Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố phủ lý, tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (847.58 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI
ĐẤT TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ,
TỈNH HÀ NAM

TRẦN THỊ BÍCH THỦY

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

TRẦN THỊ BÍCH THỦY

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. TRẦN THỊ THÚY

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
số liệu nêu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các
cơ quan chức năng đã công bố. Những kết luận khoa học của luận văn là mới và
chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị khoa Luật xem xét để tôi có thể được
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI HƯỚNG
DẪN KHOA HỌC
(Luận văn đã được chỉnh sửa theo ý kiến
hội đồng chấm luận văn)

TS. Trần Thị Thuý

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Bích Thuỷ


LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được thực hiện tại Viện đại học Mở Hà Nội. Để hoàn thành
được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô
giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Trần Thị Thúy đã
hướng dẫn tôi thực hiện nghiên cứu của mình.

Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo, người đã đem
lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có ích trong thời gian học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo sau
đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Thị Bích Thuỷ


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận về thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
1.1.2. Đặc điểm và tính chất của việc thu hồi đất
1.1.3. Nhu cầu cần thiết của việc thu hồi đất

1.1.4. Những tác động và ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất
1.2. Lí luận về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2. Ý nghĩa về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.3. Cơ sở lí luận của việc hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.3. Lí luận về pháp luật hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Sự cần thiết của pháp luật điều chỉnh hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.2. Khái niệm và các bộ phận hợp thành pháp luật điều chỉnh hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.3. Những yếu tố chi phối pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH
PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn
thành phố Phủ Lý, Hà Nam
2.1.1. Cơ sở pháp lý thực hiện về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa
bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
2.1.2. Nội dung pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
2.2. Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất tại thành phố Phủ Lý, Hà Nam

10
10
10
11
16
17
18
18

22
25
28
28
32
37

42
42
42
44
69


2.2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của thành phố Phủ
Lý, Hà Nam
2.2.2. Kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất tại thành phố Phủ Lý, Hà Nam
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỖ
TRỢ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THỰC TIỄN
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
trên cơ sở đánh giá thực trạng áp dụng tại thành phố Phủ Lý, Hà Nam
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên nền tảng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân do dân và vì đân

69
70

75
75

75

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
thực hiện công bằng xã hội theo hướng mở rộng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa

78

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phải dựa trên
việc hoàn thành dứt điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi
đôi với hiện đại hóa hệ thống bản đồ địa chính, hồ sơ địa chính

80

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất phải
hướng vào việc đổi mới cơ chế thực hiện chính sách cho phù hợp
với điều kiện kinh tế thị trường; từng bước thực hiện việc "xã hội
hóa" công tác giải phóng mặt bằng nói chung và hỗ trợ khi thu hồi
đất nói riêng
3.1.5. Hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên cơ
sở đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ luật đất đai nói chung và các
đạo luật khác có liên quan
3.2. Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất dựa trên tình hình thực tiễn tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.2. Giải pháp cụ thể
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


80

81
81
82
84
90
91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GPMB

:

Giải phóng mặt bằng

LĐĐ

:

Luật Đất đai

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc


QSDĐ

:

Quyền sử dụng đất

SDĐ

:

Sử dụng đất

TP

:

Thành phố

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản
xuất nông - lâm nghiệp, là một trong những nguồn lực quan trọng cho chiến lược
phát triển nền nông nghiệp quốc gia nói riêng cũng như chiến lược phát triển nền
kinh tế nói chung. Nó là môi trường sống, là cơ sở tiến hành mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh; Đối với con người, đất đai cũng có vị trí vô cùng quan trọng, con người
không thể tồn tại nếu không có đất đai, mọi hoạt động đi lại, sống và làm việc đều
gắn với đất đai và hiện nay đất đai từng bước được sử dụng có hiệu quả, đúng quy
định của pháp luật và trở thành nội lực quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển đô
thị, kinh tế xã hội. Một trong những công cụ để quản lý quỹ đất đai chặt chẽ. Tuy
nhiên, kể từ khi phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế sâu rộng, đất đai đã ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị
trường; được dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với
ngân hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất - kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai. Số
lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v...Với việc đất đai
ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, GPMB cũng gặp rất
nhiều khó khăn, phức tạp. Cùng với quan điểm này, ông Phạm Gia Hải, Ủy viên
Hội đồng tư vấn về Kinh tế cho biết: "hiện nay mắc mớ nhất là vấn đề về bồi
thường. Vì thế, dự thảo Luật phải làm rõ khái niệm "bồi thường". "Bồi thường cái
gì, người dân suy nghĩ gì khi giải tỏa. Họ suy nghĩ hai vấn đề: Cuộc sống của họ sẽ
như thế nào, và họ ở như thế nào. Luật mới đề cập đến việc bồi thường giá trị đất và
nhà cửa bị phá đi. Còn việc đảo lộn cuộc sống của người dân thì chưa đề cập đến,
hoặc đưa sang phần hỗ trợ. Hỗ trợ thì luôn co giãn, cho nên phải quy định thật rõ
nội dung bồi thường gồm những gì". Do đó, "hệ thống quản lý đất đai tuy được hình
thành và hoàn thiện, nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng về pháp lý, kỷ cương thực thi và
giám sát. Vì vậy, những xung đột xung quanh đất đai giữa người dân có đất với
doanh nghiệp và chính quyền ngày càng phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là


