Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG PPP
Ở VIỆT NAM

ĐỖ THỊ LÊ

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG PPP
Ở VIỆT NAM

ĐỖ THỊ LÊ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này do chính tác giả nghiên cứu và
thực hiện. Các kết quả nghiên cứu chưa được công bố toàn bộ nội
dung này bất kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồn trích dẫn trong luận
văn được chú thích nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Tôi hoàn toàn
chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Tác giả

Đỗ Thị Lê


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tác giả xin trân trọng gửi đến TS. Đoàn Trung Kiên, người đã
hướng dẫn tận tình và giúp đỡ tác giả thực hiện luận văn lời cảm ơn chân thành nhất.
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả cũng đã nhận được sự giúp đỡ
hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, các cơ quan, các bạn
bè, đồng nghiệp và gia đình.
Và cuối cùng, tác giả cũng bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đến các đồng
nghiệp đã hết lòng giúp đỡ tác giả trong quá trình thu thập tài liệu, chia sẻ kinh
nghiệm, cám ơn sự quan tâm của gia đình, bạn bè và người thân đã động viên giúp
đỡ, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, ngày ….. tháng…..năm 2017
Tác giả

Đỗ Thị Lê



MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG
PPP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG PPP

6

1.1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư theo theo hợp đồng PPP

6

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư theo hợp đồng PPP

6

1.1.2. Các loại hợp đồng đầu tư theo hình thức PPP

12

1.1.3. Vai trò của đầu tư theo hợp đồng PPP

16

1.2. Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP

18


1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư theo hợp
đồng PPP

18

1.2.2. Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP của một số quốc gia trên
thế giới

20

1.2.3. Lược sử hình thành và phát triển của pháp luật về đầu tư theo hợp
đồng PPP

23

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG
PPP Ở VIỆT NAM

30

2.1. Quy định về các loại hợp đồng đầu tư theo hình thức PPP

30

2.2. Quy định về chủ thể có thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồng đầu
tư theo hình thức PPP

33


2.3. Quy định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện đàm phán, ký kết hợp đồng
đầu tư theo hình thức PPP

37

2.4. Quy định về triển khai thực hiện hợp đồng đầu tư theo hình thức PPP

41

2.4.1. Chuẩn bị dự án

41

2.4.2. Triển khai thực hiện Hợp đồng PPP

42

2.4.3. Quản lý và kinh doanh công trình

45

2.4.4. Chuyển giao công trình và kết thúc hợp đồng dự án

46

2.5. Quy định về ưu đãi và đảm bảo đầu tư đối với nhà đầu tư và doanh
nghiệp dự án
2.5.1. Quy định về ưu đãi đầu tư

48

48


2.5.2. Quy định về đảm bảo đầu tư

49

Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO
HỢP ĐỒNG PPP Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

52

3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt Nam

52

3.1.1. Những kết quả đạt được từ thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư
theo hợp đồng PPP ở Việt Nam

52

3.1.2. Những hạn chế, bất cập từ thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư
theo hợp đồng PPP ở Việt Nam

55

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt Nam

58


3.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hợp
đồng PPP ở Việt Nam

58

3.2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt Nam

62

KẾT LUẬN

66

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

67


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kinh tế Việt Nam trong những năm qua mặc dù đã đạt được những thành tựu
đáng kể nhưng nền kinh tế vẫn được đánh giá là phát triển chưa bền vững, sức cạnh
tranh của nền kinh tế chưa cao, việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế,
kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải. Một trong những điểm nghẽn cản trở sự phát
triển và làm suy giảm lợi thế cạnh tranh về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt
Nam đó chính là kết cấu cơ sở hạ tầng yếu kém. Trong điều kiện ngân sách nhà
nước còn hạn hẹp, vốn ODA có xu hướng giảm dần thì việc thu hút các nguồn vốn
của tư nhân là một chính sách tích cực, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và sự phát triển cơ sở hạ tầng nói
riêng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 cũng xác định: “Hình thành
cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện đại là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và cơ cấu
lại nền kinh tế” và cần phải “đa dạng hóa các hình thức đầu tư, khuyến khích và tạo
điều kiện cho các thành phần kinh tế, kể cả đầu tư nước ngoài tham gia phát triển
kết cấu hạ tầng” [7].
Ở Việt Nam, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông qua các hình thức đối tác
công - tư (PPP) như đầu tư theo hợp đồng Xây dựng - Vận hành - Chuyển giao
(BOT), hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao - Vận hành (BTO) và hợp đồng Xây
dựng - Chuyển giao (BT)… đang ngày càng được coi trọng bởi những lợi ích mà
hình thức đầu tư này đem lại khi tận dụng được lợi thế của nhà nước và khu vực tư
nhân. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật đầu tư của nước ta hiện nay và đặc biệt là pháp
luật đầu tư theo hình thức PPP còn thiếu ổn định, chưa đảm bảo tính thống nhất,
nhiều vấn đề còn mâu thuẫn, chồng chéo với nhau, điều này đã làm hạn chế đầu tư,
ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước. Với mong muốn được nghiên cứu
để làm rõ những hạn chế nêu trên, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP nên tác giả đã

