TRN C THNH
B GIO DC V O TO
VIN I HC M H NI
LUN VN THC S
CHUYấN NGNH: LUT KINH T
pháp luật về GIảI QUYếT TRANH CHấP ĐấT ĐAI
LUT KINH T
Từ THựC TIễN tại TòA áN NHÂN DÂN
thành phố hòa bình
TRN C THNH
2015 - 2017
H NI - 2017
B GIO DC V O TO
VIN I HC M H NI
LUN VN THC S
pháp luật về GIảI QUYếT TRANH CHấP ĐấT ĐAI
Từ THựC TIễN tại TòA áN NHÂN DÂN
thành phố hòa bình
TRN C THNH
Chuyờn ngnh : Lut kinh t
Mó s
: 60 38 01 07
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN QUANG TUYN
H NI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Đức Thịnh
LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội và sự
đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Quang Tuyến về đề tài luận văn:
"Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành
phố Hòa Bình". Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của Viện Đại
học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập,
nghiên cứu tại Viện.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Nguyễn Quang
Tuyến đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học,
Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc
dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất, nhưng
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà tự bản thân không thể tự nhận thấy
được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô giáo để luận văn được hoàn
chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi, động
viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, ngày 29 tháng 9 năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trần Đức Thịnh
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ GIẢI
9
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI THÔNG QUA TÒA ÁN NHÂN
DÂN
Lý luận về tranh chấp đất đai
9
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
9
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
11
1.1.3. Hậu quả của tranh chấp đất đai
12
1.1.4. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
13
1.1.5. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai
17
1.1.
Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai
22
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai
22
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
24
1.2.3. Mục đích, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp đất đai
28
1.2.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp đất đai
29
1.2.
1.3.
Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân
32
1.3.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân
32
Đặc điểm của hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa
33
1.3.2
án nhân dân
1.3.3. Mục đích, ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
35
Tòa án nhân dân
1.3.4. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
36
1.3.5. Tính ưu việt của giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân
dân
38
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
40
ĐAI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH
PHỐ HÒA BÌNH - TỈNH HÒA BÌNH
2.1.
Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân
40
dân
2.1.1. Nội dung các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai của pháp luật
40
đất đai
2.1.2. Các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai của pháp luật tố tụng
dân sự
46
2.1.3. Các quy định của hệ thống Tòa án
57
Đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai từ thực tiễn hoạt động tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình
59
2.2.1. Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thành
phố Hòa Bình
59
Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình
66
2.2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
thành phố Hòa Bình
73
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
77
2.2.
2.2.2
CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH TỪ THỰC
TIỄN XÉT XỬ TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH
- TỈNH HÒA BÌNH
3.1.
Về phương diện lập pháp
77
3.1.1. Tiếp tục ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai năm 2013
77
3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015
81
3.1.3. Tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thi hành Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
83
3.2.
Về phương diện bồi dưỡng nghiệp vụ giải quyết tranh chấp đất đai
83
3.2.1. Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về giải quyết tranh chấp đất đai
84
3.2.2. Xây dựng nội dung bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về giải quyết
tranh chấp đất đai
85
Về phương diện hướng dẫn thi hành pháp luật giải quyết tranh chấp
đất đai
86
3.3.