1


những mâu thuẫn kinh tế, trong đó nổi lên rõ nhất là việc đền bù. Đã có nhiều quy
định về việc đền bù, đảm bảo kế sinh nhai cho người dân bị thu hồi đất, nhưng trên
thực tế những quy định đó vẫn còn nhiều nơi chưa thực hiện đầy đủ. Và bản thân
một số quy định cũng chưa đảm bảo được lợi ích lâu dài cho người dân bị thu hồi
đất" [24]. Chình vì vậy,"Luật pháp là một việc, thực thi luật pháp ở Việt Nam có ý
nghĩa nhiều hơn. Cơ chế để luật pháp phải được thực thi đóng vai trò quyết định,
quyết định trực tiếp tới lợi ích hợp pháp và chính đáng của người dân" [38]. Điều
này cho thấy, các quy định về thu hồi đất, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
theo Luật Đất đai 2013 vừa mới có hiệu lực một thời gian ngắn nhưng quá trình áp
dụng thực tiễn đã có nhiều điểm hạn chế, bất cập là chuyện đương nhiên.
Hiện nay, tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã có các dự án lớn cần phải thu
hồi đất và UBND Thành phố có những kế hoạch cụ thể và lộ trình thực hiện, nhằm
bảo đảm tối đa việc đáp ứng những yêu cầu về quy hoạch, kế hoạch dự án, đồng
thời cũng quan tâm, chú ý giải quyết hợp lý, hài hòa với người bị thu hồi đất. Tuy
nhiên, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành
phố còn gặp một số khó khăn như: Việc thực hiện kế hoạch SDĐ chưa được quan
tâm thực hiện; việc giao đất, cho thuê đất không đúng thẩm quyền, sai mục đích
được giao, được thuê còn nhiều đã gây khó khăn cho công tác bồi thường, hỗ trợ,
GPMB, nhiều dự án còn bị kéo dài, không được giải quyết dứt điểm; vướng mắc
trong vấn đề giá đất để tính bồi thường; hỗi trợ; bên cạnh đó, chính sách quản lý đất
đai nói chung và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng có nhiều
thay đổi, thiếu đồng bộ, không ổn định cũng đã góp phần gây nên tình trạng khiếu
nại căng thẳng của người bị thu hồi đất. Vì vậy, tiếp tục tập trung rà soát, bổ sung,
điều chỉnh một số nội dung trong cơ chế chính sách như: Xác định giá đất, tái định
cư, thu hồi đất, quy trình GPMB, cưỡng chế thu hồi đất theo hướng tối đa hóa bồi
thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất trong khuôn khổ pháp luật là cần thiết. Điều

này cho thấy nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế, chính sách bồi thường nói chung và
các quy định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng xuất phát thực tiễn tại
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật phù hợp với