1


quyết định lựa chọn đề tài: “Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt Nam Thực trạng và giải pháp” làm luận văn Thạc si luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đầu tư theo hình thức PPP đã có lịch sử hình thành và phát triển từ nhiều
năm trước ở một số quốc gia trên thế giới và trở nên phổ biến từ những năm 1990.
Có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học và pháp lý về lĩnh vực này, có thể kể
đến một số nghiên cứu gần đây của các quốc gia phát triển như: Nghiên cứu “Khai
thác lợi thế của PPP: Vai trò của chiến lược hỗ trợ tài chính trong phát triển bền
vững” của Colverson và Perera năm 2012; nghiên cứu của Forward và Aldis về

chia sẻ rủi ro trong hình thức hợp tác công tư năm 2009…Ở Việt Nam, vấn đề này
đang ngày càng được nhìn nhận và đánh giá với vị trí, vai trò quan trọng trong việc
phát triển cơ sở hạ tầng, thúc đẩy phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Đã có
khá nhiều hoạt động nghiên cứu, trao đổi về PPP và các hình thức đầu tư theo hợp
đồng BOT, BTO, BT với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu luật học, các cơ
quan tổ chức trong và ngoài nước. Nhiều cuộc hội thảo về chủ đề này đã được tổ
chức như: Hội thảo về “Mô hình đối tác công tư” ngày 13/6/2011, Hội thảo “Đối
tác công - tư (PPP) và Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực hạ tầng,
đặc biệt tập trung vào mua sắm theo hình thức đối tác công - tư (PPP) và cơ chế
lựa chọn của Hàn Quốc” ngày 19/5/2014 của Bộ Kế hoạch - Đầu tư; Hội thảo “Tài
chính cho các dự án hợp tác Công - Tư: Kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt
Nam” ngày 24/9/2013 do Bộ Tài chính Việt Nam chủ trì và phối hợp với Trung tâm
Phát triển Tài chính Châu Á Thái Bình Dương (AFDC) - Bộ Tài chính Trung Quốc
tổ chức thực hiện. Ngoài ra, cũng có một số sách, bài viết, công trình nghiên cứu
của một số nhà khoa học công bố trên các báo, tạp chí chuyên ngành liên quan đến
hình thức đầu tư PPP như: tác phẩm “Phương thức đối tác công tư - Kinh nghiệm
quốc tế và khuôn khổ thể chế tại Việt Nam” của Nxb Tri thức năm 2014; “Hợp tác
công tư: Bản chất và các rủi ro pháp lý” Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
12/2014 của tác giả Võ Trí Hảo; “Một số đề xuất xây dựng hành lang pháp lý đầu
tư theo hình thức đối tác công - tư”, tạp chí Quản lý nhà nước, số 7/2014 của ThS.

2


Nguyễn Huy Hoàng…Ở cấp độ luận văn, luận án, khóa luận tốt nghiệp đã có đề tài
luận án tiến sĩ “Hình thức hợp tác công - tư để phát triển cơ sở hạ tầng đường bộ
Việt Nam” của tác giả Huỳnh Thị Thúy Giang năm 2012; luận văn thạc sĩ “Hoàn
thiện khung pháp lý về PPP để đẩy mạnh việc ứng dụng mô hình PPP cho các dự
án phát triển hạ tầng thông tin tại Việt Nam” của tác giả Trần Thanh Tùng năm
2014…Có thể thấy, các công trình nghiên cứu ở cấp độ cao và các bài viết, tạp chí

thường tập trung nghiên cứu về PPP với những khía cạnh khác nhau, nhưng có ít
công trình nghiên cứu cụ thể, trực diện khung pháp lý về hình thức đầu tư PPP.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung làm rõ các vấn đề lý luận, thực trạng
pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về hợp đồng PPP.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chủ yếu
nghiên cứu các quy định về đầu tư theo hợp đồng PPP tại Luật đầu tư năm 2014 và
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế.
Luận văn cũng đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu đề tài cụ thể,
bao gồm:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu và kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có: Đây
là phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt trong luận văn thông qua việc
tham khảo các tài liệu, kết quả nghiên cứu về đầu tư theo hợp đồng PPP và các vấn
đề có liên quan để làm cơ sở cho việc hệ thống hóa các vấn đề lý luận, pháp lý thuộc
phạm vi nghiên cứu đề tài, cung cấp cái nhìn khách quan, toàn diện hơn trong việc đánh
giá từng nội dung cụ thể của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, suy luận logic: thể hiện thông
qua việc phân tích các quy định pháp luật ở chương 2, so sánh, đối chiếu các quy

3


định trong các văn bản pháp luật khác nhau, cùng với việc đánh giá thực tiễn thực
hiện, từ đó tổng hợp, tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả hoạt động ở chương 3.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở của việc luận giải một số vấn đề
lý luận có liên quan, phân tích cụ thể các quy định của pháp luật về đầu tư theo hợp
đồng PPP, đánh giá thực tiễn thực hiện, luận văn sẽ đề xuất những kiến nghị hoàn
thiện các quy định của pháp luật đầu tư theo hợp đồng PPP và các giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài xác định những nhiệm vụ nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về đầu tư theo hợp đồng PPP và pháp luật
đầu tư theo theo hợp đồng PPP bao gồm khái niệm, đặc điểm, các hình thức phổ
biến của đầu tư theo hình thức PPP; cùng với đó là khái niệm và nội dung cơ bản
của pháp luật đầu tư theo hợp đồng PPP; pháp luật của một số nước trên thế giới và
lược sử hình thành pháp luật đầu tư theo hợp đồng PPP của Việt Nam.
- Phân tích các quy định của pháp luật đầu tư theo hợp đồng PPP về các loại
hợp đồng, về chủ thể, lĩnh vực đầu tư, phân loại dự án, nguồn vốn, trình tự thực
hiện, các ưu đãi và bảo đảm đầu tư, quản lý nhà nước về đầu tư theo hợp đồng PPP.
- Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP, từ đó
đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đầu tư theo hợp đồng PPP và pháp luật
về đầu tư theo hợp đồng PPP.

