Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 73 trang )

TÔ NĂNG NHƯLUẬT KINH TẾ

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
2015 - 2017

ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DO
XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

TÔ NĂNG NHƯ

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM DO
XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TÔ NĂNG NHƯ

CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH TẾ
MÃ NGÀNH: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ

Hà Nội, 9/2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực./.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Tô Năng Như


LỜI CẢM ƠN
Trước hết em xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo Viện Đại học
Mở Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô trong Ban Giám hiệu và Khoa Luật, đã luôn giúp
đỡ, tạo điều kiện cho học viên trong quá trình học tập bậc cao học tại nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn về sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của TS. Lê Đình
Nghị đã hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn thạc sỹ này./.
Hà Nội, ngày….. tháng……. năm 2017
Tác giả luận văn

Tô Năng Như


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
DO XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG.............................. 5

1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng ............................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng ...................................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng ...................................................................................... 7
1.2. Người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng ........................ 11
1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng ........................................................ 11
1.2.2. Quyền lợi người tiêu dùng ......................................................... 14
Kết luận Chương 1 ..................................................................................... 17
Chương 2: NỘI DUNG CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ DO XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH .................................................. 18
2.1. Có thiệt hại cho người tiêu dùng ..................................................... 18
2.1.1. Thiệt hại về vật chất ................................................................... 19
2.1.2. Thiệt hại về tinh thần ................................................................. 20
2.2. Hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng là hành vi trái pháp
luật ........................................................................................................... 21
2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm quyền lợi của
người tiêudùng và thiệt hại xảy ra ......................................................... 27
2.4. Điều kiện về lỗi ................................................................................. 29
Kết luận Chương 2 ..................................................................................... 32
Chương 3: THỰC TIỄN VẬN DỤNG ĐIỀU KIỆN

PHÁT SINH

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ DO XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................. 33



3.1. Thực tiễn vận dụng điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do xâm
phạm quyền lợi người tiêu dùng ............................................................ 33
3.1.1. Thực trạng xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng và thực tiễn xử
lý của cơ quan chức năng .................................................................... 33
3.1.2. Nguyên nhân của việc vận dụng pháp luật chưa triệt để trong
việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.................................................. 48
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm do xâm phạm
quyền lợi của người tiêu dùng ................................................................ 56
3.2.1. Cần có cơ chế giải quyết tranh chấp nhanh gọn, trong đó chú ý
phương thức giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với doanh
nghiệp một cách hiệu quả đồng thời chú ý đặc biệt vấn đề thương
lượng. ................................................................................................... 56
3.2.2. Cần có hướng dẫn cụ thể về bồi thường thiệt hại do xâm phạm
quyền lợi người tiêu dùng. ................................................................... 60
3.2.3. Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng...................................................................................................... 62
Kết luận Chương 3 ..................................................................................... 63
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc đề tài
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hoá ngày càng trở lên mạnh mẽ, việc hòa
nhập vào nền kinh tế thế giới vừa tạo ra những cơ hội phát triển nhưng đồng thời
cũng đặt nền kinh tế Việt Nam trước những thách thức mới, những cơ hội mới.
Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, cá nhân trong nước
cũng như nước ngoài được mở rộng sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam. Từ đó,
việc cung ứng những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đã gia tăng nhanh chóng cả về số
lượng lẫn chất lượng giúp người tiêu dùng được có nhiều sự lựa chọn hơn với sự

tiện lợi ngày càng tăng.
Ben cạnh những mặt tích cực do sự gia tăng về hàng hóa và dịch vụ mang
lại, những mặt tiêu cực và hạn chế là không tránh khỏi. Bên cạnh các doanh nghiệp
làm ăn chân chính, đã xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, cá nhân làm ăn
không chân chính, phi pháp với nhiều phương tiện, thủ đoạn tinh vi hơn để thực
hiện các hành vi buôn bán gian dối, không trung thực. Xã hội nói chung và người
tiêu dùng nói riêng đã phải đối mặt với những vấn đề hàng ngày như vậy. Từ
những hành vi sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng hóa không bảo đảm
chất lượng, hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ cho đến sản xuất, kinh doanh,
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ gây ô nhiễm nghiêm trọng môi trường, nguy hại đến
tính mạng, sức khoẻ của con người, trái với thuần phong mỹ tục hay việc thông tin,
quảng cáo sai sự thật, lừa dối người tiêu dùng… đã và đang xảy ra ngày càng phổ
biến với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng trong đời sống hàng ngày.
Đặc biệt trong thời gian gần đây, vấn đề “thực phẩm bẩn” đang trở thành “quốc
nạn”, được đưa tin hàng ngày, hàng giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Người tiêu dùng giờ không biết đặt niềm tin vào đâu để có thể bảo đảm an toàn
thực phẩm bữa ăn hàng ngày cho gia đình của mình.
Vệ quyền lợi người tiêu dùng là một trong những yếu tố quan trọng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội một cách bền vững, bởi vì bên cạnh các chính
sách, mục tiêu khác, chúng ta cần phải thực hiện được mục tiêu bảo vệ lợi ích của
người tiêu dùng - một tác nhân kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Đây thực sự
là một thách thức to lớn cho nhà nước nói chung và các cơ quan quản lý nói riêng
để bảo vệ người tiêu dùng, từ đó thúc đẩy phát triển nền kinh tế - xã hội bền vững.
1


Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể luôn được pháp luật bảo vệ.
Ngày nay mọi hoạt động của cá nhân đều phải tuân thủ theo những quy định của
pháp luật, pháp luật sẽ công nhận và bảo vệ lợi ích chính đáng cho mọi người. Một
khi những lợi ích này bị xâm phạm thì họ có quyền đòi hỏi sự bồi thường và sự bù