2


thực tiễn phát triển đất nước là điều hết sức quan trọng, nó quyết định hiệu quả, hiệu
lực của bộ máy quản lý Nhà nước về đất đai cũng như điều tiết các mối quan hệ sở
hữu và hơn nữa làm hạn chế các tranh chấp, khiếu nại kéo dài, gây mất an ninh,
chính trị ở địa phương. Đây là lý do để tác giả lựa chọn đề tài "Pháp luật về hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam" làm luận văn
thạc sĩ luật.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của luận văn
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế định quan
trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực tiếp đụng chạm
đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và lợi ích của nhà đầu tư
nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới khoa học pháp lý nước ta. Thời
gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý tiêu biểu nghiên cứu về lĩnh
vực pháp luật này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn, cụ thể như sau:
2.1. Giáo trình
Giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội; Giáo trình Luật Đất
đai Viện Đại học Mở Hà Nội; ..., các giáo trình này chủ yếu dừng lại ở việc giới
thiệu các nội dung cơ bản của luật thực định về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất mà
chưa có nội dung chuyên sâu về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cả vấn đề lí luận và
thực tiễn.
2.2. Các đề tài khoa học
* Luận án tiến sỹ:
- Phạm Thu Thủy (2014), Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;

* Luận văn thạc sỹ:
- Hoàng Thị Thu Trang (2012), "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân và thực tiễn áp dụng tại Nghệ An",
Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội;

3


-

Nguyễn Minh Tuấn (2016), "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất từ thực tiễn thực hiện tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh", Luận văn thạc
sĩ luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội;
- Lê Thị Yến (2010), "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất qua
thực tiễn áp dụng tại địa bàn quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội", Luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Hoàng Thị Nga (2010), "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,
GPMB ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ luật học,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Vinh Diện (2006): "Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất", Luận văn Thạc sĩ luật học;
- Nguyễn Duy Thạch (2007): "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hà Nội)", Luận văn
Thạc sĩ luật học;
- Trịnh Thị Hằng Nga (1999), "Chế định pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất", Luận văn Thạc sĩ luật học;
2.3. Một số bài viết liên quan:
- Khánh Ly (2014), "Một số quy định mới về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái
định cư theo Luật Đất đai năm 2013", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật xem


- Nguyễn Phương Thảo (2013), "Những bất cập trong thu hồi đất và một số
kiến nghị", xem />- GS.TSKH Đặng Hùng Võ (2013), "Sửa đổi Luật Đất đai cần một tầm nhìn
xa và bảo đảm tính hệ thống", Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà
Nội, ngày 12/4/2013.
- PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyến, ThS. Nguyễn Ngọc Minh (2010), "Pháp
luật về bồi thường, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Singapore và Trung

4


Quốc - Những gợi mở cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về bồi thường, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất", Tạp chí Luật học, số 10/2010;
- PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), "Bình luận và góp ý đối với các quy
định bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong Dự
thảo Luật Đất đai sửa đổi", Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội,
ngày 12/4/2013.
- PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2013), "Việc Nhà nước quyết định giá đất và
chính phủ quy định khung giá các loại đất - một số vấn đề cần góp ý đối với Dự
thảo Luật Đất đai sửa đổi", Hội thảo khoa học góp ý Luật Đất đai sửa đổi, Hà Nội,
ngày 12/4/2013.
- PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến (2012),"Công khai, minh bạch để bảo vệ
quyền lợi của người bị thuhồi đất", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp - Văn phòng Quốc
hội, Số 3/2012.
- Một số quy định pháp luật về thu hồi đất còn nhiều bất cập, xem
.
- Đặng Anh Quân (2005): "Bàn về giá đất khi bồi thường - Nên cao hay thấp
(?)", Tạp chí Tài nguyên và Môi trường, số 8, 2005.
Có thể nhận thấy rằng, cho đến thời điểm hiện tại, các công trình nghiên cứu,
bài viết đã hướng đến phân tích, tổng hợp cả về lý luận và thực trạng các vấn đề có

liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trong đó có
nội dung nghiên cứu về khía cạnh hỗ trợ cho người bị thu hồi đất. Nhìn chung, vấn
đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói chung đã được rất
nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên hiện nay, pháp luật đất đai nói chung
và pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng trong những
năm gần đây đã có những thay đổi, bổ sung rất lớn từ Luật, Nghị định, Thông tư
đến các văn bản cấp địa phương, dẫn đến những nội dung về bồi thường, hỗ trợ có
nhiều thay đổi khác so với thời điểm các tác giả nghiên cứu trước.