4


Chương 2: Thực trạng pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt Nam
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP ở Việt
Nam và một số giải pháp


5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG
PPP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ THEO HỢP ĐỒNG PPP
1.1. Một số vấn đề lý luận về đầu tư theo hợp đồng PPP
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư theo hợp đồng PPP
Mô hình hợp tác công tư theo tiếng Anh có nghĩa là Public - PrivatePartnership (viết tắt là PPP) được áp dụng trong việc xây dựng các kênh đào ở
Pháp vào thế kỷ 18 và các cây cầu ở Anh vào thế kỷ 19. Tuy nhiên, mô hình này
chỉ thực sự bắt đầu phổ biến trên thế giới từ thập niên 1980 và nó đã đóng vai trò
nhất định trong việc phát triển cơ sở hạ tầng ở các nước phát triển. Hiện nay trên
thế giới chưa có một định nghĩa thống nhất về thuật ngữ “hợp tác công tư”
(PPP). Mỗi quốc gia, mỗi tổ chức quốc tế đều có một cách hiểu riêng phù hợp
với quá trình áp dụng của mình tuy nhiên, hai định nghĩa sau được sử dụng phổ
biến và được nhiều nước áp dụng:
Theo ADB thì “Hợp tác công tư dùng để chỉ các quan hệ hợp tác có thể có
của khu vực nhà nước và khu vực tư nhân trên cơ sở một hợp đồng. Mục đích cao
nhất của hợp tác công tư là nhắm tới sự sẵn có của nguồn lực, chất lượng, tính hiệu
quả trong cung cấp dịch vụ và việc sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn vốn” [1].
Khác với ADB, ủy ban Châu Âu không đưa ra một định nghĩa cụ thể về thuật
ngữ hợp tác công tư mà sử dụng các đặc trưng tổng quan về định nghĩa các dự án
hợp tác công Tu. Theo đó, hợp tác công tư được hiểu là:
- Các mối quan hệ tương đối lâu dài giữa đối tác nhà nước và đối tác tư nhân
trên tất cả các khía cạnh của một dự án đã được lập kế hoạch từ trước.
- Cơ cấu vốn là sự liên kết các nguồn vốn của khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân.

6



- Tổ chức chịu trách nhiệm vận hành tức khu vực tư nhân đóng vai trò quan
trọng trong từng giai đoạn cụ thể của dự án.
- Có sự phân chia rủi ro giữa hai bên đối tác là khu vực nhà nước và khu vực
tư nhân.
Bên cạnh đó, còn có một số định nghĩa như sau:
- Theo Word Bank thì: “PPP việc chuyển giao cho khu vực tư nhân các dự
án đầu tư mà theo truyền thống thì đó là các dự án phải do Nhà nước đầu tư vận
hành” [23].
- Hội đồng hợp tác giữa nhà nước - tư nhân Canada đưa ra định nghĩa: “PPP
là một liên doanh hợp tác giữa khu vực công và tư, dựa trên lợi thế của mỗi bên
nhằm xác định nhu cầu của cộng đồng thông qua sự phân bố hợp lý các nguồn lực,
rủi ro và lợi ích” [36].
- Chile cho rằng: “PPP là một cơ chế đặc biệt để thực hiện các dự án/công
trình công, theo những điều khoản cụ thể nêu trong một hợp đồng được ký kết sau
quá trình đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư”.
- Bộ Tài chính và Kinh tế ở Anh cho rằng: “PPP là quan hệ cộng tác giữa
khu vực công và khu vực tư và có thể thực hiện trên nhiều lĩnh vực để hiện thực hóa
các chính sách cung cấp dịch vụ và công trình kết cấu hạ tầng” [38].
Ở Việt Nam tại Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 02
năm 2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư quy định: “Đầu tư theo hình
thức đối tác công tư là hình thức đầu tư thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án để thực hiện, quản lý,
vận hành dự án kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công” [8].
Có thể thấy PPP được diễn giải theo nhiều cách khác nhau nhưng các quan
điểm đều nêu lên bản chất của hình thức hợp tác này, theo đó có hiểu khái quát:
“PPP là một hình thức hợp tác trên cơ sở hợp đồng giữa hai chủ thể là Nhà nước
(các bộ, ngành, cơ quan địa phương, doanh nghiệp nhà nước và nhà đầu tư Tư


7


nhân trong nước hoặc ngoài nước để chia sẻ lợi ích, rủi ro và trong việc thực hiện
một dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và cung cấp dịch vụ công
trong các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục, giao thông, điện…”
Như vậy, hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư là cơ sở pháp lý của
mô hình PPP. Khoản 8 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 định nghĩa về hợp đồng này
như sau: “Hợp đồng đầu tư theo hình thức đối tác công tư (sau đây gọi là hợp đồng
PPP) là hợp đồng được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư,
doanh nghiệp dự án để thực hiện dự án đầu tư theo quy định tại Điều 27 của Luật
Đầu tư năm 2014”.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra được những đặc điểm sau đây của hợp
đồng PPP:
* Về chủ thể của hợp đồng:
Hợp đồng PPP đều được giao kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
nhà đầu tư.
- Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14
tháng 02 năm 2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồng dự án là Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh là cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng dự án thuộc chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình và thực hiện các quyền, nghĩa vụ trên cơ sở
thỏa thuận với nhà đầu tư tại hợp đồng dự án. Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và điều kiện quản lý cụ thể, Bộ, ngành được ủy quyền cho tổ chức thuộc Bộ,
ngành; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan chuyên môn của
mình hoặc Ủy ban nhân dân cấp huyện ký kết và thực hiện hợp đồng dự án nhóm
B và nhóm C.
Như vậy, khác với quan hệ hợp đồng hợp tác kinh doanh, chủ thể là các tổ
chức, cá nhân bỏ vốn để tiến hành hoạt động đầu tư; hợp đồng dự án có sự tham gia
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tư cách một bên trong quan hệ hợp đồng.


