Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

LÊ ĐỨC HIỀN

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
LÊ ĐỨC HIỀN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN



Tôi cam đoan luận văn này do chính tác giả nghiên cứu và
thực hiện. Các kết quả nghiên cứu chưa được công bố toàn bộ nội
dung này bất kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận
văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Tác giả

Lê Đức Hiền


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin trân trọng gửi đến TS. Đoàn Trung Kiên, người đã
hướng dẫn tận tình và giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn lời cảm ơn chân thành nhất.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng đã nhận được sự giúp đỡ
hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, các cơ quan, các bạn
bè, đồng nghiệp và gia đình.
Và cuối cùng, tác giả cũng bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng
nghiệp đã hết lòng giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập tài liệu, chia sẻ kinh
nghiệm, cám ơn sự quan tâm của gia đình, bạn bè và người thân đã động viên giúp
đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày ….. tháng…..năm 2017
Tác giả

Lê Đức Hiền


MỤC LỤC

Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA
NƯỚC NGOÀI

5

1.1. Bản chất pháp lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

5

1.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với một số hoạt động đầu tư khá

7

1.2.1. Phân biệt đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài với đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

7

1.2.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài
1.3. Vai trò của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

8
10


1.3.1. Đối với nước đầu tư ra nước ngoài

10

1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư

11

1.3.3. Đối với nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

12

1.4. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài

13

1.5. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên thế giới

15

1.5.1. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Thái Lan

15

1.5.2. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc

16


1.5.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc

18

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

21

2.1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

21

2.1.1. Giai đoạn trước năm 2005

21

2.1.2. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2014

23

2.1.3. Giai đoạn từ năm 2014 đến nay

24

2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài ở Việt Nam

25



2.2.1. Quy định về chủ thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

25

2.2.2. Quy định về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

27

2.2.3. Quy định về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

28

2.2.4. Quy định về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

30

2.2.5. Quy định về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

32

2.2.6. Quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi tiến hành
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
2.2.7. Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài

40
42

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC

TIẾP RA NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

45

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

45

3.1.1. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện pháp luật về
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

45

3.1.2. Những hạn chế, khó khăn cần khắc phục trong hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

50

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam

53

3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ở Việt Nam

53

3.2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam


57

KẾT LUẬN

63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay các quốc gia trên thế giới đang tham gia vào quá trình toàn cầu
hóa một cách sâu rộng, quá trình này giúp tất cả các quốc gia ngày càng có mối
quan hệ mật thiết với nhau về kinh tế, chính trị, xã hội. Các quốc gia phát triển
và các quốc gia đang phát triển đều phải nắm bắt được quy luật này để tìm ra cho
mình một đối sách phù hợp cho sự phát triển của nền kinh tế qua đó khẳng
định được vị thế của mình trên trường quốc tế. Trong xu thế của tự do hóa và
toàn cầu hóa kinh tế đó thì dòng vốn đầu tư gồm cả đầu tư trực tiếp và gián
tiếp đều rất quan trọng và đang vận động dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (đầu tư trực tiếp ra nước ngoài) giúp các doanh
nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ được rủi ro, nâng cao
được hiệu quả sản xuất kinh doanh, tận dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên,
nguyên nhiên liệu tại chỗ, tiết kiệm chi phí vận chuyển, tránh các hàng rào
thuế quan và phi thuế quan, tăng cường được khoa học kĩ thuật ...điều thật sự
quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xu hướng đầu tư này chính là việc tận
dụng được sức mạnh ưu thế riêng có của quốc gia mình từ đó tạo được bản
sắc riêng khẳng định vị thế vững chắc của mình tại các quốc gia nhận đầu tư.