3.2.1. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
86
3.2.2. Về giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu
89
3.3.3. Giải quyết tranh chấp về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
90
KẾT LUẬN
93
TÀI L IỆU THAM KHẢO
95
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật dân sự
BLTTDS
: Bộ luật tố tụng dân sự
GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
TAND
: Tòa án nhân dân
TANDTC
: Tòa án nhân dân tối cao
UBND
: Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
Thống kê các vụ án tranh chấp đất đai TAND thành phố Hòa
60
bảng
2.1
Bình đã thụ lý (từ ngày 01/7/2014 đến hết ngày 31/8/2017)
2.2
Thống kê các vụ việc tranh chấp đất đai TAND thành phố Hòa
Bình đã hòa giải thành
63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế được trong sản xuất
nông, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Ngay từ xa
xưa, con người đã nhận thức được tầm quan trọng của đất đai. Nó là điều kiện vật chất
không thể thiếu được cho sự tồn tại của con người. Chính vì tầm quan trọng ấy mà trong
văn học thần thoại, đất đai đã được ví như người mẹ - Mẹ đất. Như một lẽ tự nhiên, cái gì
càng có giá trị thì con người càng muốn được sở hữu, chiếm giữ. Dân số ngày càng tăng;
trong khi vốn đất đai lại có hạn (đất đai không do con người tạo ra mà do tự nhiên tạo ra,
có trước con người; cố định về vị trí địa lý, bị giới hạn bởi không gian, diện tích). Sự mâu
thuẫn này tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tranh chấp do ai cũng muốn chiếm giữ và sử dụng đất
đai. Trong nền kinh tế thị trường, khi Nhà nước thay đổi cơ chế quản lý đất đai trả lại đất
đai những giá trị ban đầu vốn có thì đất đai ngày càng trở nên có giá. Đây là một trong
những nguyên nhân khách quan khiến tranh chấp đất đai không chỉ gia tăng về số lượng
mà còn gia tăng về tính phức tạp, gay gắt về nội dung. Tranh chấp đất đai phát sinh không
chỉ phá vỡ sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình, mối quan hệ đoàn kết trong nội
bộ nhân dân mà còn tiềm ẩn trở thành "điểm nóng" có nguy cơ gây mất ổn định chính trị xã hội. Chính vì vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp
luật và dứt điểm có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là giải quyết tranh chấp
đất đai theo phương thức nào và cơ chế thực hiện cụ thể ra sao lại không hề đơn giản. Để
tránh tình trạng tự giải quyết tranh chấp đất đai bằng các biện pháp bạo lực, sử dụng "luật
rừng" giữa các bên đương sự; các quốc gia trên thế giới đã thiết lập một cơ quan tài phán
là Tòa án với chức năng làm trọng tài, giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong xã hội. Hệ
thống cơ quan tài phán này là một nhánh quyền lực độc lập với các cơ quan lập pháp và cơ
quan hành pháp nhằm đảm bảo tính độc lập, đưa ra phán quyết công bằng, khách quan và
vô tư. Với việc ra đời mô hình cơ quan tài phán độc lập giải quyết các tranh chấp nói chung
và tranh chấp đất đai nói riêng đã chứng tỏ bước phát triển của nhân loại trong việc giải
quyết hòa bình, văn minh những bất đồng, mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội và đem lại niềm
tin cho nhân dân vào công lý, sự nghiêm minh của pháp luật. Tiếp thu sự tiến bộ của văn
minh nhân loại, ở nước ta, hệ thống Tòa án nhân dân (TAND) được thành lập với chức
năng phán quyết, xét xử các tranh chấp nói chung và tranh chấp đất đai nói riêng. Giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND không phải là vấn đề mới. Thời gian qua, đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này, nhiều giải pháp được đưa ra song
chất lượng và hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND vẫn chưa
đáp ứng sự kỳ vọng của xã hội. Số lượng các phán quyết của tòa án cấp dưới bị tòa án cấp
trên hủy bỏ, yêu cầu xét xử lại chiếm tỷ lệ không nhỏ. Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục
nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện trên phương diện lý luận và thực tiễn hoạt động
giải quyết các tranh chấp đất đai của TAND để đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả của hoạt động này. Đặc biệt trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai
năm 2013 và Luật tổ chức TAND năm 2014 được ban hành với nhiều sửa đổi, bổ sung liên
quan đến vị trí, vai trò của TAND nói chung và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
của cơ quan này nói riêng.
Thành phố Hòa Bình là trung tâm chính trị, kinh tế - văn hóa, xã hội của tỉnh Hòa
Bình. Hòa Bình là một thành phố trẻ được thành lập trên cơ sở thị xã Hòa Bình trước đây
và đang trong quá trình phát triển. Những năm qua cùng với sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh
Hòa Bình và là cửa ngõ của Thủ đô Hà Nội, bộ mặt của thành phố Hòa Bình đã "thay da,
đổi thịt" theo hướng văn minh, hiện đại. Điều này tác động khiến giá đất ngày càng tăng.
Kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện đã thu hút
người dân ở các địa phương trong và ngoài tỉnh Hòa Bình đến sinh sống, làm việc tại thành
phố Hòa Bình. Dân cư đông đúc trong khi tổng quỹ đất tự nhiên không thay đổi. Điều này
vô hình chung đã khiến tranh chấp đất đai nảy sinh ngày càng gay gắt. Thực tiễn giải quyết
tranh chấp đất đai tại TAND thành phố Hòa Bình cho thấy đây là loại tranh chấp phức tạp,
nhạy cảm và có xu hướng gia tăng về số lượng. Nhiều vụ việc qua nhiều cấp xét xử, kéo
dài cả chục năm song vẫn không giải quyết được dứt điểm; ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Dẫu hệ thống văn bản pháp luật đất đai
nói chung và các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng thường xuyên được
sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Song số lượng các quyết định, phán
quyết của TAND thành phố Hòa Bình bị Tòa án cấp trên hủy bỏ, bác một phần hoặc toàn
bộ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Vậy đâu là nguyên nhân của tình trạng này và giải pháp nào để
khắc phục. Để tìm câu trả lời cho những vấn đề nêu trên thì không thể không nghiên cứu,
đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về lý luận và thực tiễn pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai tham chiếu với thực tiễn hoạt động của TAND thành phố Hòa
Bình.
Với cách tiếp cận nêu trên, học viên lựa chọn đề tài "Pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình" làm Luận văn thạc
sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai luôn là vấn đề "nóng" thu hút
được sự quan tâm đặc biệt của người dân, các nhà quản lý và dư luận xã hội. Trong khoa
học pháp lý, tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND nhận được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, bằng chứng là vấn đề này đã được tìm hiểu, nghiên
cứu trong các công trình khoa học ở nhiều cấp độ khác nhau, từ khóa luận tốt nghiệp, luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, sách chuyên khảo hay các
bài viết đăng tải trên các tạp chí nghiên cứu pháp luật có uy tín...
Những công trình nghiên cứu mang tính gợi mở có thể kể đến: i) Nguyễn Minh
Khoa (2007), "Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân theo khoản
1 Điều 136 Luật đất đai 2003", Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội; ii)
Trịnh Thị Lệ Quyên (2012), "Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án nhân
dân - thực trạng và giải pháp hoàn thiện", Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội; iii) Nguyễn Thị Thu Hà (2013), "Giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường Tòa
án ở Quận Hà Đông", Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; iv) Hồ
Xuân Hương (2004), "Giải quyết tranh chấp đất đai qua thực tiễn ở Hà Nội", Luận văn
thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; v) Nguyễn Văn Luật (chủ nhiệm) (2002),
"Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về quyền sử
dụng đất tại Tòa án nhân dân", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ - Tòa án nhân dân tối
cao (TANDTC); vi) Viện Khoa học xét xử - TANDTC (2012), "Thực tiễn giải quyết tranh
chấp về hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê quyền sử dụng đất - những
vướng mắc và kiến nghị", Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ; vii) Mai Thị Tú Oanh (2013),
"Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ở nước ta", Luận án tiến
sĩ Luật học, Học viện Khoa học Xã hội; viii) Doãn Hồng Nhung (chủ biên) (năm 2014),
"Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam", Nxb Lao
động, Hà Nội; ix) Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Minh Hằng (2011) "Giao dịch về quyền sử
dụng đất vô hiệu, pháp luật và thực tiễn xét xử", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; x) Nguyễn
Thị Dung (2004),"Về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo trong những quy định của
Luật đất đai", Tạp chí Luật học, Số chuyên đề về Luật đất đai 2003 xuất bản tháng 5; xi)
Nguyễn Quang Tuyến (2004), "Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án",
Tạp chí TAND, số 14; xii) Lưu Quốc Thái (2006), "Hoàn thiện các quy định pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 17; xiii) Nguyễn Văn Thắng
(2013), "Luật đất đai (sửa đổi) cần mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong giải
quyết các tranh chấp về đất đai", Tạp chí TAND, số 21; xiv) Các chuyên đề trình bày trong
Hội thảo: "Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: thực trạng và các giải
pháp" tổ chức tại Buôn Mê Thuột (năm 2008); xv) Trường Đại học Luật Hà Nội (2016),
Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội v.v...