đắp hợp lý. Xuất phát từ việc cần thiết bảo vệ lợi ích chính đáng trên những quy
tắc đã được thể chế hóa thành một chế tài của pháp luật dân sự đó là trách nhiệm
dân sự và nó bắt buộc mọi công dân phải tuân thủ.Khi xảy ra tình trạng vi phạm
quyền lợi người tiêu dùng thì người tiêu dùng cần nhất là một cơ chế bảo vệ quyền
lợi cho họ. Cùng với đó, vấn đề trách nhiệm dân sự phát sinh do vi phạm nghĩa vụ
dân sự, trách nhiệm dân sự đặt ra nhằm áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật
dân sự, gây ra những hậu quả pháp lý bất lợi, từ đó là công cụ buộc chủ thể này
phải khắc phục những tổn thất đã gây ra. Do đó, có thể thấy, trách nhiệm dân sự có
ý nghĩa quan trọng vì không những có ý nghĩa pháp lý mà còn có giá trị thực tiễn
cao trong việc khắc phục hậu quả vi phạm, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội.
Ngoài ra, phần đông người tiêu dùng không hiểu hết các điều kiện phát sinh trách
nhiệm dân sự do xâm phạm quyền của người tiêu dùng vì vậy đặt ra nhu cầu cần
thiết nghiên cứu lý luận và thực tiễn để góp phần đảm bảo hiệu quả quyền lợi của
người tiêu dùng trong thực tế.Trong khi đó, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng ở
nước ta còn nhiều bất cập cả về phương diện quy định và gặp nhiều khó khăn khi
thực thi. Trong pháp luật Việt Nam, quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng
được bảo vệ bằng nhiều cách thức khác nhau, bằng nhiều văn bản pháp luật khác
nhau như: Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Bộ luật Dân sự năm
2005, Luật chất lượng sản phẩm hàng hoá năm 2007… và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Tuy nhiên, những quy định về bảo vệ người tiêu dùng nói chung và quy
định về trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng, vẫn
còn chung chung, các chính sách và chế tài vẫn còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, bất
cập cần phải được hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi.
Xuất phát từ những lý do trên đây, việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự - một trong những vấn đề tiên quyết gây ra
hậu quả pháp lý của các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn sẽ góp phần phân tích và làm rõ các
2



quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng, trên cơ sở đánh giá và so sánh với hệ thống pháp luật của các quốc gia phát
triển, thông qua đó có những đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định
của pháp luật dân sự Việt Nam về vấn đề này, tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện
góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình
hội nhập. Chính vì vậy, học viên đã chọn đề tài: “Điều kiện phát sinh trách nhiệm
do xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng” cho đề tài luận văn thạc sỹ Luật học
chuyên ngành Luật Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
TNBTTH do xâm phạm quyền lợi của NTD là một đề tài rất rộng và được
nhiều ngành luật điều chỉnh trong các quy định về Hình sự; Hành chính; Dân sự.
- Dưới góc độ luật hình sự, các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm
quyền lợi NTD gây ra các hậu quả nghiêm trọng cho xã hội và phải chịu trách
nhiệm hình sự.
- Dưới góc độ luật hành chính, các nhà làm luật quan tâm tới hành vi vi phạm
quyền lợi NTD trong trường hợp làm trái các quy định của nhà nước về trật tự quản
lý sản xuất, kinh doanh. Từ đó, có các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với
các hành vi này.
- Dưới góc độ luật dân sự thì sự quan tâm được tập trung vào trách nhiệm
dân sự của nhà sản xuất, kinh doanh đối với NTD đã bị thiệt hại do sử dụng hàng
hoá, dịch vụ đó.
Nghiên cứu điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng, luận văn xác định rõ phạm vi nghiên cứu là các vấn đề lý luận về
điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng; Từ đó
nghiên cứu thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn vận dụng điều kiện phát
sinh trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng cùng những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
4. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn

của điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền lợi của
3


người tiêu dùng.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định cụ thể
như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm
phạm quyền lợi của người tiêu dùng;
- Phân tích điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi của
người tiêu dùng theo quy định của pháp luật hiện hành;
- Đánh giá, phân tích thực trạng pháp luật nước ta về điều kiện phát sinh
trách nhiệm do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng và đưa ra một số kiến nghị
hoàn thiện pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phương
pháp so sánh, phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận, đề tài nghiên cứu là công trình nghiên cứu một cách có hệ
thống các quy định của pháp luật về điều kiện phát sinh trách nhiệm do xâm phạm
quyền lợi của NTD góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc bảo vệ NTD
theo pháp luật hiện hành. Ngoài ra, đề tài còn phục vụ trực tiếp cho quá trình hoàn
thiện các quy định của pháp luật về BTTH cho NTD.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu bởi ba chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền
lợingười tiêu dùng.
Chương 2. Nội dung các điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do xâm

phạm quyền lợi người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Chương 3. Thực tiễn vận dụng điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự do
xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

4


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
DO XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG

1.1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền lợi của người
tiêu dùng
Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một loại
trách nhiệm dân sự. Tuy nhiên đến nay, chưa có khái niệm về trách nhiệm dân sự do
vi phạm quyền của người tiêu dùng. Trước đây, theo chế độ bao cấp, nhu cầu của
người dân chỉ đáp ứng ở mức tối thiểu, quyền lợi của người tiêu dùng và trách nhiệm
dân sự do xâm phạm quyền của người tiêu dùng vì thế cũng chưa được đề cập. Đất
nước đổi mới, nền kinh tế dần phát triển, quan hệ mua bán càng ngày càng mở rộng.
Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng càng ngày càng được quan tâm và có
chính sách phù hợp hơn.
Năm 1989, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân ra đời. Pháp lệnh số 7 – L/CTN
về bảo vệ và kiểm dịch thực vật của Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày
15/12/1993 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho thấy sự quan tâm của Nhà nước
đến quyền lợi của người tiêu dùng. Tuy nhiên, quyền lợi của người tiêu dùng và
trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng được đề cập trong các
văn bản pháp luật này vẫn còn khá mờ nhạt và không cụ thể.
Năm 1999, Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được Quốc hội ban

hành đã có những quy định trách nhiệm nói chung của cá nhân, tổ chức kinh doanh,
sản xuất hàng hóa dịch vụ đối với người tiêu dùng. Tuy nhiên, đây chỉ là những quy
định chung chung, không cụ thể và rất khó áp dụng trong thực tế. Vì vậy, trên thực
tế, vấn đề trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng vẫn chưa
cụ thể, chưa có tính khả thi tại thời điểm này.
Năm 2010, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các quan hệ kinh tế
ngày càng phức tạp, kéo theo đó quyền lợi của người tiêu dùng cũng bị xâm phạm
nhiều hơn. Với sự quan tâm đúng mức, kịp thời, Quốc hội đã thông qua Luật bảo vệ
5


người tiêu dùng, có hiệu lực từ ngày 07/11/2011. Luật bảo vệ người tiêu dùng ra
đời, đã có những quy định về bảo vệ người tiêu dùng và trách nhiệm bảo vệ người
tiêu dùng nhưng lại chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của chủ thể chủ yếu
xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng là các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh
doanh hàng hóa.
Hiện tại, việc xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền của người tiêu
dùng vẫn chủ yếu dựa vào Bộ luật dân sự. Điều 630 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:
“Cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác sản xuất, kinh doanh không bảo đảm chất
lượng hàng hóa mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”.Điều
632 Bộ luật Dân sự năm 2005 nêu rõ: “Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác sản
xuất, kinh doanh do không đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, các hàng hóa khác mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải
bồi thường”. Nói cách khác, các nhà làm luật đồng nhất giữa trách nhiệm bồi
thường thiệt hại với trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Và đến nay, vẫn chưa có khái niệm nhất định nào về trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng. Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định bồi
thường thiệt hại do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng: “Cá nhân, pháp nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch
vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường.” Quyền lợi của người

tiêu dùng được pháp luật bảo đảm thực hiện đối với những sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của người tiêu dùng, đồng thời
nâng cao trách nhiệm của cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, làm
dịch vụ luôn luôn phải bảo đảm quyền lợi của của người tiêu dùng, nếu trong sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà không tôn trọng khách hàng, không bảo đảm
chất lượng hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường
thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm lợi ích của người tiêu dùng là
trách nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Dưới góc độ pháp lý, trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng thuộc về trách nhiệm của các chủ thể có hoạt động sản xuất, kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật vi phạm quyền
lợi của mình gây ra.
6


Từ đây, có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng như sau: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là trách nhiệm pháp lý, theo đó cá nhân,
pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà không đảm bảo chất lượng
hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho người tiêu dùng về tài sản, sức khỏe, tính mạng
và tinh thần thì phải bồi thường những thiệt hại xác định được do có hành vi trái
pháp luật gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng
Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một loại
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là
trách nhiệm pháp lý áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng

Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là trách nhiệm
của chủ thể có hành vi xâm phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng. Việc xác định
trách nhiệm của chủ thể vi phạm đến quyền lợi của người tiêu dùng được xem xét
theo một quá trình từ khâu sản xuất đến khâu phân phối, bán lẻ. Chủ thể của loại
trách nhiệm này là nhà sản xuất hoặc nhà phân phối hoặc cả hai. Nhà sản xuất
không tuân theo những quy định của pháp luật trong sản xuất sản phẩm, vi phạm
các tiêu chuẩn kỹ thuật, không tuân thủ nguyên tắc vệ sinh, chất lượng sản phẩm
được đăng ký, vi phạm tên thương mại… gây thiệt hại cho người tiêu dùng, thì nhà
sản xuất có trách nhiệm bồi thường.
Trách nhiệm của người phân phối sản phẩm có hành vi gian lận đối với chất
lượng sản phẩm, về thời hạn sử dụng, về khuyết tật trong quá trình vận chuyển, lưu
giữ, về khâu bảo quản không tuân thủ tiêu chuẩn vệ sinh, an toàn thực phẩm, dược
phẩm… Vì vậy, đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng có thành phần chủ thể rất khác nhau trong một chuỗi tạo ra sản phẩm và phân
phối sản phẩm. Việc xác định chủ thể có trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng có nét đặc thù so với việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại
7


ngoài hợp đồng khác, mặc dù đều có một yếu tố chung là hành vi gây thiệt hại.
Đặc điểm này xác định chủ thể của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi
của người tiêu dùng. Chủ thể ở đây có thể là cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức nhưng
chỉ chịu trách nhiệm khi có hành vi vi phạm quyền của người tiêu dùng. Nói cách
khác, trách nhiệm này xuất phát từ hành vi vi phạm và chỉ được áp dụng khi có
hành vi vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.
Đặc điểm thứ hai của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng là trách nhiệm liên quan đến nhiều chủ thể
Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là trách nhiệm
dân sự ngoài hợp đồng, nhưng có đặc điểm đặc thù là căn cứ phát sinh trách nhiệm
này không hoàn toàn dựa trên quan hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất, nhà phân phối,