Mặt khác chính sự lớn mạnh không ngừng của kết cấu nền kinh tế và quy mô
các doanh nghiệp cùng sự thông thoáng trong các quan hệ hợp tác liên doanh
nên đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trở thành một thực tế khách quan. Nhận
thức được tầm quan trọng đó thời gian qua nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động này.
Với mong muốn tìm hiểu về hoạt động này đồng thời đóng góp một số ý
kiến nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài để hoạt động này có thêm những điều kiện thuận lợi

1


tiếp tục phát huy vai trò của mình trong việc đưa nền kinh tế Việt Nam đi lên
nên tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở
Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học
luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu pháp luật trong lĩnh vực đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài ở các cấp độ khác nhau, chẳng hạn như một số khóa
luận tốt nghiệp đại học hoặc cao học: “Tìm hiểu các quy định của Luật Đầu tư
(2005) về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài” - Hoàng Nguyên Thắng - Khoá luận
tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội - 2012; “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - Đỗ
Thị Phương - Luận văn thạc sĩ luật học - 2013; “Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài ở Việt Nam - Lý luận, thực trạng và giải pháp” - Vũ Thị Thu Hương
- Khoá luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội - 2010; “Pháp luật về đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” - Trương
Quang Anh - Khoá luận tốt nghiệp Đại học Luật Hà Nội - 2012;… Hay có thể kể
đến các công trình nghiên cứu được công bố trên một số tạp chí khoa học như:
“Thu hút FDI và đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam hiện nay” của tác

giả Nguyên Minh Phong trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 1 năm 2017; “Chính
sách đầu tư ra nước ngoài của Trung Quốc và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam” của tác giả Đỗ Huy Thưởng trên Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà
Nội, Kinh tế và Kinh doanh, tập 31, số 4 năm 2015; “Đầu tư trực tiếp nước
ngoài - những thành tựu và vấn đề đặt ra” của tác giả Ngô Hồng Nhung trên
Tạp chí Lý luận chính trị, số 11 năm 2016…
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trước đây đều là các nghiên cứu
về pháp luật đầu tư trực tiếp ra nước ngoài theo quy định của Luật Đầu tư
2005 đã hết hiệu lực pháp lý hoặc là các nghiên cứu về đầu tư trực tiếp ra
2


nước ngoài theo quy định hiện hành nhưng ở quy mô nhỏ là các bài viết khoa
học trên các tạp chí mà chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên
cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam theo quy định của pháp luật
hiện hành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung làm rõ các vấn đề lý luận, thực trạng
pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản của pháp
luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu được quy định tại Luật
đầu tư 2014.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử. Trên cơ sở nền tảng đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp; phương pháp so
sánh luật học…
5. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận, thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
ở Việt Nam. Để trên cơ sở đó, luận văn đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 03 chương như sau:

3


- Chương 1: Những vấn đề lý luận về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và
pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam.
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài ở Việt Nam và một số kiến nghị.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
RA NƯỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI
1.1. Bản chất pháp lý đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc các nhà đầu tư nước ngoài gia
tăng đầu tư vào Việt Nam thì hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam cũng ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế.
Trong đó, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam chủ
yếu là đầu tư trực tiếp. Từ khi hoạt động đầu tư ra nước ngoài xuất hiện ở Việt

Nam cho đến nay đã có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài.
Theo Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 22/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14
tháng 04 năm 1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt
Nam, “Đầu tư ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam là việc doanh nghiệp
Việt Nam đưa vốn bằng tiền, tài sản khác ra nước ngoài để đầu tư trực tiếp ở
nước ngoài theo quy định của Nghị định này”. Tại Khoản 14 Điều 3 Luật Đầu tư
2005 thì quy định như sau: “Đầu tư ra nước ngoài là việc nhà đầu tư đưa vốn
bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác từ Việt Nam ra nước ngoài để tiến hành
hoạt động đầu tư”. Sau đó, để làm rõ hơn quy định tại Luật Đầu tư 2005 thì
Nghị định số 78/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 09 ngày 08 năm 2006 quy
định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã quy định cụ thể hơn như sau: “Đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài để
thực hiện hoạt động đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư đó ở
nước ngoài”. Mới đây nhất, Nghị định số 83/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày

5


25 tháng 09 năm 2015 quy định về đầu tư ra nước ngoài đã quy định: “Đầu tư ra
nước ngoài là việc nhà đầu tư chuyển vốn; hoặc thanh toán mua một phần hoặc
toàn bộ cơ sở kinh doanh; hoặc xác lập quyền sở hữu để thực hiện hoạt động
đầu tư kinh doanh ngoài lãnh thổ Việt Nam; đồng thời trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động đầu tư đó”.
Từ các định nghĩa nêu trên có thể hiểu khái quát hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài là một hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư bỏ vốn để
xây dựng hoặc mua một phần, thậm chí toàn bộ các cơ sở kinh doanh ở nước
ngoài để trở thành chủ sở hữu từng phần hoặc toàn bộ cơ sở đó và trực tiếp
tham gia quản lý, điều hành và chịu trách nhiệm về hoạt động của đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư.