5


Đặc biệt kể từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực cho đến nay, chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách thấu đáo khía cạnh hỗ trợ cho người bị thu hồi
đất nhìn từ góc độ thực tiễn trên phạm vi địa bàn cấp huyện.Với mong muốn được
tiếp cận vấn đề từ góc độ thực tiễn tại địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, để
phân tích được những quy định phù hợp, không phù hợp của pháp luật với thực tiễn
cuộc sống, mặt khác cũng đưa ra những nhận xét, đánh giá việc thực thi pháp luật về hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở
đó, tôi đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hiện nay và trong tương lai.
Do đó, tác giả nhận thấy đề tài của mình có nội dung không trùng với các công
trình nghiên cứu đã công bố.Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các
công trình trên đây, luận văn đi sâu tìm hiểu một cách tổng hợp, toàn diện về hỗ trợ
khi Nhà nước thu hồi đất dưới góc độ của pháp luật đất đai và từ thực tiễn thành
phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Từ thực tiễn về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà
Nam, trên cơ sở nghiên cứu quá trình áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành

về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất luận văn hướng đến mục đích kiến nghị hoàn
thiện các quy định pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức trong quá trình quản lí và SDĐ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn nghiên cứu cần thực hiện các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lí luận và pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất.
- Từ thực tiễn thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đánh giá những kết quả, tồn
tại, nguyên nhân của những hạn chế pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
- Kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Một số vấn đề lý luận về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nội dung các quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước ở Trung ương, của
Ủy ban nhân dân (UBND) thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam về hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại
thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là:
- Về phạm vi đối tượng, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp
luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất mà cụ thể là các quy định về nguyên tắc,
điều kiện, trình tự, các chính sách về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất;
- Về phạm vi không gian và thời gian, luận văn đi sâu tìm hiểu các quy định
pháp luật hiện hành về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất ở bao gồm quy định tại Luật

Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2013 khi
Nhà nước thu hồi đất. Đặc biệt đi sâu nghiên cứu thực tiễn hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam giai đoạn 2014-2016.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải
cách thủ tục hành chính.
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Phương pháp nghiên cứu cụ thể của đề là đi từ cái chung,
tổng quát đến cái riêng, cụ thể và phương pháp khoa học khác như so sánh, phân
tích, tổng hợp, thống kê, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn, khảo sát tài liệu ....để
giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra. Việc nghiên cứu chú trọng khía cạnh thực
tiễn hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để minh họa, làm cơ sở đánh giá ưu điểm, hạn
chế vướng mắc của quy định pháp luật, xác định những vấn đề chưa quy định cần
phải bổ sung để kiến nghị hoàn thiện pháp luật phù hợp.

7


Luận văn kế thừa có chọn lọc những thành tịu nghiên cứu trong các bài viết,
công trình khoa học có liên quan đã có; đồng thời thể hiện quan điểm khoa học của
cá nhân.
Tác giả sử dụng các số liệu tin cậy của các cơ quan hành pháp, cơ quan có
thẩm quyền thực hiện thu hồi, GPMB, hỗ trợ...tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam
và các cơ quan khác có liên quan để phân tích, so sánh về thực trạng áp dụng quy
định của pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
6. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Những kết quả khoa học của luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm cơ sở
lí luận và thực tiễn pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất. Bao gồm những
khía cạnh chủ yếu sau:

Thứ nhất, về lí luận: luận văn phân tích làm sáng tỏ các vấn đề lí luận về hỗ
trợ khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất; trong đó
tác giả đưa ra khái niệm, phân tích nội hàm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và pháp
luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất theo quan điểm khoa học của cá nhân, khác
biệt và nhiều điểm mới so với các quan niệm, định nghĩa trong các công trình
nghiên cứu trước đây. Với kết quả nghiên cứu của mình, tác giả luận giải và đề xuất
vấn đề thuộc phạm vi pháp luật điều chỉnh về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất cần
được nghiên cứu, giải quyết thỏa đáng hơn về mặt lí luận trong khoa học Luật Đất
đai Việt Nam.
Thứ hai, về thực tiễn: Luận văn phân tích làm rõ thực trạng pháp luật và thực
tiễn thực hiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại địa bàn thành phố
Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, phân tích toàn diện ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của thực
trạng quy định của pháp luật nhìn từ góc độ thực tiễn áp dụng; từ đó đề xuất những
giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương:

8


Chương 1: Những vấn đề lí luận cơ bản về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và
pháp luật về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và thực
tiễn thực hiện tại thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nhìn từ góc độ thực tiễn.