bán lẻ với người mua bán hàng hóa, sản phẩm của nhà sản xuất, nhà phân phối, mà
lợi ích của người tiêu dùng bị vi phạm có thể là người mua hoặc có thể là người sử
dụng sản phẩm hàng hóa do người mua chia sẻ sử dụng như tặng cho… Vì người
tiêu dùng là bất kỳ ai, không chỉ là người mua sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất
hay nhà phân phối chuyển giao thông qua các hợp đồng dân sự. Vì vậy, việc xác
định trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng rất phức tạp,
không thật sự xác định được rõ ràng như hành vi trái pháp luật khác gây thiệt hại.
Trên thực tế, hành vi trái pháp luật gây thiêt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm và các lợi ích nhân thân khác của cá nhân khác xác định không
mấy khó khăn. Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp
luật gây ra được xác định không quá phức tạp.
Nhưng đối với trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
thì việc xác định trách nhiệm đối với chủ thể nhất định nào lại không đơn giản và
thật sự phức tạp. Những chủ thể liên quan đến sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị
trường trước hết là nhà sản xuất, sau nữa là nhà phân phối, bán lẻ. Nếu hàng hóa,
sản phẩm nhập khẩu thì trách nhiệm thuộc về nhà sản xuất, hay người nhập khẩu,
hay cơ quan hải quan, hay người phân phối, bán lẻ có trách nhiệm dân sự do vi
phạm quyền lợi của người tiêu dùng là một vấn đề phức tạp trong việc xác định chủ
thể bồi thường.
Tính phức tạp của việc xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi
8


của người tiêu dùng càng nan giải hơn nữa khi mà ở Việt Nam, thị trường tự do
trong việc phân phối sản phẩm xã hội đang có phần bị thả nổi, hàng hóa sản phẩm
trôi nổi mà cơ quan quản lý thị trường không kiểm soát được. Cùng với nhu cầu của
người tiêu dùng ngày một tăng cao kéo theo tệ nạn làm hàng giả, buôn bán hàng giả
và lưu thông hàng giả trên thị trường thật sự phức tạp, quyền lợi của người tiêu dùng
bị xâm phạm ngày càng trầm trọng hơn. Trên thực tế, ở Việt Nam thường xuyên có
các tin tức trên hệ thống thông tin phản ánh tình trạng ngộ độc thực phẩm, hàng tiêu

dùng có các chất gây ung thư, dược phẩm gây thiêt hại cho bệnh nhân… như một sự
cam chịu của người tiêu dùng, đặc biệt là thực phẩm như thịt heo siêu nạc, nuôi tăng
trọng, từ phở, miến, bún cho đến dưa muối, mắm, nước chấm đều có hóa chất… Đối
với thực trạng này, quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm một cách trực tiếp,
nhưng để xác định chủ thể nào có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người tiêu
dùng thật sự khó khăn và trong nhiều trường hợp là không thể! Vì vậy, người dân,
cộng đồng dân cư trên toàn quốc phải tự mình cung cấp thực phẩm cho mình bằng
cách tự sản xuất, mua của những người quen biết, thân thích và chủ thể cung cấp,
phân phối có địa chỉ rõ ràng, nhằm giảm thiểu thiệt hại cho người tiêu dùng.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm lợi ích của người tiêu dùng là trách nhiệm
liên quan đến nhiều chủ thể trong một chuỗi từ khâu sản xuất đến khâu phân phối,
bán lẻ.
- Trách nhiệm có thể thuộc về nhà sản xuất, nếu nhà sản xuất không tuân
thủ các điều kiện kỹ thuật, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, lương thức, dược
phẩm và các tiêu chuẩn sản xuất đối với các sản phẩm tiêu dùng khác mà gây thiệt
hại cho người tiêu dùng, thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về nhà sản xuất.
- Trách nhiệm thuộc về nhà phân phối, nếu hàng hóa, sản phẩm do nhà sản
xuất sản xuất ra hoàn toàn đạt những tiêu chuẩn chất lượng, nhưng nhà phân phối
lại vì lợi nhuận mà làm thay đổi tính chất của hàng hóa, sản phẩm nhằm thu lợi
nhuận cao hơn (như pha chế lại thực phẩm) hoặc khâu bảo quản sản phẩm, hàng
hóa kém dẫn đến chất lượng bị giảm sút, thiu thối, nhiễm vi khuẩn độc hại gây thiệt
hại cho người tiêu dùng thì nhà phân phối có trách nhiệm bồi thường.
Việc xác định trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
liên quan đến nhiều chủ thể, theo đó căn cứ xác định trách nhiệm có thể thuộc về
9


nhà sản xuất, nếu nhà sản xuất có lỗi, nhưng nếu nhà sản xuất cũng có lỗi và nhà
phân phối cũng có lỗi thì trách nhiệm của nhà sản xuất và nhà phân phối bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng bị thiệt hại là trách nhiệm dân sự liên đới.

