng để điều
chỉnh kinh tế ở Việt Nam. Sau khi kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ
tương đối ổn định, Ngân hàng Nhà nước thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để
khuyến hích huy động đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh khôi phục kinh tế.
3.4/ Lãi suất là công cụ phân phối có hiệu quả nhằm khai thác và sử dụng triệt
để các nguồn lực của nền kinh tế. Lãi suất là công cụ đo lường trạng thái của
nền kinh tế:
Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có xu hướng tăng
do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn
hơn tốc độ tăng của cung quy cho vay.
5

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng
giảm xuống.
Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy
được tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế.
Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào
sự biến động đó của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của
nền kinh tế như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính mức
thiếu hụt của ngân sách người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự

báo tình thình kinh tế trong tương lai.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất và cơ chế điều hành lãi suất :
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhà nước đóng vai trò trung tâm hầu
hết các hoạt động kinh tế xã hội. Lãi suất trong nước đều do nhà nước qui định,
do vậy sự biến động lãi suất phần lớn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Chính
phủ, nên không thể dự đoán hay xác lập bất cứ quy luật vận động nào.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô,
thị trường tài chính, các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính trung gian rất
được khuyến khích phát triển. Nhà nước ta dần theo đuổi tài chính tự do hóa và
hình thành cơ chế lãi suất thị trường. Do vậy lãi suất dần biến động phụ thuộc
rất nhiều vào nhân tố kinh tế vĩ mô, và nhiều nhân tố khác. Sau đây là những
nhân tố cơ bản và quan trọng nhất.
4.1. Cung và cầu về tiền vay:
Lãi suất là giá cả của cho vay, vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung cầu
tiền vay hoặc cả cung cầu tiền vay không cùng một tỷ lệ đều ảnh hưởng đến
sự biến động lãi suất trên thị trường. Tuy mức biến động lãi suất ít nhiều
chịu ảnh hưởng từ các quy định của Chính phủ, Ngân hàng trung ương, song
ở đa số các nước phát triển đều dựa vào cung cầu để xác định lãi suất. Điều
đó cho thấy có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi
suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
quốc gia trong từng thời kỳ.
6

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
4.2. Thu - chi ngân sách:

Khi ngân sách nhà nước bội chi, chính phủ bù đắp bội chi bằng
cách phát hành và bán tín phiếu, trái phiếu chính phủ, làm tăng nhu cầu vay
tiền và tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công
chúng về gia tăng mức lạm phát và do vậy sẽ gây áp lực tăng lãi suất.
Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ tăng mức cung của quỹ cho vay làm cho
lãi suất giảm.
4.3. Lạm phát kỳ vọng:
Khi lạm phát cao thì người cho vay sẽ không muốn cho vay, cung tiền
vay giảm xuống trong khi cầu tiền vay tăng lên (do chi phí cho khoản vay
giảm đi) đẩy lãi suất tăng cao.
Từ những thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh
tế cho rằng : lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của
dời sống kinh tế, chính trị và xã hội của một quốc gia.Tác động đầu tiên của
lạm phát là tác động lên lãi suất. Để duy trì và ổn định hoạt động của mình,
hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì lãi suất thực ổn định.Với công
thức
Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi
suất danh nghĩa phải thực tăng lên cùng tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất
danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái
kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
4.4 Những thay đổi về thuế
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn tác động đến lãi
suất giống như thuế tác động đến giá cả hàng hóa.Nếu lượng thuế phải nộp
tăng lên có nghĩa là một phân fthu nhập bị điều tiết đi, thong thườn ai cũng
sẽ quan tâm tới thu nhập thực tế sau thuế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do
vậy để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định họ phải cộng them vào
7

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế

Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
lãi suất cho vay những thay đổi của thuế. Từ đó có thể rút ra điều quan trọng
từ mối quan hệ này là việc xác lập và điều chỉnh đối với chính sách thuế,
nhằm hạn chế những tác động ngoài ý muốn của mỗi thay đổi nói trên của
thuế.
4.5 Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Ngoài ra lãi suất còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố thuộc về đời
sống xã hội khác như sự phát triển của thị trường tài chính, các công cụ tài
chính phát triển phong phú đa dạng, những thay đổi trong cơ cấu chứng
khoán, sự xuất hiện chứng khoán mới cũng như sụ phát triển theo chiều rộng
và chiếu sâu của thị trường chúng khoán sơ cấp cũng làm thay đổi lãi suất
trên thị trường thứ cấp.Hiệu suất sử dụng vốn hay tỷ suất đầu tư cận biên
trong nền kinh tế trong các thời kỳ khác nhau do những thay đổi công nghệ
và sự phát triển mang itnhs chu kỳ của nề kinh tế cũng tác động đến sự thay
đổi lãi suất. Thên nữa tình hình kinh tế chính trị cũng như những biến động
tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới
cũng ít nhiều ảnh hưởng tới lãi suất của các nước khác nhau.
Lãi suất tín dụng chịu tác động của rất nhiều yếu tố cho nên để xây
dựng một chính sách lãi suất hợp lý, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng
có liên quan phải có một cách nhìn nhận tổng hợp sát thực để có những
quyết định đúng đắn đem lại lợi ích cho người đi vay cũng như đảm bảo
quyền lợi của người cho vay, bảo toàn đồng vốn và đảm bảo cho các NHTM,
tổ chức tín dụng kinh doanh có lãi và cao hơn nữa là ổn định giá trị đồng
tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
5. Chính sách lãi suất :
Chính sách của Nhà nước liên quan đến lãi suất gồm ba vấn đề lớn có

tính quan trọng sau đây:
(1) Chính sách tài khóa: Đây là một trong những yếu tố hình thành cung
cầu quỹ cho vay. Chính sách tài khóa thông qua thu – chi của ngân
8