Từ định nghĩa về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã nêu ở trên, có thể rút ra
một số đặc điểm pháp lý của hoạt động đầu tư này như sau:
-

Về chủ thể của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Chủ thể của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu là các nhà
đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh tế không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp
hay nhà đầu tư không là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc
vốn đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài.
-

Về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Đây là hình thức đẩu tư trực tiếp thông qua các hoạt động sản xuất kinh
doanh, cung cấp dịch vụ tại nước nhận đầu tư mà ở đó, nhà đầu tư trực tiếp nắm
quyền quản lý mọi hoạt động của dự án mà mình đầu tư.
-

Về nguồn vốn của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Hoạt động đầu tư này được thực hiện bằng nguồn vốn của chính nhà đầu tư
do họ tự quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định này. Nguồn vốn của
6


nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể là tiền, tài
sản hoặc máy móc, công nghệ…
-


Mục đích của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Giống các hoạt động đầu tư khác, mục đích trước tiên của hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận. Đây luôn là mục tiêu cao nhất mà
các chủ đầu tư hướng tới. Ngoài ra còn do các mục đích khác hoặc đi kèm như
mở rộng thị trường, tận dụng nguồn nhân công giá rẻ và tài nguyên phục vụ sản
xuất tại chỗ dồi dào…
-

Tính chất của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ đảm bảo quyền kiểm soát, quản
lý của nhà đầu tư đối với dự án đầu tư của mình. Nhà đầu tư sẽ hoàn toàn chủ
động trong việc tìm hiểu, lựa chọn thị trường, xây dựng dự án, thực hiện dự án
và hưởng lợi nhuận từ dự án.
-

Về mối quan hệ giữa nhà đầu tư và nước nhận đầu tư.

Đây là mối quan hệ hợp tác bình đẳng, đôi bên cùng có lợi. Trong mối quan
hệ này, nhà đầu tư sẽ mở rộng được thị trường, có lợi nhuận lớn, tận dụng được
nguồn nhân công giá rẻ tại chỗ, được hưởng ưu đãi thuế… còn nước tiếp nhận
đầu tư sẽ nhận được các công nghệ tiên tiến mà nhà đầu tư chuyển giao cùng với
kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh…
1.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với một số hoạt động đầu tư khá
1.2.1. Phân biệt đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài với đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam
-

Về chủ thể đầu tư:


Chủ thể của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chủ yếu là các nhà
đầu tư là cá nhân, tổ chức kinh tế không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp
7


hay nhà đầu tư không là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc
vốn đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài.
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, chủ thể của hoạt động
này là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước
ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
-

Về địa điểm thực hiện hoạt động đầu tư.

Hoạt động đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài được thực hiện ngoài
lãnh thổ Việt Nam, tại nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới. Trong khi đó, hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chỉ được thực hiện trên lãnh thổ
Việt Nam.
-

Về nguồn vốn đầu tư:

Nguồn vốn của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam đều có thể là tiền, tài sản hoặc máy móc, công nghệ…
Tuy nhiên, nguồn gốc của vốn và dòng tiền di chuyển của 2 hoạt động đầu tư
này có sự khác biệt hoàn toàn.
Nguồn vốn của hoạt động đầu tư trực tiếp từ Việt Nam ra nước ngoài xuất
phát từ Việt Nam và được dịch chuyển sang nước tiếp nhận đầu tư để thực hiện
đầu tư. Còn nguồn vốn của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam

xuất phát từ nước đầu tư và được dịch chuyển vào Việt Nam. Về cơ bản thì dòng
vốn di chuyển của 2 hoạt động này là trái ngược nhau.
1.2.2. Phân biệt đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với đầu tư gián tiếp ra
nước ngoài
-

Về chủ thể của hoạt động đầu tư:

Khác với đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có chủ thể chủ yếu là các nhà đầu
tư là cá nhân, tổ chức kinh tế không phân biệt nhà đầu tư là doanh nghiệp hay
8


nhà đầu tư không là doanh nghiệp, không phân biệt nhà đầu tư có nguồn gốc vốn
đầu tư trong nước hay nhà đầu tư có nguồn gốc vốn đầu tư nước ngoài, hoạt
động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài thường được thực hiện bởi các tổ chức kinh
tế xã hội, các tổ chức quốc tế và bởi nguồn vốn của chính phủ các nước như quỹ
của IMF, WTO, UNESCO, WHO… dưới dạng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức ODA.
-

Về nguồn vốn đầu tư:

Nguồn vốn của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có thể có vốn là
tiền, tài sản hoặc máy móc, công nghệ… Trong khi đó, nguồn vốn cho hoạt
động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài chỉ có thể là tiền. Nếu là vốn của Chính
phủ, các tổ chức quốc tế thì còn đi kèm Theo đó là điều kiện về lãi suất và các
ưu đãi kèm theo
-


Về hình thức của hoạt động đầu tư.

Đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, nhà đầu tư trực tiếp bỏ
vốn để thực hiện đầu tư và trực tiếp tham gia quản lý mọi hoạt động đầu tư của
dự án đầu tư.
Đối với hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài, nhà đầu tư thông qua việc
mua bán cổ phần, cổ phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và
thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp
tham gia quản lý hoạt động đầu tư hoặc đầu tư thông qua các hình thức viện trợ
và tài trợ.
-

Về tính chất của hoạt động đầu tư.

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ đảm bảo quyền kiểm soát, quản
lý của nhà đầu tư đối với dự án đầu tư của mình. Nhà đầu tư vừa là người bỏ
vốn, vừa là người trực tiếp quản lý điều hành việc sử dụng vốn của mình và có
quyền tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp. Do đó nhà đầu tư đặc biệt quan
9


tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì liên quan trực tiếp
đến lợi nhuận của họ. Hay nói cách khác, quyền sở hữu và quyền sử dụng gắn
liền với nhà đầu tư.
Hoạt động đầu tư gián tiếp ra nước ngoài chỉ đơn thuần là hoạt động bỏ
vốn, đầu tư vốn vào doanh nghiệp thông qua việc mua bán chứng khoán hoặc
những tài sản có giá khác, nhà đầu tư không có quyền tham dự vào hoạt động
của công ty. Lợi nhuận thu được từ việc chia cổ tức hoặc việc bán chứng khoán
thu chênh lệch. Tuy nhiên, nếu nắm giữ một số cổ phần nhất định, đầu tư gián
tiếp ra nước ngoài sẽ trở thành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và nhà đầu tư có

quyền ra quyết định với công ty họ đang bỏ vốn.
1.3. Vai trò của hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
1.3.1. Đối với nước đầu tư ra nước ngoài
-

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài sẽ kéo theo những hoạt động

liên quan như việc chuyển dịch một số lượng nhất định lao động trong nước ra
nước ngoài, chuyển giao công nghệ, dịch chuyển hàng hoá… từ đó giải quyết
một số khó khăn trong nước như dư thừa lao động, bão hoà về các sản phẩm
trong nước và sự thiếu cạnh tranh trong đầu tư trong nước…
-

Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, mà sản phẩm đặc

trưng, mang thương hiệu quốc gia sẽ có mặt tại nước nhận đầu tư và dần gây
dựng tiếng tăm trên thị trường thế giới. Qua đó sẽ tạo nên danh tiếng, nâng cao
tên tuổi cho quốc gia trên thị trường quốc tế, giúp củng cố vai trò chính trị và vị
thế kinh tế của quốc gia trong khu vực và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các quốc gia thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, thúc đẩy
nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Ví dụ điển hình cho trường hợp này là
Nhật Bản, Hàn Quốc nổi tiếng trên thị trường quốc tế với các doanh nghiệp như
Samsung, Sony, Toyota, Hyundai, LG…