Các công trình khoa học trên đây nghiên cứu ở các khía cạnh, góc độ khác nhau
tạo nên một "bức tranh" tương đối đa dạng về vấn đề tranh chấp đất đai và giải quyết tranh
chấp đất đai nói chung cũng như giải quyết tranh chấp đất đai bằng con đường TAND nói
riêng ở nước ta hiện nay. Nghiên cứu vấn đề ở phạm vi rộng, mang tính toàn diện có những
công trình như công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của ngành TAND (năm 2002, năm
2012) hay luận án tiến sĩ của Mai Thị Tú Oanh (năm 2013); ở phạm vi hẹp tại một địa
phương cụ thể có những công trình như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà, Hồ Xuân
Hương… Tuy nhiên, tìm hiểu, đánh giá pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực
tiễn của TAND thành phố Hòa Bình một cách có hệ thống, đầy đủ, toàn diện về lý luận và
thực tiễn dựa trên sự tham chiếu với Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013, Luật tổ
chức TAND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì dường như vẫn còn thiếu
một công trình như vậy ở cấp độ thạc sĩ luật học. Trên cơ sở tham khảo và kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài đã công bố, luận văn đi sâu
tìm hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại TAND thành phố Hòa
Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND thành phố Hòa
Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về giải
quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND nói
riêng bằng việc phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giải quyết tranh chấp đất đai
nói chung và giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND nói riêng; luận giải tính ưu
việt của giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND v.v...
- Phân tích nội dung của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai thông
qua TAND; đánh giá thực trạng thực thi chế định pháp luật này từ thực tiễn hoạt động của
TAND thành phố Hòa Bình nhằm nhận diện những ưu điểm, hạn chế, tồn tại và nguyên
nhân của hạn chế, tồn tại.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
đất đai của TAND thành phố Hòa Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm các nội dung cụ thể sau đây:
- Các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành về
giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND.
- Luật tổ chức TAND năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về giải quyết các vụ án dân sự.
- Thực tiễn áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai trong công tác xét
xử của TAND thành phố Hòa Bình.
- Quan điểm, đường lối của Đảng về vị trí, vai trò của TAND trong chiến lược cải
cách tư pháp ở Việt Nam.
- Các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai của TAND.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài "Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua Tòa án nhân dân" là
đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một bản Luận văn thạc
sĩ Luật học, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
- Giới hạn về nội dung: Nghiên cứu các quy định của Luật đất đai năm 2013 và các
văn bản hướng dẫn thi hành về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của TAND; các
quy định của một số đạo luật có liên quan.
- Giới hạn về thời gian: Luận văn giới hạn nghiên cứu pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai từ năm 2003 - nay.
- Giới hạn về phạm vi: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu thực tiễn thi hành
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ hoạt động xét xử của TAND thành phố Hòa
Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp diễn giải v.v... được sử
dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải
quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND.
ii) Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận lôgic v.v...
được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai thông qua TAND và thực tiễn thi hành tại TAND thành phố Hòa Bình.
iii) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp, phương pháp bình luận v.v... được
sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua TAND thành phố Hòa
Bình.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn với đề tài "Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa
án nhân dân thành phố Hòa Bình" có những đóng góp nhất định. Những đóng góp này bao
gồm:
- Hệ thống hóa, góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai nói chung và các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai thông
qua TAND nói riêng ở nước ta.
- Phân tích nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và đánh giá thực
tiễn thi hành từ hoạt động xét xử của TAND thành phố Hòa Bình.
- Luận giải định hướng và đề xuất giải hoàn thiện pháp pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoạt động xét xử của
TAND thành phố Hòa Bình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất
đai thông qua Tòa án nhân dân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn thi
hành tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình - tỉnh Hòa Bình.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và nâng
cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình - tỉnh Hòa Bình.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THÔNG QUA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xuất hiện ở bất cứ hình thái kinh tế xã hội nào. Ở nước ta hiện nay, tranh chấp đất đai đã trở thành một vấn đề phổ biến. Vậy
tranh chấp đất đai là gì? Trước khi tìm hiểu về khái niệm tranh chấp đất đai, chúng ta cần
hiểu thế nào là tranh chấp? Theo Đại từ điển Tiếng Việt (năm 1998) thì tranh chấp là giành
giật, giằng co nhau cái không rõ thuộc về bên nào, là bất đồng, trái ngược nhau.
Khái niệm tranh chấp đất đai đã được giải thích trong văn bản pháp luật đất đai.