9



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỖ TRỢ KHI NHÀ
NƯỚC THU HỒI ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỖ TRỢ KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận về thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: "Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền SDĐ của người vi phạm quy định về
SDĐ để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ SDĐ hợp pháp bị
lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người
SDĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng" [30]. Khái niệm này hể hiện quyền định đoạt đất đai của người đại diện chủ sở
hữu toàn dân về đất đai và cũng đã đề cập các trường hợp thu hồi đất nhưng nội hàm
của khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp thu hồi đất của Nhà nước.
Xét dưới khía cạnh pháp lí, cho thấy từ khi có Hiến Pháp năm 1980 cho đến
Hiến Pháp năm 2013, nước ta thực hiện sở hữu toàn dân về đất đai và điều này đã
được cụ thể hóa tại Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai
năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 hiện nay. Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai tiếp
tục được khẳng định tại các quy định của pháp luật hiện hành nên nước ta không
thừa nhận đa dạng về sở hữu đất đai. Trong chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở
nước ta, Nhà nước thực hiện hai chức năng, vừa là đại diện chủ sở hữu đất đai, vừa
là chủ thể quản lí đất đai. Chính vì vậy, Nhà nước có quyền quyết định về quy
hoạch đất, kế hoạch SDĐ; quyết định thực hiện quy hoạch, kế hoạch SDĐ thông
qua các quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, cho phép chuyển mục đích
SDĐ, gia hạn SDĐ… Trong đó, việc giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát
sinh quan hệ pháp luật đất đai, phát sinh quyền SDĐ của người được Nhà nước trao

10



quyền sử dụng thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất
đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông
qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai với tư
cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai. Do đó, Luật Đất đai năm 2013 đã được
Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013, có hiệu lực vào ngày 01/07/2014, tại khoản
11, Điều 4 đã quy định: "Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại
quyền SDĐ của người được Nhà nước trao quyền SDĐ hoặc thu lại đất của người
SDĐ vi phạm pháp luật về đất đai".
Từ những nghiên cứu trên, có thể hiểu một cách khái quát về thu hồi đất như
sau: "Thu hồi đất là việc Nhà nước ban hành quyết định hành chính để thu lại đất
và quyền SDĐ đã giao cho các chủ thể SDĐ theo quy định của pháp luật đất đai
nhằm phục vụ nhu cầu của nhà nước, xã hội hoặc khi có vi phạm pháp luật đất đai
của người SDĐ".
1.1.2. Đặc điểm và tính chất của việc thu hồi đất
Thứ nhất, thẩm quyền thu hồi đất:
Trước đây thẩm quyền quản lí nhà nước đối với đất đai, nhất là thẩm quyền
giao đất, thu hồi còn mang tính tập trung chủ yếu ở chính phủ. Cho đến khi có Luật
Đất đai năm 2003, Luật Đất đai năm 2013 đã xác định thẩm quyền thu hồi đất cho
các cơ quan hành chính chung tại địa phương. Các cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền chung bao gồm: UBND tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương;
UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Điều 66 Luật đất đai 2013 quy định UBND cấp tỉnh quyết định thu hồi đất
trong các trường hợp: Thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao, doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã,
phường, thị trấn. UBND cấp huyện quyết định thu hồi đất trong các trường hợp:
Thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư; thu hồi đất ở của người
Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. Bên cạnh đó, Luật

11



đất đai 2013 còn quy định các trường hợp trong khu vực thu hồi đất có cả đối tượng
quy định thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh và UBND cấp huyện thì UBND
cấp tỉnh quyết định thu hồi đất hoặc ủy quyền cho UBND cấp huyện quyết định thu
hồi đất.
Thứ hai, thu hồi đất vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, là
công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai.
Bằng việc ban hành quyết định hành chính để thu lại đất và quyền SDĐ đã
giao cho các chủ thể SDĐ hoặc khi có vi phạm pháp luật đất đai của người SDĐ
nhằm đảm bảo cho mục tiêu quản lí nhà nước về đất đai. Chính vì vậy, việc thu hồi
đất vừa là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, là công cụ hữu hiệu bảo vệ
quyền sở hữu nhà nước đối với đất đai. Vì vậy, tại khoản 1, Điều 16 Luật Đất đai
năm 2013 quy định cho Nhà nước quyết định thu hồi đất trong các trường hợp sau
và được chia thành bốn nhóm sau đây:
* Nhóm 1: Thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh.
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh trong các trường hợp
sau đây:
1. Làm nơi đóng quân, trụ sở làm việc;
2. Xây dựng căn cứ quân sự;
3. Xây dựng công trình phòng thủ quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về
quốc phòng, an ninh;
4. Xây dựng ga, cảng quân sự;
5. Xây dựng công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao
phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh;
6. Xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân;
7. Làm trường bắn, thao trường, bãi thử vũ khí, bãi hủy vũ khí;
8. Xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm huấn luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng của
lực lượng vũ trang nhân dân;