10


-

Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, các quốc gia sẽ có


thêm nguồn nguyên liệu, nhiên liệu… phục vụ cho sự phát triển kinh tế trong
nước. Ví dụ: Tập đoàn dầu khí Việt Nam đầu tư hoạt động khai thác dầu mỏ tại
các nước trên thế giới sẽ tạo nguồn cung cấp cho nhà máy lọc dầu Dung Quất
khi mà khả năng khai thác dầu trong nước có xu hướng giảm sút [25].
-

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài thành công cũng sẽ tác động ngược lại

nền kinh tế trong nước theo hướng thúc đẩy công cuộc cải tổ nền kinh tế về thể
chế chính sách, về thuế, về thủ tục hành chính, về hệ thống thông tin đối ngoại
và cả về chính sách điều hành vĩ mô.
-

Ngoài ra, các quốc gia còn thu được thêm một lượng lớn ngoại tệ nhờ

việc đóng thuế hoặc hoạt động tái đầu tư của các nhà đầu tư có hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.
1.3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư
-

Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mà nguồn thu ngân

sách của nước tiếp nhận đầu tư tăng lên đáng kể thông qua việc thu các loại thuế
(thuế đất, thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế doanh nghiệp…). Qua đó góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng các
nguồn lực đầu tư của nước nhận đầu tư.
-

Xuất phát từ việc nguồn vốn đầu tư có thể là máy móc, công nghệ,


nguyên liệu, quyền sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế… mà nước tiếp nhận đầu tư có
thể tiếp thu các công nghệ hiện đại, máy móc và quy trình sản xuất tiên tiến từ
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Đồng thời, nước tiếp nhận đầu tư còn
nhận được các kinh nghiệm, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả
quản lý cho nền kinh tế trong nước.
-

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài góp phần quan trọng vào xuất khẩu.

Bằng việc tiếp nhận đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài mà lượng hàng hoá sản
11


xuất để xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu tư sẽ của tăng lên nhanh chóng. Ví dụ
tại Việt Nam, trước năm 2001, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài chỉ đạt
45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ năm 2003, xuất khẩu của khu vực này
bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở 10 thành nhân tố chính thúc đẩy xuất
khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2012 [1]. Đồng thời,
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tác động tích cực tới việc mở rộng thị
trường xuất khẩu của nước tiếp nhận đầu tư.
-

Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng góp phần giải quyết tình

trạng thiếu hụt việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và thay đổi cơ cấu
lao động của nước tiếp nhận đầu tư.
1.3.3. Đối với nhà đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
-


Đầu tư ra nước ngoài giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường, thâm

nhập sâu vào thị trường thế giới, tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt hơn, nhờ đó mà nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn. Bằng hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, doanh
nghiệp sẽ dễ dàng đưa sản phẩm tới nước nhận đầu tư mà không vướng phải
hàng rào thuế quan và hàng rào bảo hộ phi thuế quan như khi xuất khẩu sản
phẩm, nhờ đó sản phẩm của doanh nghiệp có sức cạnh tranh lớn hơn và tiêu thụ
tốt hơn tại nước nhận đầu tư.
-

Đầu tư ra nước ngoài giúp doanh nghiệp có điều kiện phân tán rủi ro

kinh doanh, điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong khi tinh hình thế giới
đầy biến động về kinh tế - chính trị như hiện nay.
-

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao

hơn đầu tư trong nước. Các nhà đầu tư luôn tính toán và tận dụng lợi thế của mình
và các ưu đãi của nước nhận đầu tư để đầu tư vào nơi có tỉ suất lợi nhuận lớn nhất.
-

Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp các nhà đầu tư khắc phục những

khó khăn, thiếu thốn khi đầu tư trong nước như thiếu hụt lao động có tay nghề;
12


thiếu hụt tài nguyên, nguyên liệu sản xuất; thiếu hụt máy móc, công nghệ phù
hợp sản xuất, kinh doanh…