8


Các cơ quan nhà nước khi tham gia hợp đồng dự án nhằm mục đích giảm bớt gánh
nặng tài chính của việc đầu tư phát triển hạ tầng để tập trung nguồn vốn ngân sách
vào các nhiệm vụ phát triển đất nước. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải thực
hiện các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm theo thoả thuận với nhà đầu tư trong hợp
đồng dự án. Tùy thuộc tính chất, quy mô của từng dự án, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền có thể thành lập bộ phận chuyên trách hoặc chỉ định cơ quan chuyên môn của
mình là đầu mối tổ chức thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo thoả thuận trong hợp
đồng dự án nhưng trong mọi trường hợp phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các
nghĩa vụ đã cam kết theo hợp đồng dự án.
- Nhà đầu tư là chủ thể của hợp đồng PPP bao gồm các tổ chức, cá nhân thực
hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên
quan (Khoản 8 Điều 3 Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng
02 năm 2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công tư). Như vậy, theo quy định
của pháp luật luật hiện hành, mọi nhà đầu tư, không phân biệt là nhà đầu tư trong
nước hay nhà đầu tư nước ngoài đều có thể tham gia đấu thầu dự án và nếu trúng
thầu, sẽ được tham gia đàm phán, ký kết hợp đồng dự án với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.
* Về đối tượng của hợp đồng PPP:
Không giống như hợp đồng hợp tác kinh doanh, các hợp đồng PPP nói chung
đều có đối tượng là các công trình kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
Theo quy định tại Điều 27 Luật Đầu tư năm 2014, Nhà đầu tư, doanh nghiệp dự án
ký kết hợp đồng PPP với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện dự án đầu
tư xây dựng mới hoặc cải tạo, nâng cấp, mở rộng, quản lý và vận hành công trình
kết cấu hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công.
Điều 4 Nghị định 15/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14 tháng 02 năm 2015
về đầu tư theo hình thức đối tác công tư đã quy định cụ thể đối tượng của hợp đồng

PPP như sau:.
- Công trình kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và các dịch vụ có liên quan;

9


- Hệ thống chiếu sáng; hệ thống cung cấp nước sạch; hệ thống thoát nước;
hệ thống thu gom, xử lý nước thải, chất thải; nhà ở xã hội; nhà ở tái định cư;
nghĩa trang;
- Nhà máy điện, đường dây tải điện;
- Công trình kết cấu hạ tầng y tế, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, văn hóa, thể
thao và các dịch vụ liên quan; trụ sở làm việc của cơ quan nhà nước;
- Công trình kết cấu hạ tầng thương mại, khoa học và công nghệ, khí tượng
thủy văn, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu công nghệ thông
tin tập trung; ứng dụng công nghệ thông tin;
- Công trình kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn và dịch vụ phát triển liên
kết sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp;
- Các lĩnh vực khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
* Nội dung của hợp đồng PPP:
Nội dung của hợp đồng PPP đều bao gồm các thoả thuận về các nội dung của
hoạt động xây dựng, kinh doanh và chuyển giao các công trình kết cấu hạ tầng hoặc
liên quan đến nội dung cung cấp dịch vụ công. Chẳng hạn các hợp đồng: BOT,
BTO, BT, BOO, BTL... thì nội dung quan trọng là quyền và nghĩa vụ của nhà đầu
tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến việc xây dựng, kinh doanh và
chuyển giao các công trình kết cấu hạ tầng. Theo đó, nhà đầu tư có nghĩa vụ xây
dựng công trình và bàn giao công trình đó cho Nhà nước vào những thời điểm cụ
thể. Đối với hợp đồng BOT, nhà đầu tư được quyền kinh doanh ngay tại công trình
mà mình xây dựng, sau một khoảng thời gian nhất định mới phải chuyển giao công
trình đó cho nhà nước. Đối với hợp đồng BTO, nhà đầu tư sau khi xây dựng phải
chuyển giao ngay công trình cho nhà nước nhưng vẫn được Nhà nước cho phép

kinh doanh tại công trình đó trong một thời han nhất định. Khác với hợp đồng BOT
và BTO, nhà đầu tư sau khi xây dựng xong công trình theo hợp đồng BT phải
chuyển giao ngay công trình đó cho Nhà nước và được Chính phủ tạo điều kiện cho
nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán

10


cho nhà đầu tư theo thoả thuận trong hợp đồng. Còn hợp đồng BOO sau khi hoàn
thành công trình, nhà đầu tư sở hữu và được quyền kinh doanh công trình đó trong
một thời hạn nhất định. Trong khi hợp đồng BTL sau khi hoàn thành công trình, nhà
đầu tư chuyển giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và được quyền cung cấp
dịch vụ trên cơ sở vận hành, khai thác công trình đó trong một thời hạn nhất định;
cơ quan nhà nước có thẩm quyền thuê dịch vụ và thanh toán cho nhà đầu tư theo các
điều kiện nhất định.
* Mục đích của các bên khi ký kết hợp đồng PPP:
Như trên đã phân tích, đối tượng của Hợp đồng PPP là các công trình kết cấu
hạ tầng hoặc cung cấp dịch vụ công vốn dĩ do nhà nước phải đảm nhận trực tiếp đầu
tư và nhà nước tham gia hợp đồng dự án nhằm đưa ra những bảo đảm cho nhà đầu
tư, đồng thời theo dõi, quản lý các hoạt động đầu tư và các cam kết của nhà đầu tư
đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng. Mục đích của nhà nước khi tham gia Hợp đồng
PPP là nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế - xã hội, một chức năng quản lý của
nhà nước.
Trong khi đó Nhà đầu tư tham gia Hợp đồng PPP không nhằm mục đích nào
khác ngoài kinh doanh kiếm lời. Họ không quan tâm đến các yếu tố công của Hợp
đồng PPP, mà chỉ đơn thuần tiến hành hoạt động kinh doanh như tất cả các công
việc kinh doanh khác. Như các hợp đồng thông thường khác, Hợp đồng PPP là sự
thể hiện ý chí, tự do, tự nguyện của nhà đầu tư. Chính hạt nhân kinh doanh này đã
quyết định và chi phối yếu tố tư của Hợp đồng PPP, xác định tính chất bình đẳng về
địa vị pháp lý của các chủ thể Hợp đồng PPP.

Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong Hợp đồng PPP được
thực hiện trực tiếp bởi khu vực tư nhân, nên khi nói về hợp đồng này người ta
thường nghĩ về yếu tố “tư” nhiều hơn là yếu tố “công”. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
vai trò điều tiết, chỉ đạo và hỗ trợ của nhà nước là không thể thiếu, đôi khi quyết
định sự thành công hay thất bại của việc thực hiện Hợp đồng PPP.
Tính đặc thù về mặt chủ thể của Hợp đồng PPP đã chi phối tới

mục đích

của các bên tham gia hợp đồng này, đòi hỏi phải giải quyết một cách hợp lý các yếu

11


tố “công” và “tư” trong hợp đồng PPP. Yếu tố “tư” ở đây được hiểu là yếu tố
thương mại trong hợp đồng, hay nói cách khác là mục đích kinh doanh cũng như sự
tham gia của khu vực tư nhân trong hoạt động xây dựng kết cấu hạ tầng hoặc cung
cấp dịch vụ công. Yếu tố “công” được hiểu là vai trò, sự tham gia của nhà nước thể
hiện trong các quy định của Hợp đồng PPP.
1.1.2. Các loại hợp đồng đầu tư theo hình thức PPP
Hình thức đầu tư theo hợp đồng PPP được thực hiện thông qua các hợp đồng
trong đó có các điều khoản mà khu vực nhà nước chuyển giao một số quyền hoặc
đặc quyền sang cho khu vực tư nhân để thực hiện một dự án nào đó. PPP có hai
hình thức cơ bản là trao quyền vận hành và trao quyền đầu tư. Ở mô hình trao
quyền vận hành, nhà nước vẫn giữ quyền sở hữu với các công trình công cộng
còn tư nhân thì sẽ thực hiện vận hành và cung cấp các hàng hóa hoặc dịch vụ đã
được cam kết trong các điều khoản hợp đồng. Đối với mô hình trao quyền đầu
tư, khu vực tư nhân sẽ chịu trách nhiệm cung cấp vốn và vận hành các công trình
và có thể sở hữu tài sản trong một khoảng thời gian còn nhà nước sẽ phải đáp
ứng các ưu đãi cho các nhà đầu tư Tư nhân như thỏa thuận. Trên thế giới, có

nhiều loại hợp đồng PPP nhưng một số loại hợp đồng dưới đây là dạng phổ biến
được nhiều quốc gia áp dụng:
1.1.2.1. Hợp đồng dịch vụ
Đây là dạng hợp đồng thỏa thuận giữa một cơ quan/đơn vị thuộc khu vực
công (sau đây gọi là cơ quan nhà nước) có thẩm quyền với một đơn vị/công ty tư
nhân, trong đó cơ quan nhà nước thuê đơn vị tư nhân thực hiện một hoặc một số
nhiệm vụ trong một thời gian nhất định. Khi đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền là
người cung cấp chính các dịch vụ cơ sở hạ tầng và chỉ thuê các đối tác tư nhân điều
hành một phần hoạt động. Đối tác tư nhân phải thực hiện dịch vụ với một mức chi
phí được thỏa thuận và thường được đáp ứng các tiêu chuẩn hoạt động do cơ quan
nhà nước đặt ra. Trong các hợp đồng dịch vụ, Chính phủ phải trả đối tác tư nhân
một khoản phí định trước cho dịch vụ, có thể dựa trên cơ sở chi phí một lần, trên cơ

12


sở chi phí đơn vị dịch vụ hoặc dựa trên các cơ sở khác. Vì thế, lợi nhuận của nhà
thầu sẽ tăng lên nếu nhà thầu có thể giảm được chi phí điều hành mà vẫn đáp ứng
được các yêu cầu tiêu chuẩn dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ thông thường thích hợp
nhất khi dịch vụ có thể xác định rõ ràng trong hợp đồng, mức độ nhu cầu tương đối
chắc chắn và việc thực hiện có thể theo dõi một cách dễ dàng.
Các hợp đồng dịch vụ là một lựa chọn có độ rủi ro tương đối thấp trong việc
mở rộng vai trò của khu vực tư nhân và có tác động nhanh đối với hoạt động và tính
hiệu quả của hệ thống, đây là một phương thức để chuyển giao công nghệ và phát
triển năng lực quản lý. Các hợp đồng dịch vụ thường có thời gian ngắn, tạo điều
kiện cho cạnh tranh liên tục trong nhiều lĩnh vực. Các rào cản đối với việc tham gia
cũng ở mức thấp căn cứ trên việc chỉ có một hoạt động dịch vụ riêng biệt được đưa
ra đấu thầu. Bên cạnh đó, việc đấu thầu lặp đi lặp lại duy trì áp lực đối với các nhà
đấu thầu phải duy trì chi phí thấp, trong khi các rào cản ở mức thấp khuyến khích
nhiều công ty tham gia cạnh tranh với nhau. Tuy nhiên, loại hợp đồng nay thường ít

rủi ro và thường được áp dụng để đáp ứng nhu cầu hàng hóa nhà nước.
1.1.2.2. Hợp đồng quản lý
Đây là hình thức hợp đồng giữa cơ quan nhà nước (khu vực công) với đối tác
tư nhân, trong đó thỏa thuận cho khu vực tư nhân được quản lý một tiện ích hay
dịch vụ công. Đặc điểm của hình thức này:
-