Luật đất đai năm 2013 quan niệm: "Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ
của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai" [23, Khoản 24
Điều 3]. Phân tích quy định trên của Luật đất đai năm 2013, chúng ta thấy rằng các nhà
làm luật đưa ra định nghĩa về tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Các nhà làm luật đã định nghĩa
bằng cách sử dụng chính thuật ngữ cần định nghĩa để định nghĩa: "tranh chấp đất đai là
tranh chấp...". Cách định nghĩa như vậy chưa giúp người đọc hiểu được tranh chấp là gì?
Bản chất của nó như thế nào? Tranh chấp là những mâu thuẫn, xung đột, những quan điểm,
ý kiến khác nhau, thậm chí là đối nghịch, trái ngược nhau về cùng một vấn đề. Trong quan
hệ đất đai, tranh chấp chính là những mâu thuẫn, bất đồng giữa các chủ thể về các vấn đề
lợi ích, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên chủ thể trong quan hệ đất đai. Trong bất cứ quan
hệ nào, lợi ích luôn là vấn đề được các chủ thể đặt lên hàng đầu, lợi ích luôn gắn liền với
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Nói một cách trực diện là nếu không có lợi ích sẽ khó có
thể phát sinh quan hệ và không có quan hệ thì cũng không làm phát sinh các quyền và nghĩa
vụ giữa các bên chủ thể với nhau. Vì thế, nói đến quyền và nghĩa vụ không thể không nhắc
tới lợi ích đằng sau nó. Trong nội hàm của khái niệm tranh chấp đất đai tại khoản 24 Điều
3 Luật đất đai năm 2013, các nhà làm luật chỉ nói đến "quyền và nghĩa vụ" là chưa đầy đủ.
Điều này đã được quy định tại Luật đất đai năm 2003, nhưng đến Luật đất đai 2013 vẫn
không có sự sửa đổi là chưa phù hợp với bản chất của các quan hệ xã hội nói chung, quan
hệ đất đai nói riêng và vô hình chung thu hẹp nội hàm khái niệm tranh chấp đất đai trong
thực tế. Tiếp tục phân tích khái niệm tranh chấp đất đai tại quy định này: "Tranh chấp đất
đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên...". Trong
khái niệm này, nhà làm luật đã xác định chủ thể của tranh chấp đất đai là hai hoặc nhiều
bên trong quan hệ đất đai; đó có thể là bất đồng giữa những người sử dụng đất với nhau
hoặc giữa người sử dụng đất với cơ quan quản lý nhà nước về đất đai về lợi ích, quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất. Như vậy trong khái niệm này, nhà làm luật xác định một
bên chủ thể trong tranh chấp phải là người sử dụng đất; bởi đối tượng của tranh chấp là lợi
ích, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, chủ thể còn lại có thể là người sử dụng đất
khác hoặc là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
Về mặt nguyên tắc, một tranh chấp đất đai sẽ được giải quyết bởi cơ quan tư pháp
là TAND cấp có thẩm quyền hoặc cơ quan hành chính là Ủy ban nhân dân (UBND) cấp có
thẩm quyền (Điều 203 Luật đất đai năm 2013). Tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền giải
quyết của TAND được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Bên cạnh đó, còn có một
dạng tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới hành chính giữa các cấp đơn vị hành chính
(xã, huyện, tỉnh). Dạng tranh chấp này không nằm trong nội hàm của khái niệm tranh chấp
đất đai quy định tại khoản 24 Điều 3 Luật đất đai năm 2013; vì đây là tranh chấp về quyền
quản lý nhà nước về mặt lãnh thổ giữa các đơn vị hành chính liên quan đến tổ chức bộ máy
nhà nước. Như vậy, có thể thấy việc nhà làm luật xác định chủ thể và nội hàm của tranh
chấp đất đai như trên là phù hợp và nhất quán với chính sách đất đai của Nhà nước ta. Có
chăng như đã phân tích ở trên, khoản 24 Điều 3 Luật đất đai năm 2013 cần thiết quy định
rõ tranh chấp là gì và đưa thêm cụm từ "lợi ích" vào khái niệm; theo đó, có thể định nghĩa
tranh chấp đất đai như sau: Tranh chấp đất đai là những mâu thuẫn, xung đột về lợi ích,
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Từ khái niệm tranh chấp đất đai có thể thấy tranh chấp đất đai có các đặc điểm chủ
yếu sau:
Một là, đặc điểm về chủ thể. Do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất
đai ở nước ta: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu [23, Điều
4]. Nên tranh chấp đất đai ở nước ta chỉ là tranh chấp diễn ra giữa người sử dụng đất với
nhau hoặc giữa người sử dụng đất với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác; chứ không có
tranh chấp về quyền sở hữu đất đai. Do đó, pháp luật đất đai quy định Nhà nước không
thừa nhận việc đòi lại đất đã được điều chỉnh cho người khác khi thực hiện chính sách đất
đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa
miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Hai là, ở nước ta không có tranh chấp về quyền sở hữu đất đai mà chỉ tồn tại tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quá trình
sử dụng đất. Do pháp luật nước ta chỉ thừa nhận một chế độ sở hữu đất đai - Chế độ đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.