1.4. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài
Vì bản chất là hoạt động đầu tư xuyên quốc gia nên khung pháp luật điều
chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao gồm hệ thống pháp luật của
nước đầu tư và hệ thống pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư. Bên cạnh đó, hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cũng chịu sự điều chỉnh của các hiệp định
song phương và đa phương cũng như các điều ước quốc tế mà các quốc gia ký
kết với nhau. Khung pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
cũng không ngoại lệ, nó được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
mà trước hết phải kể đến là Hiến Pháp và Luật Đầu tư trực tiếp quy định về hoạt
động này. Cùng với đó là các đạo luật có liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật
Thương mại, Luật Chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng… và các văn bản
dưới luật có liên quan khác. Ngoài ra, khung pháp luật về hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài của Việt Nam còn bao gồm các điều ước quốc tế, các hiệp
định song phương hoặc đa phương về đầu tư mà Việt Nam đã ký kết như: Hiệp
định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ; Hiệp định Đầu tư trong khuôn khổ Hiệp
định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn Độ; Công ước về "tổ chức
bảo đảm đầu tư đa biên"…
Như vậy, có thể hiểu ở mức độ khái quát rằng pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài là tổng thể những quy định pháp luật do nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức
và quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài mà nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bao
gồm các quy định về những vấn đề sau:
13


-


Quy định về chủ thể đầu tư.

Đây là các quy định về các cá nhân, tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh của
pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
-

Quy định về điều kiện đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Để được đầu tư ra nước ngoài thì nhà đầu tư phải đáp ứng được các điều
kiện cụ thể do nhà nước đưa ra để đảm bảo tính khả thi của dự án đầu tư, đảm
bảo lợi ích của quốc gia…
-

Quy định về thủ tục đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Đây là các thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài; thủ tục cấp,
điểu chỉnh và chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài;
thủ tục triển khai dự án đầu tư.
-

Quy định về hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Các hình thức đầu tư trực tiếp ra nước ngoài rất đa dạng để doanh nghiệp
lựa chọn nhưng còn phụ thuộc vào quy định của nước tiếp nhận đầu tư. Về cơ
bản, pháp luật các nước đều quy định các hình thức đầu tư trực tiếp như liên
doanh, độc doanh, hợp doanh hoặc thực hiện hoạt động sáp nhật và mua lại
doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư.
-

Quy định về lĩnh vực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.


Theo pháp luật Việt Nam thì doanh nghiệp được đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài trong tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế quốc dân trừ các dự
án gây phương hại đến bí mật, an ninh, quốc phòng, lịch sử, văn hoá, thuần
phong mỹ tục của Việt Nam. Ngoài ra, việc doanh nghiệp có thể đầu tư vào lĩnh
vực nào còn phụ thuộc vào quy định pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư.
-

Quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư trực

tiếp ra nước ngoài.
14


Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam quy định
thống nhất về quyền và nghĩa vụ đối với các chủ thể khi tham gia vào mối
quan hệ pháp luật này. Dù là nhà đầu tư ra nước ngoài hay đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam hay đầu tư trong nước thì đều có quyền và nghĩa vụ
giống nhau.
-

Quy định về quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.

Đây là các quy định về trách nhiệm quản lý của các cơ quan nhà nước trong
hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
1.5. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của một số nước trên
thế giới
1.5.1. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Thái Lan
Những năm gần đây, các doanh nghiệp lớn của Thái Lan như Central
Group, BJC, Charoen Pokphand Group, Siam Cement Group… đang không

ngừng đầu tư trực tiếp ra các nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực Đông Nam
Á trong đó có Việt Nam. Điều này một phần là nhờ pháp luật về đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Thái Lan luôn được khuyến khích và đẩy mạnh từ hàng chục
năm nay.
Theo quy định mới, doanh nghiệp Thái Lan có tài sản khoảng 5 tỉ Baht
(146,3 triệu USD) trở lên được quyền đầu tư vào các tài sản ở nước ngoài.
Mỗi công ty có quyền đầu tư ra nước ngoài tối đa 50 triệu USD mà không
phải xin phép, nếu muốn đầu tư vượt quá số tiền đó, doanh nghiệp phải xin
ngân hàng trung ương phê chuẩn. Trước đây, Thái Lan chỉ cho phép một số
doanh nghiệp và tổ chức được đầu tư ra nước ngoài. Cá nhân chỉ có thể đầu tư
qua công ty môi giới hoặc quỹ đầu tư, doanh nghiệp muốn đầu tư ra nước
ngoài đều phải xin phép ngân hàng trung ương và được xem xét theo từng
trường hợp cụ thể [17, tr.21].
15