12


9. Xây dựng nhà công vụ của lực lượng vũ trang nhân dân;
10. Xây dựng cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an
quản lý.
* Nhóm 2: Thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công
cộng. Do đó, Luật Đất đai năm 2013 quy định Nhà nước chỉ thu hồi đất đối với các
dự án đã được Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư; dự án được Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận, quyết định đầu tư và một số trường hợp được Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh xem xét thông qua chủ trương thu hồi đất. Cụ thể như sau:
1. Thực hiện các dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định chủ
trương đầu tư mà phải thu hồi đất;
2. Thực hiện các dự án do Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, quyết định đầu
tư mà phải thu hồi đất, bao gồm:
a) Dự án xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế;
khu đô thị mới, dự án đầu tư bằng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA);
b) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội ở trung ương; trụ sở của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao; công
trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng, công viên,
quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp quốc gia;
c) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật cấp quốc gia gồm giao thông, thủy
lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc; hệ thống dẫn, chứa xăng dầu,
khí đốt; kho dự trữ quốc gia; công trình thu gom, xử lý chất thải;
3. Thực hiện các dự án do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh chấp thuận mà phải
thu hồi đất bao gồm:
a) Dự án xây dựng trụ sở cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội; công trình di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh được xếp hạng,
công viên, quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm, công trình sự nghiệp công cấp
địa phương;


13


b) Dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương gồm giao thông,
thủy lợi, cấp nước, thoát nước, điện lực, thông tin liên lạc, chiếu sáng đô thị; công
trình thu gom, xử lý chất thải;
c) Dự án xây dựng công trình phục vụ sinh hoạt chung của cộng đồng dân
cư; dự án tái định cư, nhà ở cho sinh viên, nhà ở xã hội, nhà ở công vụ; xây dựng
công trình của cơ sở tôn giáo; khu văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí phục vụ công
cộng; chợ; nghĩa trang, nghĩa địa, nhà tang lễ, nhà hỏa táng;
d) Dự án xây dựng khu đô thị mới, khu dân cư nông thôn mới; chỉnh trang đô
thị, khu dân cư nông thôn; cụm công nghiệp; khu sản xuất, chế biến nông sản, lâm
sản, thủy sản, hải sản tập trung; dự án phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;
đ) Dự án khai thác khoáng sản được cơ quan có thẩm quyền cấp phép, trừ
trường hợp khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn,
khoáng sản tại các khu vực có khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ và khai thác tận thu
khoáng sản.
* Nhóm 3: Thu hồi đất do vi phạm pháp luật; đặc biệt đối với trường hợp
không đưa đất đã được giao, cho thuê vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng.
Luật Đất đai năm 2013 quy định chế tài mạnh để xử lý đối với các trường hợp này:
"Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử
dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục hoặc tiến độ SDĐ chậm 24 tháng so với tiến
độ ghi trong dự án đầu tư kể từ khi nhận bàn giao đất trên thực địa phải đưa đất vào
sử dụng; trường hợp không đưa đất vào sử dụng thì chủ đầu tư được gia hạn sử
dụng 24 tháng và phải nộp cho Nhà nước khoản tiền tương ứng với mức tiền SDĐ,
tiền thuê đất đối với thời gian chậm tiến độ thực hiện dự án trong thời gian này; hết
thời hạn được gia hạn mà chủ đầu tư vẫn chưa đưa đất vào sử dụng thì Nhà nước
thu hồi đất mà không bồi thường về đất và tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp
do bất khả kháng".