Đặc điểm thứ ba của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng là trách nhiệm đối với người sử dụng hàng hóa, sản phẩm của nhà sản
xuất, mà không chỉ áp dụng đối với chủ thể mua hàng hóa, sản phẩm của nhà sản
xuất, nhà phân phối
Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng có đặc điểm là
không có sự ràng buộc vào hợp đồng giữa nhà sản xuất, người phân phối hàng hóa,
sản phẩm. Người tiêu dùng chỉ sử dụng hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác, chủ thể
của hợp đồng mua sản phẩm, hàng hóa thì trách nhiệm dân sự cũng được áp dụng trong
trường hợp hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng là
người yếu thế xét trong mối quan hệ giữa nhà sản xuất, nhà phân phối với người tiêu
dùng, pháp luật không thừa nhận thỏa thuận của các bên về miễn hoặc giảm trách
nhiệm đối với thiệt hại do sản phẩm, hàng hóa của nhà sản xuất, nhà phân phối gây ra
cho người tiêu dùng. Với đặc điểm này, trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng có những đặc thù riêng, khác biệt so với trách nhiệm bồi thường thiệt
hại khác. Đặc điểm này của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu
dùng nhằm bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng bị gây thiệt hại trong việc tiêu dùng
sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của nhà sản xuất, nhà phân phối.
Đặc điểm thứ tư: Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng
là biện pháp áp dụng bắt buộc của nhà nước đối với chủ thể vi phạm
Đặc điểm này khẳng định rõ trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của
người tiêu dùng là một loại trách nhiệm pháp lý. Nó không phải là trách nhiệm đạo
đức, không phải trách nhiệm xã hội một cách tự nguyện tự giác. Trách nhiệm dân sự
do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là biện pháp áp dụng bắt buộc của Nhà
nước áp dụng đối với các chủ thể vi phạm, được thể chế hóa qua các quy định pháp
luật của Nhà nước như: Luật bảo vệ người tiêu dùng; Luật an toàn thực phẩm, Luật
xử lý vi phạm hành chính; Bộ luật dân sự; Bộ luật hình sự; các văn bản hướng dẫn
dưới luật. Cũng là trách nhiệm nhưng vì nó là một loại trách nhiệm pháp lý nên nó
mang tính bắt buộc, cưỡng chế.
10



Đặc điểm thứ năm: Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền của người tiêu
dùng là trách nhiệm mang tính chất tài sản
Hậu quả bất lợi mà chủ thể vi phạm phải chịu được nói đến ở đây có thể là
chịu trách nhiệm bồi thường, xin lỗi, đính chính thông tin, khắc phục hậu quả….
Thiệt hại mà chủ thể vi phạm gây ra cho người tiêu dùng có thể dưới nhiều dạng
như: thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, vật chất, tinh thần... Hậu quả bất lợi mà chủ
thể vi phạm vì thế cũng có nhiều hình thức khác nhau như: trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, trách nhiệm hình sự… Tuy nhiên, trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng không những phát sinh từ hành vi sản xuất, kinh doanh hàng
hóa, mà còn phát sinh trong quan hệ dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa,
dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải phải bồi thường. Người tiêu
dùng hoặc là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người sản xuất, kinh doanh hàng
hóa thông qua hợp đồng mua hàng, thuê dịch vụ; hoặc là người tiêu dùng hàng hóa,
dịch vụ mà không phải là chủ thể được chuyển quyền sở hữu hàng hóa hưởng dịch
vụ thông qua hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người
tiêu dùng là trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.2. Người tiêu dùng và quyền lợi của người tiêu dùng
1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng
NTD là chủ thể trung tâm, là nhân tố quyết định sự phát triển của thị trường
hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, trong quan hệ sản xuất – tiêu dùng thì NTD luôn bị
yếu thế so với các nhà sản xuất, phân phối hàng hóa. Cho nên các nhà sản xuất,
phân phối hàng hóa thường trục lợi bằng cách xâm hại những lợi ích của NTD.
Điều trước tiên và vô cùng quan trọng đối với các nhà làm luật khi xây dựng cơ chế
pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi NTD là phải xác định từ nhiều góc độ khác nhau
trong nội hàm khái niệm “người tiêu dùng” (consumer) – những chủ thể được
hưởng lợi từ pháp luật bảo vệ NTD.
Dưới góc độ kinh tế: Từ tiếng Anh chỉ người tiêu dùng là consumer , hoặc có
nơi gọi là “end consumer” (NTD cuối cùng). Khái niệm “khách hàng” mang nghĩa
rộng hơn, dùng để chỉ người mua hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho bản thân hoặc

làm nguyên liệu (materials) cho sản xuất, kinh doanh. Do vậy, người mua, sử dụng
11


hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều
chỉnh của pháp luật bảo vệ NTD. Bởi vậy, có thể hiểu theo nghĩa hẹp thì NTD là
người mua, họ là những người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng (consumer
goods/services hoặc final goods/services) và làm chúng tiêu hao hoặc biến mất qua
việc sử dụng đó. Hiểu theo nghĩa rộng thì trong mọi nền sản xuất xã hội, xét cho cùng
đối tượng được hướng tới chính là NTD với những động thái chi tiêu của họ
(consumer behaviors) chính là tư liệu để phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh.
Dưới góc độ pháp lý: Khái niệm NTD chỉ xuất hiện với tư cách là chủ thể
pháp luật từ khi lĩnh vực pháp luật về bảo vệ NTD ra đời. Theo pháp luật bảo vệ
NTD, NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với chủ thể luật dân sự khác trong các
giao dịch với thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Sở dĩ, NTD được ưu tiên
hơn so với thương nhân trong quan hệ tiêu dùng bởi họ có nhiều yếu thế hơn như:
thiếu thông tin về hàng hóa dịch vụ; về khả năng đàm phán khi giao kết hợp đồng;
yếu về khả năng chịu rủi ro phát sinh trong quá trình tiêu dùng. Bởi vậy, trong thực
tiễn áp dụng pháp luật thì NTD được hưởng sự ưu tiên hơn so với những chủ thể
luật dân sự khác trong các giao dịch cũng như trong giải quyết tranh chấp. Chính bởi
sự ưu tiên này, nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh và tính công bằng trong áp dụng
các ưu đãi, pháp luật thì NTD không thể là đối tượng chung chung mà luôn phải là
các chủ thể cụ thể và dưới góc độ pháp lý việc xác định chủ thể nào là NTD và là đối
tượng được bảo vệ của pháp luật bảo vệ NTD có vai trò vô cùng quan trọng.
- Luật pháp của đa số các nước trên thế giới quy định, NTD chỉ là các cá
nhân và không coi tổ chức là NTD. Các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ mà tổ
chức tham gia mặc dù đối tượng của giao dịch hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng sẽ được
bảo vệ theo pháp luật hợp đồng chứ không được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD.
+ Luật Bảo vệ người tiêu dùng ở Liên Xô cũ định nghĩa NTD là “Công dân
sử dụng, mua đặt hàng hoặc có ý định mua sắm sản phẩm để sử dụng riêng”. Như