Ba là, tranh chấp liên quan đến cơ sở pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất giữa một bên là cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân trong việc ra quyết định giao đất, cho thuê đất; quyết định cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất; quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ);
quyết định về phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất v.v... là tranh chấp hành chính. Việc giải quyết các tranh chấp này do Tòa hành chính
giải quyết.
Trong khi đó, tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất giữa những người sử dụng đất với nhau hoặc giữa họ với tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
khác là tranh chấp mang tính chất dân sự. Việc giải quyết loại tranh chấp này thuộc thẩm
quyền của Tòa dân sự.
Bốn là, tranh chấp đất đai luôn gắn liền với quá trình sử dụng đất của các chủ thể nên
khi xảy ra không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp mà còn làm ảnh
hưởng đến các bất động sản liền kề, gây mất ổn định, bất đồng trong nội bộ nhân dân và
ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, làm cho những chính sách, quy định pháp luật về đất
đai của Nhà nước không được thực thi một cách triệt để.
1.1.3. Hậu quả của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội không bình thường; bởi lẽ, chỉ khi nảy sinh
bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai thì
mới xuất hiện loại tranh chấp này. Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước
ta thì tranh chấp đất đai xảy ra là điều khó tránh khỏi. Tranh chấp đất đai phát sinh gây ra
một số hậu quả chủ yếu sau đây:
Một là, tranh chấp đất đai là sự tổn thương về quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất
đai. Như phần trên đã đề cập, chỉ khi phát sinh bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ
giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai thì mới xuất hiện xung đột, tranh chấp đất đai.
Hai là, tranh chấp đất đai tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị - xã hội. Bởi
lẽ, với một đất nước nông nghiệp có khoảng 70 % dân số là nông dân như Việt Nam thì đất
đai có vị trí và tầm quan trọng về nhiều mặt chính trị, kinh tế, xã hội và môi trường… Nên
đất đai là vấn đề nhạy cảm thu hút sự quan tâm của mọi thành viên trong xã hội. Tranh
chấp đất đai nếu không được giải quyết kịp thời, nhanh chóng và dứt điểm sẽ phát triển
thành những điểm nóng, đe dọa sự ổn định chính trị - xã hội ở từng địa phương và trong
phạm vi cả nước. Thực tiễn vụ việc tranh chấp đất đai ở số 4 Nhà Chung, số 179 phố Nguyễn
Lương Bằng (Hà Nội) v.v... là minh chứng hùng hồn chứng minh cho nhận định của tác giả.
Ba là, tranh chấp đất đai phá vỡ mối quan hệ, tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân;
gây chia rẽ sâu sắc, tồn tại sự bất đồng giữa các thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng
đồng dân cư. Nó khiến quan hệ xã hội trong lĩnh vực đất đai rơi vào tình trạng tổn thương,
khủng hoảng và mất ổn định xã hội.
Bốn là, xét về khía cạnh kinh tế. Tranh chấp đất đai gây tốn kém tiền của, thời
gian, công sức và chi phí của xã hội. Điều này thể hiện:
i) Tranh chấp đất đai làm ngưng trệ quá trình sử dụng đất, khiến đất đai bị bỏ hoang
trong một thời gian và không được sử dụng nhằm tạo ra của cải vật chất.
ii) Các bên tranh chấp mất thời gian, công sức và tiền bạc vào cuộc chiến pháp lý;
theo đuổi việc khiếu kiện kéo dài, qua nhiều cấp xét xử. Điều này còn gây tổn hại về sức
khỏe và tinh thần của các bên đương sự.
iii) Các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước có thẩm quyền phải mất nhiều thời
gian, công sức vào việc giải quyết tranh chấp đất đai.
iv) Xã hội mất một lượng chi phí thời gian, vật chất vào việc xem xét, giải quyết
tranh chấp đất đai; thay vì khoản tiền này được đầu tư để phát triển sản xuất - kinh doanh
để tạo ra nhiều của cải hơn, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động...