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
sách nhà nước. Khi ngân sách nhà nước bội chi ( hoặc thiếu kiểm soát,
nới lỏng việc cấp tiền ...) làm tăng nhu cầu tiền và tác động đến tăng
lãi suất...
(2) Chính sách tiền tệ: như chúng ta đã biết để điều hành chính sách tiền
tệ, Ngân hành Trung ương thông qua các công cụ để điều tiết lượng
tiền cung ứng đối với nền kinh tế. Việc mở rộng hay thu hẹp lượng tiền
cung ứng tác động tức thời đến lãi suất thị trường. Khi Ngân hàng
Trung ương thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng thì cung tiền tăng, lãi
suất tín dụng sẽ có xu hướng giảm và ngược lại, khi Ngân hàng Trung
ương thực hiện thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm cung tiền
giảm, lãi suất tăng.
(3) Chính sách tỷ giá : Chính sách tỷ giá phù hợp sẽ tác động đến xuất
nhập khẩu và lãi suất. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng phụ thuộc nhiều
vào cơ cấu hàng xuất – nhập khẩu, vào cơ chế tỷ giá của mỗi quốc gia.
II/.Diễn biến lãi suất và một số vấn đề trong điều hành chính sách lãi suất
của NHNN ở Việt Nam 2008-2009 :
1/ Một số tồn tại trong xác định biến số lãi suất hiệu quả của thị trường.
(1) Tuy lãi suất huy động tăng cao, nhưng nguồn vốn huy động của các NHTM
không tăng lớn như kì vọng của các nhà hoạch định chính sách.

(2) Việc tăng lãi suất đồng nghĩa với việc các NHTM phải tăng cả chi phí đầu
vào và đầu ra.
(3) Việc hạn chế cho vay cộng với lãi suất cho vay quá cao làm ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động của các doanh nghiệp, đương nhiên sẽ hạn chế
tốc độ tăng trưởng kinh tế .
2/ Diễn biến lãi suất 2008-2009 ở Việt Nam và so với thế giới
Do hậu quả của chính sách tiền tệ nới lỏng và tăng trưởng nóng ở
nước ta trong 2006 – 2007, cuối năm 2007 lạm phát ở nước ta lại tăng lên
12,7%. Làn sóng tăng lãi suất trong huy động vốn được dấy lên và cuộc đua
9

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
lãi suất lắng xuống, dần ổn định khi Ngân hàng Nhà nước yêu cầu NHTM
không huy động tiền gửi tiết kiệm với lãi suất vượt quá 12%. Cũng trong
thời gian này, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng bắt đầu nóng lên, lãi
suất đặt thầu phổ biến ở mức 16 - 17%/năm với kì hạn 14 ngày, đến giữa
2/2008 đã lên đến 30%, có ngân hàng lên đến 40%. Tuy nhiên lãi suất cơ
bản của Ngân hàng Nhà nước với mức 8,75%/năm và lãi suất tái chiết khấu
cấp vốn với mức 7,5%, lãi suất chiết khấu với mức 6%/năm. Để kiềm chế
lạm phát Ngân hàng Nhà nước quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam là 12%/năm. Sau quyết định này lãi suất huy động tiết kiệm của các
NHTM điều chỉnh lên 16-17%/năm, lãi suất cho vay cũng điều chỉnh kịch
trần 18%/năm. Ngân hàng nhà nước tiếp tục điều chỉnh lãi suất cơ bản lên
14%/năm thì lãi suất huy động lại đẩy lên theo. Từ tháng 7/2008 trở đi thì
lãi suất trên thị trường có xu hướng ổn định, một số ngân hàng hạ cả lãi suất

huy động và cho vay, khởi đầu là BIDV, sau đó là VCB, AGRIBANK,
Vietinbank và một số NHTM cổ phần lớn.
Nhìn lại các chính sách tiền tệ trước đây, chúng ta đã nâng lãi suất cơ bản
lên mức khá cao, tới 14% và sau đó phải liên tục giảm. Đến tháng 4/2009, lãi
suất cơ bản chỉ còn 7%, lãi suất tái chiết khấu ở mức 5%. Các mức lãi suất này
được duy trì trong thời gian tương đối dài cho đến 1.1.2010
Ngày áp dụng
1/10/2009
1/2/2009
22/12/2008
5/12/2008
21/11/2008
5/11/2008
21/10/2008
11/6/2008
19/05/2008
1/2/2008

Lãi suất chiết
khấu
5,0%
6,0%
7,5%
9%
10%
11%
12%
13,0%
11%
6%


Lãi suất tái cấp vốn

Lãi suất cơ bản

7,0%
8,0%
9,5%
11%
12%
13%
14%
15,0%
13,0%
0.08

7,0%
7,0%
8,5%
10%
11%
12%
13.0%
14%
12%
8.75%
10

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.

Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.

L· i suÊt

16.00

15.00
14.00 14.00
13.00 13.00 13.00 13.00
12.00
12.00 12.00
12.00
11.00 11.00 11.00
11.00
10.00
10.00 10.00
9.50
9.00
9.00
8.50
8.00
8.00
8.00 8.00 8.00
7.50
7.00 7.00
6.50
6.00

6.00
6.00
6.00
5.50
5.00
5.00
4.50
4.00
4.00
Lãi su?t c ơ b?n
Lãi su?t tái c?p v?n
Lãi su?t
3.50chi?t kh?u
3.00
14.00

1/
10
/20
09
1/
2/2
00
9
22
/1
2/2
00
8
5/

12
/20
08
21
/1
1/
20
08
5/
11
/2
00
8
21
/1
0/2
00
8
11
/6
/20
08
19
/0
5/
20
08
1/
2/2
00

8
1/
12
/2
00
5
1/
4/2
00
5
15
/0
1/
20
05
1/
8/2
00
3

2.00

Từ ngày 1.1.2010, tiếp tục áp dụng mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt
Nam là 8%/năm. Các mức lãi suất khác cũng được giữ như tháng trước, cụ thể:
lãi suất tái cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 8%/năm; lãi suất
tái chiết khấu của NHNN đối với tổ chức tín dụng là 6%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng là 8%/năm.
So với thế giới, lãi suất cơ bản của Mỹ đã được đưa về mức 0% - 0,25% vào
tháng 12/2008. Trước đó, con số này được duy trì tại mốc 5,25% kể từ tháng

9/2007.
5/3/2009 Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đã cắt giảm tỉ lệ lãi suất xuống
còn 1,5% từ 2% - mức thấp nhất kể từ tháng 1/1999. Động thái này diễn ra sau
quyết định cắt giảm lãi suất của hàng loạt ngân hàng Anh, Mỹ và Nhật. Mọi chú
11

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
ý giờ đây tập trung vào việc ECB có thể làm những gì để thúc đẩy kinh tế.
Quyết định của ECB là lần cắt giảm lãi suất lần thứ năm kể từ 10/2008 ở mức
4,25%.
Ngân hàng Anh Quốc, một trong những ngân hàng trung ương lâu đời nhất của
thế giới, vừa công bố vào cuối tháng 11/2009 việc giảm thêm 50 điểm trong lãi
suất cơ bản (base rate), đưa mức lãi suất cơ bản của ngân hàng này xuống mức
thấp nhất (1,5%/năm) trong lịch sử hoạt động 315 năm của nó. Ngân hàng Nhật
Bản, cũng phải đang áp dụng mức lãi suất cơ bản 0,1% từ tháng 12/2009.
3/ Nhận xét chính sách điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam thời kỳ
2008 -2009:
3.1 Thành tựu đạt được:
Trước những xáo trộn của thị trường tiền tệ, một loạt các chính sách lãi suất
của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã và đang đem lại những kết quả
tích cực, góp phần ổn định nền kinh tế.
Đầu năm 2008, trong một loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng
Nhà nước đã đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự
trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng
tổng phương tiện thanh toán và tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục

tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định, Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các
loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số
346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền
đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300
tỉ đồng.
Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo
công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đến
ngày 17/05/2008, Ngân hàng Nhà nước thông báo những điều chỉnh trong chính
12

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ
chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay)
bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐNHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận
trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng hết hiệu lực thi hành.
Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về
cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công
điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực. Qua đó, đã
ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán
của các Ngân hàng thương mại trong những tháng cuối năm 2008; an toàn hệ

thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh
nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng
cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các Ngân hàng thương
mại. Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và
hoạt động của các Ngân hàng thương mại đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho
thị trường tiền tệ và lãi suất trong năm 2009 tương đối ổn định.
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất
huy động và cho vay của các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu
vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của Ngân
hàng Nhà nước, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng. Năm 2008 và
những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng
phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động
thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính
13

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và
đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng trên thị trường tài chính, tiền tệ,
được các tổ chức, các nhân trong và ngoài nước quan tâm, theo dõi, dự báo và
có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và tiêu
dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác
động tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết
kinh tế vĩ mô.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân
hàng Nhà nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải
pháp thích hợp, phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị
trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường theo hướng ổn định, được thực hiện kết
hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công cụ gián tiếp, điều hành
linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông. Sự thay đổi
cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một
cách khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở
trong và ngoài nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để
đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính.
3.2 Thực trạng tồn tại, những vấn đề phát sinh trong điều hành chính sách
lãi suất giai đoạn 2008 – 2009 :
(1) Gói kích cầu thứ nhất:
Có thể nói tác động mạnh nhất của gói kích cầu 1 tập trung ở gói cho vay
hỗ trợ lãi suất 4%. Tuy nhiên, xét về thực chất, đây là gói “giải cứu” chứ không
phải là gói kích cầu. Gói này đã giải thoát nhiều doanh nghiệp khỏi tình trạng
“ách tắc” lưu thông vốn do gánh nặng nợ xấu (nợ không trả được do lãi suất vay
quá cao năm 2008). Kích hoạt nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp và ngân hàng
thoát khỏi “điểm chết”, gói kích cầu này đã hoàn thành sứ mệnh “giải cứu” nền
kinh tế.
(2) Khung cơ chế lãi suất.
14