vậy với định nghĩa này, NTD chỉ được sử dụng với nghĩa rất hẹp, chưa tính đến
những người sử dụng các dịch vụ. Nhưng do hoàn cảnh lịch sử mà việc đáp ứng
những nhu cầu của người dân ở giai đoạn này mới ở mức tối thiểu, mặt khác các
loại hình dịch vụ chưa có điều kiện phát triển nên việc xác định như vậy là do hạn
chế của lịch sử; Luật Bảo vệ người tiêu dùng của Tiệp và Slovakia năm 1992 có
12


định nghĩa: “Người tiêu dùng là người vì mình hoặc vì các thành viên của gia đình
mình mua sắm sản phẩm hoặc sử dụng dịch vụ để tiêu dùng cho mục đích cá nhân”.
Theo định nghĩa này đã khắc phục được hạn chế về trường hợp những người sử
dụng dịch vụ phục vụ cho nhu cầu cá nhân mà theo định nghĩa của Luật Bảo vệ
người tiêu dùng của Liên Xô cũ không có nhưng nó cũng có thiếu sót - những người
của một tổ chức không phải là các thành viên của gia đình khi sử dụng hàng hoá,
dịch vụ với tư cách là tập hợp các cá nhân và sử dụng vì mục đích không phải là
kinh doanh hay không phải vì mục đích lợi nhuận cũng không được coi là NTD.
Khi họ sử dụng hàng hoá dịch vụ vì mục đích sinh hoạt mà bị thiệt hại thì áp dụng
quy định nào để BTTH cho họ; khi họ không sử dụng hàng hoá, dịch vụ với mục
đích kinh doanh, vì lợi nhuận.
+ Theo hệ thống pháp luật Hoa Kỳ, tuy các đạo luật cụ thể không quy định
khái niệm NTD nhưng theo các chuyên gia pháp luật Hoa Kỳ thì: “Người tiêu dùng
là cá nhân tham gia giao dịch với mục đích chủ yếu vì nhu cầu cá nhân hoặc sinh
hoạt gia đình”. Còn theo quan niệm về NTD của Liên minh châu Âu (EU) cũng
được thể hiện trong Chỉ thị số 1999/44/EC ngày 25/5/1999 về việc mua bán hàng
hóa tiêu dùng và các bảo đảm có liên quan. Theo Chỉ thị này thì “Người tiêu dùng
là bất cứ tự nhiên (tức cá nhân) tham gia vào các hợp đồng trong chỉ thị này vì mục
đích không liên quan tới hoạt động kinh doanh hoặc nghề nghiệp của mình”. Quan
điểm này trước đó cũng đã từng được thể hiện trong phán quyết của Tòa Công lý
châu Âu (European Court of Justice) năm 1991 khi giải quyết tranh chấp giữa các
nước thành viên. Cùng thống nhất với Chỉ thị số 1999/44/EC thì Bộ luật bảo vệ

người tiêu dùng của Pháp năm 1993 giải thích: “Người tiêu dùng là người mua
hàng hóa, dịch vụ để sử dụng cho cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình mà không có ý
định bán lại hoặc nhằm mục đích kinh doanh”; Điều 13 Bộ luật Dân sự Đức năm
2002 quy định: “Người tiêu dùng là bất cự tự nhiên nhân (cá nhân) nào tham gia
giao dịch không thuộc phạm vi hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc nghề
nghiệp của người này”.
+ Hệ thông pháp luật của các quốc gia châu Á cũng có quan điểm tương đồng,
Điều 2 Luật Hợp đồng người tiêu dùng của Nhật Bản năm 2000 giải thích: “Người tiêu
dùng là cá nhân, không bao gồm trường hợp cá nhân trở thành một bên của hợp đồng
13


như một thương nhân vì mục đích thương mại”; Theo Luật bảo vệ người tiêu dùng của
Đài Loan thì “Người tiêu dùng là người tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hoá
hoặc dịch vụ vì mục đích tiêu dùng” (Khoản 1, Điều 2, Luật Bảo vệ người tiêu dùng của
Đài Loan).(1)
- Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng số 13/1999/PLUBTVQH10 ngày 24/07/1999 và tiếp tục được ghi nhận trong Luật Bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng năm 2010 thì cả hai văn bản này đều quy định: “Người tiêu
dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt
của cá nhân, gia đình, tổ chức”. Có thể thấy, so với pháp luật của nhiểu nước trên
thế giới, đối tượng là NTD được bảo vệ theo pháp luật bảo vệ NTD của Việt Nam
có sự mở rộng hơn. Ngoài đối tượng là các cá nhân được pháp luật bảo vệ như
thông lệ quốc tế, pháp luật Việt Nam còn coi các tổ chức cũng là NTD khi tổ chức
đó mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng. Tuy nhiên,
việc xác định tổ chức hay thương nhân có là NTD hay không là vấn đề còn nhiều ý
kiến khác nhau. Trong đó nổi bật với hai luồng ý kiến:
Một là, thương nhân khi mua hàng hóa không nhằm mục đích bán lại hoặc
kinh doanh thì vẫn được coi là NTD.
Hai là, trường hợp thương nhân mua hàng hóa, dịch vụ đều là những hành vi
thương mại phụ thuộc, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của thương nhân nên đều