1.1.4. Các dạng tranh chấp đất đai phổ biến
Tranh chấp đất đai là biểu hiện của những bất đồng, mâu thuẫn trong quan điểm,
suy nghĩ của các chủ thể có quyền quản lý và sử dụng đất đai. Những biểu hiện này rất đa
dạng, phong phú; vì vậy; tranh chấp đất đai tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy
theo mục đích nghiên cứu và tiêu chí phân loại mà tranh chấp đất đai được chia thành các
loại, dạng. Căn cứ vào bản chất pháp lý, có thể chia tranh chấp đất đai thành các dạng cơ
bản sau:
Thứ nhất, tranh chấp về quyền sử dụng đất (QSDĐ). Đặc trưng của dạng tranh
chấp này là các bên chủ thể đều có QSDĐ và có sự chiếm hữu, sử dụng thực tế đất đai có
tranh chấp. Dạng tranh chấp này được chia ra thành một số tranh chấp cụ thể sau:
Một là, tranh chấp ai là người có QSDĐ. Đây có thể là tranh chấp toàn bộ một thửa
đất hoặc nhiều thửa đất, tranh chấp một phần của thửa đất (tranh chấp ranh giới đất liền kề)
giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa những vùng đất mà họ được Nhà
nước cho phép quản lý và sử dụng. Loại tranh chấp này thường nảy sinh do một bên tự ý
thay đổi mốc giới hoặc hai bên không xác định được mốc giới sử dụng đất hoặc do quá
trình quản lý, cấp GCNQSDĐ chưa rõ ràng, còn nhiều sai sót.
Hai là, tranh chấp về QSDĐ, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ ly hôn giữa vợ
và chồng. Tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân được pháp luật quy định thuộc sở hữu
chung hợp nhất. QSDĐ và các tài sản gắn liền với đất như nhà cửa, công trình xây dựng
v.v... là những tài sản có giá trị lớn. Vì vậy, khi vợ chồng "đường ai nấy đi" nảy sinh tranh
chấp về chia tài sản chung là nhà, đất . Dạng tranh chấp này còn liên quan đến tranh chấp
tặng cho QSDĐ; vì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng thường được bố mẹ chồng hoặc bố
mẹ vợ tặng cho QSDĐ.
Ba là, tranh chấp về QSDĐ, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ thừa kế. Dạng
tranh chấp này phát sinh khi các chủ thể có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật đối
với phần di sản thừa kế là QSDĐ và/hoặc tài sản gắn liền với đất trong trường hợp không
có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp một phần hay toàn bộ và các bên không tự thỏa
thuận phân chia được với nhau.
Bốn là, tranh chấp trong quan hệ tặng cho QSDĐ nhưng không có hợp đồng. Trường
hợp này, giữa các bên tặng cho thường có quan hệ thân thiết, gần gũi với nhau như bố mẹ
với con cái, anh chị, em ruột với nhau; nên khi tặng cho, các bên không làm văn bản, hợp
đồng tặng cho. Tranh chấp thường xuất hiện khi bên tặng cho muốn đòi lại QSDĐ đã cho
trước đây. Dạng tranh chấp này thường có cả tài sản trên đất; vì khi được tặng cho, bên
được tặng cho đã xây dựng nhà cửa, công trình trên đất.