Nghĩa vụ cung cấp dịch vụ công thuộc trách nhiệm của khu vực nhà nước,

hoạt động quản lý kiểm soát và thẩm quyền xử lý hàng ngày được giao cho đối tác
tư nhân.
-

Cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm quy định biểu phí dịch vụ đối với khách

hàng sử dụng.
-

Đối tác tư nhân cung cấp vốn cho hoạt động quản lý, điều hành nhưng không

có nhiệm vụ cung cấp vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
-

Đối tác tư nhân được trả một khoản phí theo thỏa thuận dựa trên chi phí lao

động và các chi phí điều hành dự kiến khác.

13



Ưu điểm chính của phương án này là có thể đạt được những kết quả hoạt
động từ việc quản lý của khu vực tư nhân mà không phải chuyển giao các tài sản
cho khu vực tư nhân. Xây dựng hợp đồng quản lý tương đối dễ dàng hơn so với các
phương án khác và hợp đồng quản lý có chi phí thấp do các nhà điều hành cần ít
nhân viên hơn cho các dịch vụ công.
1.2.1.3. Hợp đồng nhượng quyền khai thác/cho thuê
Hoạt động nhượng quyền cho phép nhà điều hành tư nhân (người được
nhượng quyền) chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ dịch vụ trong khu vực cụ thể bao
gồm việc điều hành, duy trì bảo dưỡng, thu phí, quản lý xây dựng và tu bổ hệ thống.
Khi đó, nhà điều hành tư nhân chịu trách nhiệm đối với toàn bộ khoản đầu tư vốn,
khu vực nhà nước chịu trách nhiệm thiết lập các tiêu chuẩn hoạt động và đảm bảo
người được nhượng quyền đáp ứng được các tiêu chuẩn của hoạt động đó; nói cách
khác là nhà nước chuyển từ việc là người cung cấp dịch vụ sang là người điều tiết
và quản lý chất lượng dịch vụ.
Đối với loại hợp đồng này thì người được nhượng quyền sẽ thực hiện thu phí
trực tiếp từ những người sử dụng hệ thống và chịu trách nhiệm đối với bất kỳ khoản
đầu tư cần thiết nào để xây dựng, nâng cấp hoặc mở rộng hệ thống và chịu trách
nhiệm thu xếp vốn cho các khoản đầu tư đó từ nguồn lực tài chính của mình và từ
các khoản phí do người sử dụng hệ thống chi trả.
- Nhượng quyền khai thác: Là hình thức PPP trong đó cơ quan nhà nước
nhượng lại quyền vận hành khai thác và cung cấp dịch vụ công cho đối tác tư nhân
dựa trên các tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có, thuộc quyền sở hữu của khu vực
nhà nước. Đối với hình thức này thì đối tác tư nhân được phép thu phí từ người sử
dụng dịch vụ và trả một khoản phí cho cơ quan nhà nước theo tỷ lệ trên một đơn vị
dịch vụ bán ra, đồng thời được phép giữ lại một phần doanh thu từ việc cung cấp
dịch vụ công.
- Nhượng quyền cho thuê: Với hình thức này, cơ quan nhà nước cho đối tác
tư nhân thuê tài sản/tiện ích/cơ sở hạ tầng sẵn có thuộc sở hữu của cơ quan nhà

14



nước để thực hiện khai thác, vận hành và cung cấp các dịch vụ công. Theo đó, đối
tác tư nhân phải thanh toán tiền thuê cho cơ quan nhà nước một khoản cố định,
không phụ thuộc vào khả năng thu phí từ người sử dụng và đối tác tư nhân chịu
hoàn toàn rủi ro kinh doanh.
Nhượng quyền là một hình thức hiệu quả để thu hút nguồn tài chính cần thiết
của khu vực tư nhân để tài trợ cho việc xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở dịch vụ
hiện tại. Hợp đồng về nhượng quyền (khai thác, cho thuê) có đặc điểm:
- Đối tác tư nhân được nhượng quyền chịu trách nhiệm cung cấp toàn bộ
dịch vụ trong một khu vực cụ thể, bao gồm việc điều hành, bảo dưỡng, thu phí và quản
lý hệ thống, đồng thời đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ liên quan đến chất lượng và tiêu
chuẩn của dịch vụ. Bên cạnh đó, khu vực nhà nước chịu trách nhiệm thiết lập các tiêu
chuẩn chất lượng dịch vụ và tiêu chuẩn hoạt động, đồng thời đảm bảo lựa chọn đối tác
tư nhân được nhượng quyền đáp ứng được các tiêu chuẩn hoạt động đó.
- Các tài sản/ cơ sở hạ tầng vẫn thuộc quyền sở hữu của khu vực nhà nước.
- Chính phủ chịu trách nhiệm đầu tư để hình thành tài sản và do đó chịu rủi ro
đầu tư. Các rủi ro hoạt động được chuyển giao cho nhà khai thác (đối tác tư nhân).
Hình thức nhượng quyền này thường được sử dụng trong trường hợp khi cơ
quan quản lý nhà nước muốn kết hợp tài chính công với hiệu quả khai thác của khu
vực tư nhân và thời hạn của hợp đồng này thường là 8 - 10 năm hoặc kéo dài lâu
hơn. Trên thực tế có nhiều trường hợp nhượng quyền khai thác nhưng không xác
định thời hạn thì với các hợp đồng này, đối tác tư nhân chịu trách nhiệm cho tất cả
các quyết định kinh doanh, bao gồm cả vốn đầu tư, thủ tục hoạt động và kiểm soát
toàn bộ hoặc phần lớn các chính sách giá cả. Trong một số trường hợp, Chính phủ,
cơ quan nhà nước vẫn có thể thu hồi nhượng quyền khai thác nếu các điều khoản
của hợp đồng nhượng quyền bị vi phạm.
1.2.1.4. Hợp đồng nhượng quyền đầu tư
Các hình thức BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao), BOO (xây dựng sở hữu - vận hành), BOOT (xây dựng - sở hữu - vận hành - chuyển giao)… là