phải được điều chỉnh theo pháp luật hợp đồng thương mại chứ không được bảo vệ
theo pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD.
1.2.2. Quyền lợi người tiêu dùng
NTD chính là người bỏ tiền ra để mua sản phẩm, hàng hóa, thuê dịch vụ của
nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, do vậy người tiêu dùng chính là người mang lại
lợi nhuận cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ. Hay nói
cách khác, NTD là người duy trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp (khi sản
phẩm, dịch vụ của một doanh nghiệp đưa ra thị trường mà không có người sử dụng
hoặc chỉ có một số ít người sử dụng thì doanh nghiệp đó sẽ không thu được lợi
nhuận và nhanh chóng phá sản), do đó một khẩu hiệu (slogan) mà toàn thế giới biết
đến đó là “khách hàng là thượng đế” (Consumer is God).
1

Xem Luật bảo vệ NTD Đài Loan năm 1994, sửa đổi bổ sung năm2003 và 2005

14


Hoạt động bảo vệ quyền lợi NTD được hình thành và phát triển đã khá lâu,
nhưng những quyền của NTD thì chưa được xác định rõ rệt. Ngày 15/03/1962, từ
phát biểu của Tổng thống Mỹ John.F.Kennedy, trong một cuộc họp của Thượng
việc Mỹ thì những quyền của từ phát biểu của dần đần được hình thành và phát
triển. Tuyên bố của ông Kennedy lúc đầu chỉ đề cập bốn quyền cơ bản của từ phát
biểu của, đó là: quyền được an toàn, quyền được thông tin, quyền được lựa chọn và
quyền được bày tỏ quanđiểm. Bốn quyền này là cốt lõi của hoạt động bảo vệ quyền
lợi NTD trên thế giới trong giai đoạn đó.
Theo Nghị quyết số 39/248 ngày 09/4/1985 của Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua “Bản hướng dẫn bảo vệ Người tiêu dùng” thì NTD có tám quyền cơ bản
bao gồm:
1. Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản;

2. Quyền được an toàn;
3. Quyền được thông tin;
4. Quyền được lựa chọn;
5. Quyền được lắng nghe;
6. Quyền được khiếu nại và bồi thường;
7. Quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng;
8. Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững.
Bản hướng dẫn đã vạch ra những nguyên tắc khung để tăng cường các chính
sách bảo vệ người tiêu dùng của các quốc gia dựa trên 08 quyền của người tiêu
dùng. Lời phát biểu của cố Tổng thống Mỹ John.F.Kennedy ngày 15/03/1962 đã
làm cho ngày đó mà sau này Liên hợp quốc vào năm 1983 đã chính thức tuyên bố
ngày 15 tháng 3 trở thành “Ngày quyền của người tiêu dùng thế giới”, được gọi tắt
theo tiếng Anh là WCRD (World Consumer Rights Day).
Với sự phê chuẩn của Liên hợp quốc, tám quyền cơ bản quyền của NTD đã
được đưa lên vị trí hợp pháp và được quốc tế công nhận, được tất cả các quốc gia dù
là phát triển hay đang phát triển thừa nhận. Chính phủ nhiều nước đã đưa nội dung
tám quyền của NTD vào pháp luật bảo vệ NTD của nước mình và nó được dùng làm
cơ sở để các quốc gia hoạch định chính sách bảo vệ NTD trong nước cũng như là cơ
sở cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ NTD trên thế giới. Ở nước ta, Luật bảo vệ
15


người tiêu dùng năm 2010 quy định NTD Việt Nam có tám quyền cơ bản sau:
“Điều 8
1. Được bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác khi tham gia giao dịch, sử dụng hàng hóa, dịch vụ do tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ cung cấp.
2. Được cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ về tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ; nội dung giao dịch hàng hóa, dịch vụ; nguồn gốc, xuất xứ hàng
hóa; được cung cấp hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch và thông tin

cần thiết khác về hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng đã mua, sử dụng.
3. Lựa chọn hàng hóa, dịch vụ, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ theo nhu cầu, điều kiện thực tế của mình; quyết định tham gia hoặc không tham
gia giao dịch và các nội dung thỏa thuận khi tham gia giao dịch với tổ chức, cá
nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.
4. Góp ý kiến với tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ về giá cả,
chất lượng hàng hóa, dịch vụ, phong cách phục vụ, phương thức giao dịch và nội
dung khác liên quan đến giao dịch giữa người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ.
5. Tham gia xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
6. Yêu cầu bồi thường thiệt hại khi hàng hóa, dịch vụ không đúng tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng, giá cả hoặc nội
dung khác mà tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đã công bố, niêm yết,
quảng cáo hoặc cam kết.
7. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hoặc đề nghị tổ chức xã hội khởi kiện để bảo
vệ quyền lợi của mình theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp
luật có liên quan.
8. Được tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn kiến thức về tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ.”
Như vậy, quyền lợi NTD là những lợi ích NTD được công nhận và được đảm
bảo thực hiện trong quá trình tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ.