Bên cạnh đó, Thái Lan cũng ngày càng tăng thêm các ưu đãi về thuế cho
các dự án đầu tư ra nước ngoài và các công ty mẹ đóng tại Thái Lan (gọi là
Regional Operating Headquarters hay ROH), nhằm chủ động hội nhập và khai
thác các cơ hội đầu tư quốc tế, củng cố sức cạnh tranh và vị thế nền kinh tế Thái
Lan trong Cộng đồng kinh tế chung ASEAN (AEC) và toàn cầu. Theo đó, nếu
các ROH nắm giữ ít nhất 25% vốn tại các công ty con ở nước ngoài và tiến hành
các dịch vụ hỗ trợ (như quản lý, nghiên cứu thị trường, mua sắm, marketing,
chuyển giao công nghệ), có trên 50% doanh thu từ các hoạt động đầu tư ra nước
ngoài thì sẽ được hưởng thuế suất thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10% đối với lợi
nhuận từ kinh doanh, tiền bản quyền, lãi và được miễn thuế đối với tiền cổ tức
thu được từ nước ngoài.
Chính phủ Thái Lan cũng thực thi chính sách thúc đẩy ngành dịch vụ và
giải trí có tiềm năng ra nước ngoài như phim hoạt hình, nhạc và phần mềm.
1.5.2. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Trung Quốc

Trước năm 1978, Trung Quốc thực hiện chính sách kiểm soát chặt chẽ hoạt
động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp. Sau năm 1978, các
quy định về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài đã có phần được nới lỏng hơn nhờ
việc Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách mở cửa. Đến năm 1988, Trung
Quốc đã phê chuẩn “công ước bảo đảm cơ cấu đầu tư nhiều bên”. Đến năm
1992, Trung Quốc quyết định đẩy mạnh cải cách kinh tế và hội nhập toàn cầu,
đặc biệt là cải cách doanh nghiệp nhà nước để hình thành các tập đoàn lớn kinh
tế lớn đã đưa đến chính sách khuyến khích tích cực hơn đối với hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài. Cũng trong năm này, Trung Quốc phê chuẩn “công ước
giải quyết tranh chấp đầu tư giữa các quốc gia”. Năm 2001, việc Trung Quốc
gia nhập WTO đòi hỏi phải mở cửa dần thị trường và đối mặt với áp lực cạnh
tranh gia tăng. Do đó, Trung Quốc giảm bớt bảo hộ trong nước và các doanh
nghiệp buộc phải tìm kiếm thị trường mới ở nước ngoài. Trong bối cảnh đó,
16


chiến lược “đi ra ngoài” của Trung Quốc đã được đưa ra và một số quy định
pháp lý được ban hành nhằm hỗ trợ cho hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
Trong những năm gần đây, Trung Quốc tiếp tục cho đẩy mạnh chiến lược “đi ra
ngoài”. Văn kiện Đại hội Đảng Trung Quốc cũng đã nêu rõ vấn đề “thu hút
vào” và “đi ra ngoài một cách hợp lý” [8].
Trung Quốc có một cơ chế quản lý rất chặt chẽ và khoa học thông qua cải
cách thể chế đầu tư của Quốc Vụ Viện và các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn
đề này như: “Biện pháp quản lý tạm thời về việc thẩm tra, phê chuẩn các công
trình đầu tư nước ngoài”; “Chính sách khuyến khích các khoản vay ưu đãi đối
với các công trình đầu tư ra nước ngoài trọng điểm”; “Biện pháp quản lý ngoại
hối trong đầu tư ra nước ngoài”…
Bên cạnh đó, Bộ Thương mại Trung Quốc cũng ban hành và sửa đổi
nhiều văn bản trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như:
“Biện pháp kết hợp kiểm tra hàng năm đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp ra