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
Cơ chế cho vay với lãi suất thấp trong thời gian qua là nguyên nhân gia

tăng gánh nặng NSNN hàng năm cho cấp bù CLLS và phí hoạt động cho cơ
quan cho vay, làm thâm hụt tài chính và là một trong những nguyên nhân gây
nên tình trạng chiếm dụng vốn nhà nước, phát sinh nợ quá hạn; đồng thời không
tạo động lực để cơ quan cho vay nâng cao năng lực thẩm định và quản trị rủi ro
tín dụng. Một cơ chế tài chính như vậy sẽ hạn chế khả năng độc lập của cơ quan
cho vay và làm sai lệch các quy luật vận hành trên thị trường tài chính.
(3) Gánh nặng cấp bù đối với NSNN.
Việc duy trì lãi suất cho vay quá thấp trong một thời gian dài đã và đang là
nguyên nhân chính dẫn tới gia tăng cấp bù chênh lệch lãi suất (CLLS), là gánh
nặng đối với NSNN.
Thông thường hoạt động tín dụng của ngân hàng hòa vốn hay có lãi khi cho vay
với lãi suất trung bình > lãi suất huy động vốn ít nhất 2%. Tuy nhiên, ở nước ta
thì trường hợp hoa vốn với độ chênh lệch 2% là rất hiếm.
Với giả định là cơ quan cho vay có nguồn vốn huy động toàn bộ từ TPCP thì với
lãi suất cho vay theo quy định với nguyên tắc bằng lãi suất TPCP kỳ hạn 5 năm
+ 0,5%, NSNN vẫn phải bù ít nhất 1,5%. Đó là lý thuyết còn trong thực tế
NSNN phải bù lớn hơn nhiều lần do phải huy động từ các nguồn khác với lãi
suất cao hơn lãi suất huy động từ phát hành TPCP. Nước ta, từ năm 2008 trở đi
lãi suất không kịp điều chỉnh kịp thời nên số cấp bù tăng cao.
Lãi suất cho vay là vấn đề then chốt trong vấn đề cấp bù CLLS. Chính nó đã và
đang làm trầm trọng thêm gánh nặng trên đôi vai NSNN.
(4) Tương quan lãi suất nội tệ và ngoại tệ .
Năm 2008, cơn lốc giảm lãi suất (LS) đã xuất hiện từ Mỹ qua châu Âu và
châu Á sau khi gói 700 tỉ USD để cứu thị trường tài chính Mỹ không đủ vực dậy
và ổn định tâm lý của nhà đầu tư. Một số nước sẽ giảm thêm LS để người vay
tiếp cận vốn ngân hàng (NH), đưa kinh tế tránh rơi vào suy thoái. Trong khi đó,
các NH trong nước vẫn loay hoay tìm cách giảm LS. Ngày 9-10, các NH ở phía
15

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế

Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
Nam họp nhưng không thống nhất được việc bỏ kỳ hạn huy động tuần và giảm
LS của các kỳ hạn ngắn. Các NH có lý do để không đồng thuận. Nhưng thực tế
đang đòi hỏi phải giảm LS. Bài toán chi phí vốn không còn là chuyện riêng của
NH mà liên quan đến sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cả thế giới giảm LS cho
doanh nghiệp, còn VN vẫn cao ngất ngưởng sẽ là rào cản cho hàng xuất khẩu
của VN.
Lúc này, việc NH Nhà nước duy trì LS cơ bản ở mức 14%/năm đã giúp các NH
có thể ung dung ngồi tính toán LS. Tuy nhiên, nếu LS cho vay cứ bị treo mãi,
NH Nhà nước phải “hành động”. Nếu LS cơ bản giảm còn 12-13%/năm, trần LS
cho vay bị ép xuống còn 18-19,5%/năm sẽ giúp doanh nghiệp giảm đáng kể chi
phí vay vốn.
Ngân hàng Anh Quốc công bố vào cuối tháng 11/2009 việc giảm thêm 50
điểm trong lãi suất cơ bản (base rate), đưa mức lãi suất cơ bản của ngân hàng
này xuống mức thấp nhất (1,5%/năm) trong lịch sử hoạt động 315 năm của nó.
Ngân hàng Nhật Bản, cũng đang áp dụng mức lãi suất cơ bản 0,1% từ tháng
12/2009. Trong quá khứ, ngân hàng này đã từng áp dụng mức lãi suất cơ bản
0%. Hiện nay mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước là 8%, theo quy
định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại được cho
vay với lãi suất là 12% và cũng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các
ngân hàng thương mại được áp dụng mức lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất
trong hạn, tức là 18%.
III/.Giải pháp tạo lập thị trường tài chính với biến số lãi suất hiệu quả :
1/ Các quan điểm hiện nay về chính sách điều hành lãi suất:
Gần đây đã và đang xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau xoay
quanh việc NHNN bỏ “trần” lãi suất vì cứng nhắc lâu nay (vẫn còn 3 loại trần