15


những hình thức phổ biến của nhượng quyền đầu tư. Theo đó, BOT và các thỏa
thuận tương tự như trên là một hình thức nhượng quyền được chuyên môn hóa
trong đó có một công ty tư nhân cung cấp vốn và xây dựng một dự án cơ sở hạ tầng
mới hoặc một hợp phần chính của dự án cơ sở hạ tầng căn cứ trên các tiêu chuẩn
thực hiện do Chính phủ quy định.
Đối với các hình thức hợp đồng này thì đối tác tư nhân cung cấp vốn đầu tư
cần thiết để xây dựng cơ sở dịch vụ mới, nhà đầu tư được quyền sở hữu tài sản
trong một khoảng thời gian quy định trong hợp đồng mà các bên đã tính toán hợp lý
để cho đối tác tư nhân xây dựng cơ sở hạ tầng thu hồi chi phí đầu tư thông qua việc
thu phí của người sử dụng. Bên cạnh đó, khu vực nhà nước đồng ý mua một tỷ lệ tối
thiểu sản lượng mà cơ sở dịch vụ tạo ra, đủ để nhà điều hành tư nhân thu hồi được
chi phí trong quá trình hoạt động.
1.1.3. Vai trò của đầu tư theo hợp đồng PPP
Với việc tận dụng được những lợi thế của hai đối tác Nhà nước và tư nhân,
đầu tư theo hợp đồng PPP thể hiện vai trò rất to lớn trong việc mang lại lợi ích cho
cả Nhà nước, khu vực tư nhân và người dân sử dụng dịch vụ - sản phẩm
* Vai trò của đầu tư theo hợp đồng PPP đối với Nhà nước
- Tạo điều kiện tốt để Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng
Đi cùng với xây dựng kiến trúc thượng tầng là xây dựng cơ sở hạ tầng phù
hợp, đảm bảo cung ứng công cộng đầy đủ, cải thiện chất lượng cuộc sống của người
dân. Đây là cam kết và là nhiệm vụ của bất kỳ nhà nước nào. Tuy nhiên, việc duy trì
phương thức đầu tư truyền thống là Nhà nước sử dụng ngân sách, tự thiết kế, xây
dựng và quản lý các công trình công cộng sẽ gây ra sự lãng phí lớn và chắc chắn
không hiệu quả, do những lối mòn trong tư duy xây dựng và quản lý, chưa kể những
hậu quả nghiêm trọng khác như tham nhũng, nợ công tăng cao… Nếu áp dụng các
hình thức đối tác công tư mà phổ biến nhất là đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT,
BOO, BLT, BTL… trong xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng công cộng, Nhà

nước sẽ không chỉ giảm áp lực về Ngân sách đầu tư ban đầu, mà còn tận dụng được

16


những lợi thế từ khu vực tư nhân, từ quá trình nghiên cứu thiết kế cho đến quá trình
khai thác quản lý công trình. Hơn nữa, Nhà nước không trực tiếp tham gia xây dựng
mà chỉ tham gia giám sát và quản lý. Như vậy, đầu tư theo hợp đồng PPP sẽ giúp
Nhà nước tiết kiệm thời gian, do đó cùng lúc có thể xây dựng nhiều công trình công
cộng khác nhau, đồng thời đảm bảo tính đồng bộ trong quy hoạch, kiến trúc.
- Phân bổ và quản lý rủi ro tốt hơn cho các bên tham gia ký kết

hợp đồng

Chìa khóa thành công cho các hình thức đầu tư theo mô hình PPP là việc
chia sẻ rủi ro, nhằm thiết lập cán cân lợi ích cân bằng giữa các bên. Khi tham gia
các dự án PPP, Nhà nước sẽ chia sẻ được những rủi ro liên quan đến huy động,
quản lý và sử dụng vốn cho nhà đầu tư Tư nhân. Đây chính là một trong những thế
mạnh của khu vực tư nhân. Đổi lại, bản thân Nhà nước cũng chia sẻ với Nhà đầu tư
Tư nhân các rủi ro liên quan đến thể chế, cộng đồng hay bảo lãnh vay vốn.
- Tiết kiệm chi phí đầu tư
Hầu hết các dự án PPP, điển hình là đầu tư theo hình thức BOT, BTO cần dịch
vụ vận hành và bảo trì trong suốt vòng đời của dự án và việc này nên được giao cho
khu vực tư nhân đảm nhiệm. Do vậy, khu vực tư nhân sẽ có động lực và các giải pháp
(về công nghệ, quản lý, sử dụng nguồn lực…) nhằm giảm thiểu chi phí (vận hành và
bảo trì) trong suốt vòng đời của công trình. Trong khi đó, Nhà nước khó có thể đảm
bảo được điều này do những hạn chế về ngân sách. Hơn nữa, việc giao cho đối tác tư
nhân các công việc trên cũng phản ánh bản chất tổng thể của một dự án PPP.
- Góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ cung ứng
Các dự án đầu tư theo hợp đồng PPP phần lớn dựa vào nguồn vốn cũng như

kinh nghiệm quản lý của nhà đầu tư Tư nhân, mà bản thân các nhà đầu tư này vốn
không hoạt động dựa vào ngân sách, nên họ biết cách quản lý và tận dụng hiệu quả
nguồn vốn, tránh xảy ra tham nhũng, lãng phí. Hơn hết, khi tham gia vào các dự án
đầu tư theo hợp đồng PPP, nhà đầu tư Tư nhân chịu sự ràng buộc về các cam kết
hiệu suất, nên đây chính là động lực để họ thực hiện tốt nhất các nghĩa vụ của mình,
kéo theo chất lượng dịch vụ cung ứng cũng được đảm bảo hơn.