nước ngoài tạm thời”; “Thông tư về việc sử dụng dấu chuyên dụng và giấy
chứng nhận kiểm tra hàng năm đối với hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài”; “Thông tư về việc thành lập trung tâm thông tin cho doanh nghiệp
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài”…
Ngoài ra, Bộ Thương mại Trung Quốc cũng phối hợp với Bộ Ngoại giao
nước này đưa ra “Hướng dẫn đầu tiên đối với đầu tư vào các ngành công nghiệp
ở nước ngoài” vào tháng 7 năm 2004 và “Danh mục hướng dẫn đầu tư ra nước
ngoài” vào tháng 7 năm 2006 nhằm định hướng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
của các doanh nghiệp trong các ngành được khuyến khích vào thị trường mục
tiêu để phát huy năng lực cạnh tranh và lợi thế so sánh của các doanh nghiệp
Trung Quốc [27, tr.30-38].
Có thể thấy các văn bản trên đã phần nào đáp ứng được yêu cầu quản lý
nhà nước trong hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Nhớ các văn bản pháp
17


luật này, Trung Quốc đã tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy các nhà đầu tư thực
hiện hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Năm 2009, các doanh nghiệp nhà
nước đầu tư ra nước ngoài 38,2 tỷ USD, chiếm 67,6% tổng vốn đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Trung Quốc. Tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài cộng
dồn của Trung Quốc đến cuối năm 2009 tăng lên 245,75 tỷ USD [29]. Đến cuối
năm 2013, Trung Quốc có khoảng 25.400 doanh nghiệp đầu tư vào 184 quốc gia
và vùng lãnh thổ trên thế giới với tổng vốn 107,8 tỷ USD; năm 2014 con số này
tăng lên 120 tỷ USD [30].
1.5.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc
Theo số liệu của Ngân hàng Korea Exim Bank, Hàn Quốc, tổng số vốn FDI
của Hàn Quốc ra nước ngoài các năm 2013, 2014 lần lượt là 35,59 tỷ USD và
35,04 tỷ USD. Tính đến hết quý II/2015, tổng vốn FDI của Hàn Quốc đạt
khoảng 417,5 tỷ USD thông qua hơn 61 nghìn dự án, trong đó vốn giải ngân
khoảng 291,9 tỷ USD (tỷ lệ vốn giải ngân khoảng 70%). Nửa đầu năm 2015,

tổng vốn FDI Hàn Quốc ra nước ngoài đạt 17,45 tỷ USD, dự báo cả năm sẽ đạt
mức tương đương với năm trước. Theo Báo cáo đầu tư toàn cầu 2015 của Hội
nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển, Hàn Quốc đứng thứ 13
trong số 20 nền kinh tế có mức đầu tư nước ngoài lớn nhất trên thế giới trong
năm 2013 và 2014 [3].
Những kết quả trên có được là nhờ những sự thay đổi chính sách pháp luật
về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hàn Quốc từ những năm 70 của thế kỷ
trước. Năm 1968, Hàn Quốc có điều lệ về đầu tư ra nước ngoài nhưng vốn đầu
tư ra nước ngoài vẫn rất thấp. Đến năm 1975, nhận thấy những sự thiếu hiệu quả
trong pháp luật về đầu tư ra nước ngoài, Hàn Quốc đã liên tục có những sửa đổi
các thể chế liên quan đến đầu tư trực tiếp ra nước ngoài như: Nới lỏng các hạn
chế về vốn đầu tư ra nước ngoài cho các nhà đầu tư; Uỷ quyền phê chuẩn và
quản lý các hoạt động đầu tư ra nước ngoài, đứng đầu là Thống đốc đầu tư ra
18


nước ngoài; Bãi bỏ các điều luật, điều lệ gây hạn chế đầu tư ra nước ngoài; Đề ra
các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài… Đến nay, Hàn Quốc
đang thực hiện chính sách mở cửa đầu tư ra nước ngoài theo lộ trình và chỉ thực
hiện chính sách tự do hóa đầu tư ra nước ngoài khi nền kinh tế đã có thặng dư về
cán cân thanh toán, có dự trữ ngoại tệ cao, tiềm lực của nền kinh tế nói chung và
của doanh nghiệp Hàn Quốc đã đủ mạnh và có nhu cầu mở rộng phạm vi hoạt
động ra bên ngoài. Hiện tại, Hàn Quốc đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ cấp phép đầu
tư ra nước ngoài [22].
Bằng việc nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài và có những chính sách pháp luật thông thoáng mà các
doanh nghiệp Hàn Quốc có thêm động lực to lớn thúc đẩy các hoạt động đầu tư
trực tiếp ra nước ngoài.

19



×