lãi suất). Trên cơ sở lãi suất tái cấp vốn hiện hành sẽ cộng thêm một biên độ
ước định để hình thành lãi suất cơ bản hoặc dựa vào lãi suất cho vay ngắn hạn
phổ biến cộng thêm một biên độ ước định để hình thành lãi suất cơ bản.
16

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.

Nhìn chung, cách lập luận cho quan điểm này mới dừng ở định
tính, còn bỏ ngỏ nhiều khía cạnh khoa học và pháp lý liên quan đến việc cải tiến
chính sách lãi suất hiện nay.
Một là: Cần định dạng đúng đắn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản
+ Lãi suất tái cấp vốn, chủ yếu hướng tới 3 mục đích:
(1) NHTƯ cho vay lại với tư cách người cho vay cuối cùng đối với nền kinh
tếcăn cứ vào những khoản tín dụng đã cấp của NHTM (cho vay lưu phiếu, thế
chấp khế ước tín dụng, chứng từ liên quan).
(2) NHTƯ tái chiết khấu các thương phiếu dược NHTM cho vay
(3) NHTƯ sử dụng nguồn vốn dự trữ (DTBB, nguồn dự trữ khác) cho vay
hỗ trợ knả năng thanh toán tạm thời của các NHTM (thông qua cầm cố, thế chấp
các chứng từ có giá khác nhau).
Lâu nay, ta dùng khái niệm tái cấp vốn (refinancing) là gọi chung cho các nội
dung trên. Khi tăng tỷ trọng cấp tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu - còn gọi
là cửa sổ tái chiết khấu (resdiscount window) - thì mới có nghiệp vụ tái chiết
khấu, nói khác đi khái niệm tái chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn.
+ Lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu thường được ấn định
chủ quan bởi NHTƯ. Tuy nhiên, mức độ chủ quan sẽ giảm khi các nghiệp vụ

tái chiết khấu có cơ sở hơn, có hàng hoá đủ tiêu chuẩn hơn cho việc cấp tín
dụng dưới hình thức tái chiết khấu thay vì tái cấp vốn theo kiểu giản đơn như
cách làm của Việt Nam lâu nay. Khi thị trường tiền tệ đã khá phát triển, các
nghiệp vụ mua bán vốn theo hợp đồng giao ngay, hợp đồng kỳ hạn - ngắn hạn...
giữa các lực lượng thị trường trở nên phổ biến, theo đó lãi suất giao dịch liên
ngân hàng (interbank interest rate), lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá (lãi suất
Lombardy), hay lãi suất mua bán hợp đồng xoay vòng kỳ hạn (lãi suất Repo)
được hình thành ... Đó là điều kiện thị trường hết sức quan trọng để NHTƯ điều
hành đúng đắn lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu.
17

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.

Trong ngắn hạn, do chưa đủ diều kiện về công cụ giao dịch như đã
nêu, việc hình thành lãi suất tái cấp vốn chủ yếu dựa vào lãi suất “trần” theo sự
ấn định chủ quan của NHTƯ như lâu nay. Như vậy, cần khẳng định mặc dầu lãi
suất tái cấp vốn đang đóng vai trò nhất định, nhưng chưa đủ độ để có thể dựa
vào đó hình thành lãi suất cơ bản. Đây mới chỉ là dấu mốc còn khá mờ nhạt để
tiến tới lãi suất tái chiết khấu trong tương lai.
+ Lãi suất cơ bản hướng vào hai mục đích:
(i) làm tiêu chuẩn hình thành lãi suất kinh doanh của các NHTM.
(ii) làm công cụ để NHTƯ can thiệp vào thị trường tiền tệ một cách
uyển chuyển hơn là khống chế bởi lãi suất “trần”, dù ở mức nào vẫn mang tính
cứng nhắc.
NHTM nào huy động vốn với lãi suất thấp hơn và cho vay tối thiểu

bằng mức lãi suất cơ bản ít nhất là hoà vốn. Còn huy động với lãi suát cao hơn
là bắt đầu khó khăn. Sự can thiệp của NHTƯ thông qua lãi suất cơ bản trở nên
đơn giản ở chỗ không cần khống chế trần (cứng nhắc dễ bị phản ứng) và
khách quan hơn, tạo sự tin cậy đối với các NHTM. Vấn đề là xác định đúng và
ấn định cho linh hoạt. Xét trên nhiều mặt, thực chất lãi suất cơ bản đã là một
bước thả nổi lãi suất.
+ Lãi suất cơ bản có cơ sở xác định tương đối giống lãi suất trần sàn,
nghĩa là cũng chủ yếu dựa vào quan hệ cung cầu vốn phổ biến, được
phản ánh bởi các lực lượng thị trường chiếm thị phần chủ yếu (hiện nay
vẫn là các NHTM quốc doanh). Thế nhưng về mặt tính toán có khác: lãi suất
trần, sàn thường lấy con số tham chiếu “ chặn trên”, “chặn dưới” còn lãi suất cơ
bản thì bình quân hoá gia quyền các tham số chọn mẫu, nên thường chuẩn xác
khách quan hơn. Lãi suất cơ bản được xác định như vậy khiến khoảng cách bất
bình đẳng về cạnh tranh lãi suất giưã các NHTM mạnh, yếu khác nhau
được giảm thiểu. Tất nhiên, việc tính toán chính xác lãi suất cơ bản phức tạp
18