17


* Vai trò của đầu tư theo hợp đồng PPP đối với đối tác tư nhân
- Tạo cơ hội phát triển dài hạn cho khu vực tư nhân
Do bản chất các hợp đồng PPP là hợp đồng dài hạn nên khi tham gia ký kết,
các nhà đầu tư Tư nhân bị ràng buộc thực hiện các cam kết trong một thời gian
tương đối dài, đổi lại sẽ được thanh toán dựa trên hiệu suất thi công. Vì vậy, hình
thức đầu tư theo hợp đồng PPP sẽ tạo cơ hội đầu tư dài hạn và

an toàn cho nhà

đầu tư Tư nhân. Tính an toàn được thể hiện trong các cam kết của Nhà nước khi
giao kết hợp đồng PPP: cam kết về thanh toán, bồi thường, ưu đãi đầu tư, cung cấp
đầy đủ các dịch vụ công cộng có liên quan như điện, nước…Việc ký kết các hợp
đồng đầu tư theo hợp đồng PPP sẽ góp phần tạo sự tăng trưởng ổn định cho khu vực
tư nhân, góp phần phát triển địa phương thông qua cơ hội việc làm cho lao động,
tận dụng các lợi thế tài nguyên sẵn có.
- Tăng tính cạnh tranh và năng động cho khu vực tư nhân
Vì thời gian kéo dài và tiềm ẩn nhiều rủi ro, nên Nhà nước thường lựa chọn ký
kết hợp đồng với các nhà đầu tư Tư nhân có kinh nghiệm và đặc biệt khi họ chứng
minh được năng lực tài chính, chuyên môn vững mạnh. Các nhà đầu tư sẽ phải cạnh
tranh thông qua đấu thầu trước khi giao kết hợp đồng PPP. Đây sẽ là động lực để các

nhà đầu tư trau dồi thêm kinh nghiệm, tăng cường năng lượng cạnh tranh.
Hơn nữa, sau khi đã ký kết hợp đồng PPP, nhà đầu tư Tư nhân còn liên kết
với nhiều chủ thể khác như các tổ chức tài chính, các nhà thầu phụ, công ty bảo
hiểm…để thực hiện hợp đồng. Quá trình này sẽ giúp họ không chỉ mở rộng các
quan hệ hợp tác trong dài hạn, mà còn giúp họ tạo tự tạo các kênh phân bổ rủi ro
cho chính mình.
1.2. Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP

1.2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP
Mô hình PPP là việc Nhà nước và nhà đầu tư cùng phối hợp thực hiện dự án
phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án. Với

18


mô hình PPP, Nhà nước sẽ thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ và tư nhân
được khuyến khích cung cấp bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. Đây
là hình thức hợp tác tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và cung cấp dịch vụ công cộng chất
lượng cao, nó mang lại lợi ích cho cả Nhà nước và người dân.
Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP là công cụ để điều chỉnh quá trình
đầu tư theo phương thức hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân với mục đích phù hợp ý
chí của Nhà nước và phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo đảm lợi
ích của các bên tham gia vào hợp đồng. Pháp luật về hợp đồng đầu tư theo hình
thức PPP bao gồm tổng thể các quy định của pháp luật đầu tư bao gồm: hình thức
của hợp đồng; chủ thể đàm phán, ký kết hợp đồng, các ưu đãi được áp dụng trong
hợp đồng PPP. Mỗi quy định trong pháp luật về hợp đồng PPP được thể hiện thành
các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật và được quy định tại các văn
bản như Luật Đầu tư, Luật đầu tư Công, Luật Đấu thầu, Nghị định của Chính phủ,
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Ở Việt Nam, pháp luật về hợp đồng theo
hình thức đối tác công tư PPP được quy định với các điều khoản, nội dung thể hiện

mục tiêu xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường đầu tư, tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần phát triển kinh tế - xã hội cũng như tạo môi
trường cho các nhà đầu tư hợp tác tại Việt Nam.
Pháp luật về đầu tư theo hợp đồng PPP gồm những nội dung cơ bản sau:
- Quy định về các hình thức của hợp đồng để từ đó có sự phân biệt giữa các
hình thức đầu tư, cách thức áp dụng, chủ thể thực hiện, lĩnh vực đầu tư, dự án đầu
tư, vốn thực hiện dự án, ưu đãi đầu tư sẽ có sự khác nhau. Từ đó, khi một dự án
được hình thành thì lựa chọn hình thức đầu tư theo mô hình nào sẽ được Nhà nước
quyết định để từ đó tạo cơ hội cho các nhà đầu tư Tư nhân có tiềm năng sẽ tham gia
phát triển dự án đó.
- Đối với các quy định về chủ thể của hợp đồng PPP thì hai chủ thể đặc
trưng và phổ biến là đối tác công và đối tác tư nhân. Các quy định của

pháp luật

về hợp đồng PPP đều ghi nhận rõ ràng về chủ thể của từng hình thức hợp đồng

19


×