* Nhóm 4: Thu hồi đất do chấm dứt việc SDĐ theo pháp luật, tự nguyện trả lại
đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người. Bao gồm các trường hợp sau:

14


a) Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền SDĐ, được Nhà nước giao
đất có thu tiền SDĐ mà tiền SDĐ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước bị giải thể,
phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu SDĐ; người SDĐ thuê
của Nhà nước trả tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác,
giảm hoặc không còn nhu cầu SDĐ;
b) Cá nhân SDĐ chết mà không có người thừa kế;
c) Người SDĐ tự nguyện trả lại đất;
d) Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn nhưng không được gia hạn;
đ) Đất ở trong khu vực bị ô nhiễm môi trường có nguy cơ đe dọa tính mạng
con người;
e) Đất ở có nguy cơ sạt lở, sụt lún, bị ảnh hưởng bởi hiện tượng thiên tai khác
đe dọa tính mạng con người.
Thứ ba, hậu quả pháp lí về việc thu hồi đất làm chấm dứt quan hệ pháp luật về
SDĐ giữa Nhà nước và tổ chức, hộ gia đình hoặc cá nhân đã được trao quyền SDĐ
trước đó.
Đối với nhà nước, đáp ứng nhu cầu SDĐ và tạo quỹ đất cần thiết để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển
kinh tế. Còn đối với người SDĐ, thu hồi đất chấm dứt quyền SDĐ đai, gây thiệt hại
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ. Kể từ thời điểm có quyết
định thu hồi đất, người SDĐ không có quyền chuyển nhượng dù là toàn bộ hay một
phần quyền của mình cho người khác. Những chủ thể không phải người SDĐ
nhưng có quyền và nghĩa vụ liên quan tới thửa đất bị thu hồi cũng sẽ chấm dứt hoàn
toàn mối quan hệ với đất bị thu hồi. Tuy nhiên, người SDĐ sẽ nhận được sự bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng phải có những điều kiện nhất định, điều này

không thể bù đắp được những thiệt hại về vật chất và tinh thần của họ. Như chúng
ta đã biết, đất đai thực sự đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội:
Đối với đất nông nghiệp, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn và là tư liệu sản
xuất không thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp; Đối với đất ở, nhất là tại khu

15


vực đô thị, được xem là quyền tài sản có giá trị lớn, đặc biệt là đối với các chủ thể
sản xuất, kinh doanh.
Những phân tích về bản chất thu hồi đất như trên cho ta thấy tính hệ trọng của
sự kiện này. Nó có thể ảnh hưởng đến nhiều đối tượng chứ không chỉ riêng người nắm
giữ quyền SDĐ. Đất đai và bất động sản là sản nghiệp quan trọng đối với người dân vì
có giá trị cao, đồng thời là cơ sở để tiến hành hàng loạt các hoạt động kinh doanh, sản
xuất khác. Do vậy, ngoại trừ các trường hợp vi phạm quy định về SDĐ thì việc thu hồi
đất chỉ nên thực hiện trong những trường hợp hạn hữu thật cần thiết.
1.1.3. Nhu cầu cần thiết của việc thu hồi đất
Thứ nhất, thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: "Phấn đấu đến năm 2020,
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [5]. Tiếp đó, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh mục tiêu: "Đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu
sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Để đạt
được mục tiêu này, chúng ta cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao đi đôi với cải cách thể chế chính trị, v.v. Do vậy, việc thu hồi đất
của người SDĐ để chuyển đổi sang mục đích xây dựng khu, cụm công nghiệp, xây
dựng cơ sở kết cấu hạ tầng, v.v…đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước là điều không tránh khỏi.
Thứ hai, cải thiện, nâng cao đời sống của người dân cũng như đích SDĐ hiệu

quả hơn.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã nhấn mạnh mục tiêu phát
triển kinh tế: "Đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm phát triển nhanh, bền
vững trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng….". "Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, tập trung thực
hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng
nông thôn mới và cải thiện đời sống của nông dân. Đẩy mạnh cơ cấu lại nông

16


nghiệp theo hướng xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao, hàng hóa lớn; tăng
cường ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh; bảo đảm phát triển bền vững, an ninh lương thực quốc gia và vệ sinh
an toàn thực phẩm". Điều này dẫn đến việc Nhà nước phải thu hồi đất đang sử
dụng, đặc biệt trong đó có khá nhiều diện tích đất nông nghiệp để chuyển sang mục
đích này. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra cần phải giải quyết, đó là việc thu hồi đất phải
được tính toán một cách khoa học và dựa trên cơ sở quy hoạch đảm bảo hài hòa
giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội, giữa phát triển công nghiệp, dịch vụ
với bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và sự phát triển bền vững đất nước. Chính
vì vậy, không thể phát triển công nghiệp bằng mọi giá mà phải cẩn trọng đối với
một đất nước có truyền thống nông nghiệp.
Việc thu hồi đất do nhu cầu của Nhà nước sẽ là hợp lí, hợp quy luật và chính
đáng nếu đất đó được khai thác và sử dụng có hiệu quả cho các mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và vì mục tiêu phát triển kinh tế.
Việc thu hồi đất cũng sẽ là tất yếu và nhận được sự đồng lòng, nhất trí cao của
người có đất bị thu hồi nếu đất đó được sử dụng đích thực cho sự nghiệp công
nghiệp hóa, đô thị hóa đất nước và đi kèm với đó là chính sách bồi thường, hỗ trợ
cho người có đất bị thu hồi một cách thỏa đáng, hơn thế nữa là sự bố trí việc làm
gắn liền với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lí, cân bằng.