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
nơn lãi suất trần. Bởi vậy, khi mới áp dụng thường chưa đủ căn cứ để ấn định
chính xác phải sử dụng một biên độ nhỏ để điều chỉnh. Cách xác định biên độ
cũng không tuỳ tiện được mà phải căc cứ vào dung sai giữa các mức lãi suất
khác nhau và lãi suất trung bình chọn mẫu.
Hai là: Cần làm rõ ưu nhược điểm của lãi suất tái cấp vốn, cũng như bản
thân trần lãi suất hiện nay làm căn cứ cho việc cải tiến lãi suất. Qua mấy lần
NHNN kịp thời điều chỉnh trần, lãi suất đă bớt cứng nhắc gần với quan hệ cung

cầu hơn (từ nhiều trần xuống còn 3 loại trần, đồng thời mức lãi suất giảm đáng
kể so với động thái giảm phát). Tuy nhiên, tình hình mâu thuẫn hiện nay là ở
chỗ: áp lực giảm tiếp lãi suất vẫn đặt ra trong lúc bản thân việc hạ “trần“ lãi
suất đã ở vào giới hạn khá thấp đang gây khó khăn cho các NHTM trong việc
chủ động linh họat hoá các mức lãi suất thực tế cho vay và khắc phục
nguy cơ thua lỗ, thiếu khả năng tài chính do chênh lệch giữa lãi suất huy động
và cho vay cũng bị thu hẹp lớn. Như vậy, khi việc điều hành theo lãi suất “trần“
còn nhiều tồn tại thì bản thân cách ấn định lãi suất tái cấp vốn cũng
thiếu cơ sở khách quan, không thể lấy lãi suất tái cấp vốn hiện nay làm cơ sở
tính toán lãi suất cơ bản. Mặt khác, lãi suất “trần” hiện nay còn bất cập, thì
trước mắt nên chăng là kế thừa hoàn thiện nó hơn là bỏ hẳn để thay bằng lãi
suất cơ bản trong lúc chưa đủ điều kiện.
Ba là: Cần có sự phân biệt thứ bậc thấp cao, đơn giản và phức tạp giữa hai
loại lãi suất; lãi suất cơ bản là bước đệm tiến tới và được thay thế bởi lãi suất tái
chiết khấu sau này hay ngược lại cùng tồn tại lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái
chiết khấu và lãi suất cơ bản? Về lâu dài, hình thành lãi suất cơ bản là tạo lộ
trình thuận lợi cho hoàn thiện chính sách lãi suất theo hướng từng bước thả
nổi. Bản thân lãi suất cơ bản cũng được coi là một bước thả nổi vì nó tiến
bộ hơn lãi suất “trần” với cách ấn định hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung
cầu, lấy cơ sở tính toán là các mức lãi suất thực. Tuy nhiên, bỏ lãi suất “trần” để
chuyển sang lãi suất cơ bản cũng phải có những bước chuyển nhỏ, không thể
19

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
máy móc gây sốc.Khó có thể thiết lập để có ngay lãi suất cơ bản khi chưa có đủ

điều kiện, mà vấn đề là NHNN phải qui định lãi suất như thế nào để các TCTD
dễ dàng ấn định lãi suất kinh doanh. Nên loại lãi suất nào mà NHTƯ đưa ra
đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cũng đã là mang dáng dấp hay tính chất
như lãi suất cơ bản. Ơ đây có thể nhấn mạnh là hoàn thiện lãi suất “trần” hiện
nay và nâng cấp lãi suất tái cấp vốn theo sát hơn lãi suất thị trường và tạo điều
kiện cho nó được sử dụng thường xuyên hơn phục vụ cho việc điều hành chính
sách tiền tệ của NHNN mới là thiết thực.
2/ Giải pháp trong việc đổi mới chính sách lãi suất ở Việt Nam.
2.1 Tiến tới tự do hoá lãi suất.
Tự do hóa lãi suất là một bộ phận quan trọng của tự do hóa tài chính, thực
chất của tự do hóa lãi suất chính là cơ chế điều hành lãi suất hoàn toàn để cho
cung cầu vốn trên thị trường xác định lãi suất cân bằng. Tự do hóa lãi suất là
việc trao cho thị trường vốn toàn bộ việc xác định lãi suất cân bằng, ngân hàng
trung ương chỉ sử dụng các công cụ can thiệp một cách gián tiếp để điều chỉnh
cho phù hợp chiến lược và mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ phát triển của nền
kinh tế.
Tự do hóa lãi suất nói riêng và tự do hóa tài chính nói chung có ý nghĩa
quan trọng đối với các quốc gia trong giai đoạn phát triển và chuẩn bị hội nhập
vào nền kinh tế thế giới trên phương diện vĩ mô lẫn vi mô. Xét ở phương diện vĩ
mô của nền kinh tế, trong quá trình phát triển nền kinh tế và hội nhập, VN đã có
những thành công bứơc đầu trong việc hội nhập với nền kinh tế thế giới sau
nhiều năm bị gián đoạn. Hiện nay, chúng ta đã có mối quan hệ với IMF, WB,
ADB, .v.v và là thành viên của ASEAN từ năm 1997, gia nhập AFTA và WTO,
bước đầu hòa nhập như vậy chúng ta đã có những thành công lớn, kế tiếp là
chúng ta đã chuyển đổi một số hoạt động cho phù hợp với thông lệ quốc tế,
trong đó có lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Như vậy tự do hóa lãi suất, chuyển dần sang thực hiện các công cụ gián
20