16


Kết luận Chương 1
Trong chương đầu tiên của luận văn, học viên đã trình bày, diễn giải về khái
niệm trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng dưới góc độ
pháp lý; trình bày, diễn giải về đặc điểm của trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền
lợi của người tiêu dùng, phân biệt trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của

người tiêu dùng với các loại trách nhiệm dân sự khác.
Chương 1 đã đề cập đến khái niệm “Người tiêu dùng”, so sánh khái niệm
“Người tiêu dùng” theo quy định của pháp luật Việt Nam và hệ thống pháp luật của
một số nước trên thế giới. Cùng với đó, trong chương này tác giả luận văn đã nêu
lên hệ thống những quyền cơ bản của người tiêu dùng trong pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng Việt Nam, cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng hệ thống quyền
lợi của người tiêu dùng.
Qua việc nghiên cứu một số lý luận về người tiêu dùng, quyền lợi của người
tiêu dùng, trách nhiệm dân sự do xâm phạm quyền lợi của người tiêu dùng ta thấy
được vai trò của người tiêu dùng trong nền kinh tế cũng như trong các quan hệ pháp
lý. quyền lợi NTD được công nhận và được đảm bảo thực hiện trong quá trình tiêu
dùng hàng hoá, dịch vụ.

17


Chương 2
NỘI DUNG CÁC ĐIỀU KIỆN PHÁT SINH TRÁCH NHIỆM
DÂN SỰ DO XÂM PHẠM QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD là một dạng cụ thể của TNBTTH ngoài
hợp đồng vì vậy nó mang đầy đủ các đặc điểm của TNBTTH ngoài hợp đồng và
chịu sự điều chỉnh chung của các quy định pháp luật về TNBTTH ngoài hợp đồng
nói chung trong đó có quy định về điều kiện phát sinh trách nhiệm này.
2.1. Có thiệt hại cho người tiêu dùng
Đây là điều kiện cơ bản của TNBTTH ngoài hợp đồng nói chung và
TNBTTH do vi phạm quyền lợi NTD nói riêng, là điều kiện bắt buộc để xác định
có phát sinh TNBTTH hay không. Như ta đã biết bản chất của việc BTTH là nhằm
khắc phục các hậu quả đã xảy ra; hoặc khôi phục lại toàn bộ, một phần tình trạng
tài sản như lúc trước khi có hành vi gây thiệt hại xảy ra; hoặc bù đắp những tổn

thất, mất mát do tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm phạm. Vì
vậy, việc xác định TNBTTH sẽ là vô nghĩa nếu không có thiệt hại xảy ra.
Từ điển Luật học xuất bản năm 2006 giải thích thiệt hại là:“tổn thất về tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp
khác của cá nhân; tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được
pháp luật bảo vệ” (Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Từ điển Luật học , Nxb Từ
điển Bách khoa, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2006, tr 713). Bộ luật Dân sự 2015 không
đưa ra khái niệm thiệt hại mà chỉ liệt kê các loại thiệt hại được bồi thường bao
gồm: (i) Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; (ii) Thiệt hại do tính mạng bị xâm
phạm; (iii) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm; và (iv) Thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Trước đây, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08 tháng 7 năm 2006
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao (hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng), phân chia
thiệt hại gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần. Theo đó
thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, thiệt hại do sức
18


khỏe bị xâm phạm, thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm, thiệt hại do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm. Thiệt hại về tinh thần của cá nhân được hiểu là những
mất mát, đau thương về tình cảm, sự mất đi hoặc giảm sút uy tín…do sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng
bị xâm phạm. Đối với tổ chức thì thiệt hại tinh thần là sự suy giảm hoặc mất đi
lòng tin, uy tín.
Thiệt hại là một sự phản ánh thực tế, nó là kết quả của hành vi trái pháp
luật, xâm phạm đến các quan hệ kinh tế, quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Việc xác định thiệt hại đúng đắn, khách quan là cơ sở pháp lý để xác định
TNBTTH và phạm vi BTTH của người gây thiệt hại. Nó được biểu hiện qua hai
mặt: vật chất và tinh thần. Thiệt hại được phân loại theo nhiều cách khác nhau

nhưng thiệt hại chỉ được coi là căn cứ phát sinh trách nhiệm dân sự khi nó là thiệt
hại xảy ra trên thực tế. Điều này có nghĩa, thiệt hại đó phải đảm bảo hai điều kiện
là: Thiệt hại đã xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra và là thiệt hại có thật (không thể
suy đoán).
“Thiệt hại” được coi là điều kiện tiền đề, điều kiện cơ sở để phát sinh trách
nhiệm bồi thường vì phải có “thiệt hại” thì mới cần “bồi thường”. Không những
thế, thiệt hại còn là điều kiện cần để xác định mức độ của trách nhiệm dân sự vì
mục đích hướng đến của trách nhiệm dân sự là khắc phục thiệt hại, tổn thất do
hành vi vi phạm gây ra.
Trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng là trách
nhiệm ngoài hợp đồng. Nhà sản xuất, kinh doanh phải chịu trách nhiệm dân sự đối
với hành vi trái pháp luật gây thiệt hại của mình. Trách nhiệm dân sự do vi phạm
quyền lợi của người tiêu dùng phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật
trên nguyên tắc thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Nói cách khác,
thiệt hại của người tiêu dùng được bù đắp trên nguyên tắc ngang giá theo đúng quy
luật hàng – tiền của nền sản xuất hàng hóa. Vậy thiệt hại làm căn cứ phát sinh
trách nhiệm dân sự do vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng gồm những thiệt hại
cụ thể nào?
2.1.1. Thiệt hại về vật chất
Thiệt hại về vật chất là những tổn thất vật chất thực tế, xác định được bằng
một khoản tiền cụ thể nó đã được quy định trong hầu hết một số điều luật liên quan
19


×