1.1.4. Những tác động và ảnh hưởng khi Nhà nước thu hồi đất
Khi người SDĐ bị thu hồi, đời sống của người sử dụng có nhiều thay đổi.
Đầu tiên là mất đất và mất nơi ở, mất nguồn thu từ đất và hầu hết phải chuyển sang
nghề khác hoặc chuyển đến nơi khác làm ăn sinh sống. Như vậy kéo theo việc làm,
thu nhập và cơ cấu thu nhập của người dân cũng thay đổi. Đây cũng chính là yếu tố
bị ảnh hưởng nhiều nhất của việc thu hồi đất. Và có những yếu tố cũng bị ảnh
hưởng không kém chính là điều kiện sống và điều kiện sinh hoạt thay đổi.
Những ảnh hưởng tích cực: Trước hết, việc thu hồi đất sẽ tạo điều kiện cho
các khu công nghiệp, khu đô thi được hình thành từ đó cơ sở hạ tầng sẽ được hoàn
thiện hơn, góp phần thu hút vốn đầu tư của nước ngoài cho địa phương, làm cải

17


thiện điều kiện sống và điều kiện sinh hoạt của người dân. Đồng thời,việc thu hồi
đất sẽ làm cho cơ cấu ngành cũng thay đổi theo hướng tích cực (tỷ trọng ngành
nông nghiệp giảm dần) phù hợp với định hướng phát triển của đất nước trong công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việc thu hồi đất tuy làm cho người
đang SDĐ mất đất, mất nguồn thu từ từ đất nhưng bù lại người dân được bồi
thường, hỗ trợ một số tiền để xây dựng nhà cửa, mua sắm, chi tiêu…. Đồng thời có
điều kiện đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống.
Những ảnh hưởng tiêu cực: Đối với người dân sống nhờ vào việc canh tác,
sản xuất, kinh doanh trên đất khi bị thu hồi đất có nghĩa là những hộ dân này mất
nguồn thu từ đất, mất nguồn thu do cây trồng, vật nuôi, kinh doanh, buôn bán trên
đất mang lại. Họ phải chuyển sang nghề khác, nguồn thu nhập của họ cũng bị thay
đổi hoàn toàn. Mặt khác, trình độ học vấn của một số hộ không cao nên chưa có kế
hoạch sử dụng tiền đền bù hợp lý, cũng vì trình độ dân trí thấp và quen với tập quán
canh tác, sản xuất nên khi bị mất đất thì người dân khó tìm được việc làm thích hợp
hơn so với khi còn canh tác, sản xuất trên đất. Từ đó vấn đề việc làm, thu nhập của
những hộ dân mất đất trở thành bài toàn khó của xã hội. Không ít hộ khi có tiền đền

bù, hỗ trợ thì sử dụng lãng phí và sinh ra thêm nhiều tệ nạn cho xã hội khi tiền
không còn.
1.2. Lí luận về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm về hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "Hỗ trợ: Giúp thêm, góp thêm vào"
[43]. Như vậy dưới góc độ ngôn ngữ, hỗ trợ là sự trợ giúp, giúp đỡ của cộng đồng
nhằm san sẻ hay chia sẻ bớt một phần khó khăn, rủi ro mà một thành viên hoặc một
nhóm người gặp phải trong cuộc sống và là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của
người Việt Nam thể hiện sự nhân văn "tương thân, tương ái" với đồng loại. Hoạt
động này bao gồm 2 hình thức: hỗ trợ về vật chất (tiền của hoặc các hiện vật) và hỗ
trợ về tinh thần (động viên, thăm hỏi, an ủi). Thuật ngữ hỗ trợ không chỉ được sử
dụng trong đời sống xã hội mà còn được sử dụng trong lĩnh vực pháp luật nói

18


×