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế

Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
tiếp điều hành chính sách lãi suất, giảm sự can thiệp và điều hành bằng các công
cụ hành chính trực tiếp, từ đó sẽ trả lãi suất đúng vai trò là đòn bẩy kích thích
nền kinh tế phát triển, nhằm kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Về phương diện vi mô của nền kinh tế, tự do hóa lãi suất sẽ thúc đầy cạnh
tranh giữa các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nước và các chi
nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại VN, giúp các ngân hàng trong nước
có điều kiện phát triển, đa dạng hóa nghiệp vụ, tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn.
Đối với các khách hàng của ngân hàng thương mại đó là các doanh nghiệp, các
tầng lớp dân cư sẽ chủ động hơn trong việc tiếp cận nguồn vốn phù hợp với đặc
điểm hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời được quyền lựa chọn các ngân
hàng thương mại, các tổ chức tín dụng để giao dịch, hoạt động.
Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất,
chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới.
2.2 Quy định tỷ lệ lãi suất hợp lý :
Cần làm rõ ưu nhược điểm của lãi suất tái cấp vốn, cũng như bản thân trần lãi
suất hiện nay, làm căn cứ cho việc cải tiến lãi suất. Hoàn thiện lãi suất “trần”
hiện nay và nâng cấp lãi suất tái cấp vốn theo sát hơn lãi suất thị trường.
2.3 Sự kết hợp đồng bộ giữa chính sách tài khóa,chính sách tiền tệ và
chính sách tỷ giá:
Vì ở Việt Nam ,còn tiềm ẩn lạm phát, và nhiệm vụ trước mắt là ngăn chặn
đà suy giảm kinh tế, do vậy các giải pháp nới lỏng cần có bước đi thận trọng,
trong bối cảnh như hiện nay chính sách tài khoá sẽ phát huy tác dụng kích cầu
cho tăng trưởng kinh tế hơn là tăng quá biện pháp nới lỏng CSTT. Việc quá nới
lỏng CSTT sẽ gây khó khăn cho hoạt động của các NHTM, và giảm hiệu quả
điều hành CSTT.

2.4 Hoàn thiện chính sách lãi suất hiện nay với vai trò của NHNN:
Xuất phát từ các phân tích và khung lý luận về cơ chế lãi xuất, cần sớm
hoàn thiện chính sách lãi suất hiện nay.
21

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.

Một là, cần tăng lãi suất cho vay và xây dựng khung pháp lý phù hợp. Lãi
suất hiện nay không còn phù hợp cần điều chỉnh tăng phù hợp với tình hình thị
trường và chủ trương thắt chặt tín dụng của Nhà nước. Chính phủ chỉ cần quy
định khung lãi xuất trần – sàn cho hoạt động tín dụng mà vẫn đảm bảo sự quản
lý và phạm vi điều hành mang tính định hướng. Khung lãi suất có thể căn cứ vào
lãi suất TPCP để xác định vì nó phù hợp với đặc thù nguồn vốn và kì hạn cho
vay tập trung vào đầu tư dài hạn, quy mô vốn lớn.
Hai là, cần tăng tính chủ động của cơ quan cho vay (NHPTVN), cho phép
cơ quan này được quyền quyết định lãi suất cho vay trong khung lãi suất do Bộ
tài chính quy định. Việc quyết định cho vay và các điều kiện tín dụng sẽ phải
thực hiện theo thông lệ, được dựa trên sự đánh giá về mức rủi ro của dự án đầu
tư, độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn và khả năng vay vốn của ngân hàng.
Ba là, cần áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, không áp đặt cố định lãi xuất
cho vay tử khi kí HĐTD cho mọi khoản rút vốn. Theo đó, lãi suất có thể được
xác định theo phương pháp thả nổi hoặc cố định dựa theo từng dự án và sự thỏa
thuận với khách hàng.
Bốn là, cần bãi bỏ quy định số lần tối đa công bố lãi suất là 2 lần / năm, nó
không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.

Năm là, cùng với việc điều chỉnh chính sách lãi suất theo hướng ưu đãi phù
hợp, cần đảm bảo các sự ưu đãi khác thông qua các điều kiện tín dụng như mức
vốn cho vay, thời gian vay vốn, đảm bảo tiền vay, thời gian ân hạn…
Sáu là, cần hoàn thiện khung pháp lý, tạo cơ sở chính sách ổn định, tạo tiền
đề hướng tới lãi suất thị trường thực sự.
Những biện pháp gần đây được cho là đúng hướng, nhưng cũng chính vì
vậy, cần tiếp tục hoàn thiện nó để thực hiện được tốt hơn các mục tiêu nhằm
kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và xuất khẩu trong phát triển kinh tế
đất nước; trong đó có sự khuyến khích đầu tư vào những ngành/lĩnh vực trọng
điểm, những vùng /miền kinh tế khó khăn và đặc biệt khó khăn, góp phần phát
22

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
triển kinh tế đất nước theo định hướng CNH – HĐH trong giai đoạn hội nhập.
3/ Định hướng 2010
Ngày 25.12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã ban
hành Quyết định số 3180/QĐ-NHNN về việc tiếp tục áp dụng mức lãi suất cơ
bản bằng đồng Việt Nam là 8%/năm.
Các mức lãi suất khác cũng được giữ như tháng trước, cụ thể: lãi suất tái
cấp vốn của NHNN đối với các tổ chức tín dụng là 8%/năm; lãi suất tái chiết
khấu của NHNN đối với tổ chức tín dụng là 6%/năm; lãi suất cho vay qua đêm
trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh
toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng là 8%/năm.
Quyết định này có hiệu lực thi hành từ ngày 1.1.2010 và thay thế Quyết
định số 2665/QĐ-NHNN ngày 25.11.2009 của Thống đốc NHNN Việt Nam về

mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam.
Trong định hướng năm 2010, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng dự
kiến sẽ ở khoảng 25%, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% của năm nay.
Với mục tiêu năm 2010 tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%, bảo đảm an sinh xã
hội, đòi hỏi chính sách tiền tệ phải linh hoạt theo tín hiệu thị trường. Theo đó,
NH Nhà nước (NN) kiên trì thuyết phục Quốc hội bãi bỏ cơ chế lãi suất cơ bản.

23

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
C/ KẾT LUẬN
Lãi suất là công cụ tiền tệ của nền kinh tế thị trường nó có độ nhay cảm
cao. Việc sử dụng lãi suất trong quá trình xây dựng và điều hành chính sách lãi
suất được coi là vấn đề bức xúc hiện nay đòi hỏi phải có định hướng thích hợp
nhất tuỳ thuộc vào những đặc thù và những điều kiện thực tiễn nước ta nhằm
mục tiêu tăng trưởng phát triển kinh tế phát huy vai trò đòn bẩy của lãi suất, góp
phần tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư và thương mại hoá theo hướng tự do
bình đẳng giữa các Ngân hàng thương mại. Từng bước tiến tới một hệ thống tài
chính tiền tệ và Ngân hàng hoàn chỉnh, vững chắc bảo đảm thực hiện thành công
chính sách tiền tệ ở tầm vĩ mô.
Một chính sách lãi suất hợp lý là một chính sách lãi suất vừa có tác dụng
thu hút vốn nhàn rỗi trong dân cư vừa có thể khuyến khich nhà sản xuất sử dụng
vốn vay đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh đảm bảo quyền lợi cho ngươi vay
vốn người gửi tiền và Ngân hàng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tiến tới
công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như mục tiêu của đảng và

Nhà nước đã đề ra.
Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào
sự biến động đó của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của
nền kinh tế như tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính mức
thiếu hụt của ngân sách, người ta có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự
báo tình thình kinh tế trong tương lai.
Diễn biến lãi suất ở Việt Nam đang dần bình ổn, hướng tới lãi suất thực
dương, và phản ánh dần chính xác quan hệ cung cầu trên thị trường. Mặc dù
năm 2009 kinh tế toàn cầu còn trong tình trạng suy giảm nhưng kinh tế Việt
Nam đã có tín hiệu tốt. GDP tăng trưởng 5,2%, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng
6,52%, kim ngạch xuất khẩu đạt 56 tỉ USD..., đặc biệt hệ thống ngân hàng (NH)
24

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.
Lớp : TCDN48C.


Đề tài :“Điều hành chính sách lãi suất ở Việt Nam 2008 – 2009“.
vẫn hoạt động an toàn. Tuy vậy, năm 2010, kinh tế thế giới ẩn chứa nhiều biến
cố khó lường, đòi hỏi chính sách tiền tệ của VN cần linh hoạt và phù hợp với
diễn biến thị trường, tõng bíc tiÕn tíi mét hÖ thèng tµi chÝnh tiÒn tÖ
vµ Ng©n hµng hoµn chØnh, v÷ng ch¾c; để nền kinh tế phục hồi
nhanh chóng sau khủng hoảng, đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH theo mục tiêu và
nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

25

GVHD:PGS.TS Hoàng Xuân Quế
Sinh viên : Bùi Lan Hương.

Lớp : TCDN48C.


×