Năm là, tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền với đất. Tranh chấp này phát
sinh khi người có QSDĐ, tài sản gắn liền với đất cho người khác mượn, ở nhờ hoặc cho
thuê nhà, đất nay những người đó không trả lại. Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền
với đất cũng phát sinh do có sự thay đổi trong chính sách, pháp luật đất đai của Nhà nước
qua các thời kỳ mà đất đã được chia cấp cho người khác. Loại tranh chấp này thường tồn
tại ở các dạng cụ thể sau: i) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền với đất khi cho thuê,
cho mượn, ở nhờ; ii) Tranh chấp đòi lại QSDĐ, tài sản gắn liền với đất của người thân
trong những giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp
cho người khác. Trong dạng tranh chấp này bao gồm cả tranh chấp của hộ gia đình xã viên
đòi lại đất đã góp vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất khi vào hoặc ra khỏi hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất; iii) Tranh chấp đòi lại quyền sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở
nước ngoài thuộc diện không được pháp luật cho sở hữu nhà ở tại Việt Nam nhờ người
thân đứng tên mua hộ nhà, đất. Nay người đứng tên mua hộ không làm thủ tục sang tên
hoặc không trả lại nhà; iv) Tranh chấ p đòi la ̣i QSDĐ và tài sản gắ n liề n với đấ t của dòng
ho ̣, nhà thờ, thánh thấ t, chùa chiề n. Do hoàn cảnh lịch sử của đấ t nước, các cơ sở này được
Nhà nước mươ ̣n, trưng du ̣ng vào các mu ̣c đić h khác nhau, nay không trả nên ho ̣ đòi la ̣i.
Thứ hai, các dạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện hợp
đồng liên quan đến QSDĐ, tài sản gắn liền với đất. Khác với các dạng tranh chấp trên đây,
ở dạng tranh chấp này, các bên bị ràng buộc quyền và nghĩa vụ với nhau trên cơ sở hợp
đồng. Các dạng tranh chấp cụ thể được phân chia theo từng loại hợp đồng bao gồm tranh
chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp và hợp đồng
góp vốn bằng QSDĐ.
Trong số các dạng tranh chấp này thì phức tạp nhất là tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng, hợp đồng thế chấp và hợp đồng bảo lãnh, góp vốn bằng QSDĐ. Mặc dù, Luật đất
đai năm 2013 không quy định về quyền bảo lãnh QSDĐ của người sử dụng đất. Tuy nhiên,
trên thực tế vẫn xảy ra tranh chấp về mức bồi thường do hợp đồng bảo lãnh bằng QSDĐ
được ký kết trong giai đoạn trước nhưng nay mới phát sinh tranh chấp hoặc đến nay vẫn
chưa giải quyết xong.
Thứ ba, các dạng tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý đất đai của Nhà
nước. Chủ thể của dạng tranh chấp này tương đối đặc biệt hơn so với các dạng tranh chấp
kể trên, đó là một hoặc cả hai bên tranh chấp là cơ quan được Nhà nước giao quyền quản
lý đất đai. Nhà nước thông qua các cơ quan này thực hiện quyền quản lý về đất đai trên
phạm vi toàn quốc, trong quá trình đó cũng phát sinh một số dạng tranh chấp cụ thể sau:
Một là, tranh chấp về bồi thường, giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng. Đây là tranh chấp giữa cơ quan quản lý nhà nước về đất đai với người sử
dụng đất khi họ cho rằng mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư chưa thỏa đáng.
Hai là, tranh chấp về địa giới hành chính. Loại tranh chấp này thường xảy ra giữa
các cấp đơn vị hành chính (xã, huyện, tỉnh) liền kề với nhau; vì nhiều lý do như ở vị trí dọc
theo các triền sông lớn, không có mốc giới, ranh giới rõ ràng nhưng có vị trí quan trọng
(cửa sông, cửa biển...) hoặc có nguồn tài nguyên phong phú (khoáng sản, lâm, hải sản...).
Đây là dạng tranh chấp mà cả hai bên đều là các cơ quan được Nhà nước giao quản lý đất
đai tại địa phương.
Ba là, các tranh chấp về mục đích sử dụng đất. Để đảm bảo sự quản lý thống nhất,
đồng bộ quỹ đất trong phạm vi cả nước, Nhà nước đã có sự phân bổ và quy hoạch sử dụng
đất. Theo đó, căn cứ vào mục đích sử dụng mà đất đai được chia thành đất nông nghiệp,
đất trồng cây lâu năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất ở (đất thổ cư)... Trong quá trình sử dụng
đất thường phát sinh tranh chấp khi các bên sử dụng đất sử dụng không đúng mục đích
theo quy hoạch như tranh chấp phát sinh trong nhóm đất nông nghiệp giữa đất trồng lúa
với đất nuôi trồng thủy sản, tranh chấp về mục đích sử dụng đất giữa đất trồng cây lâu năm
và đất trồng cây hàng năm; tranh chấp phát sinh trong nhóm đất thổ cư như tranh chấp đất
hương hỏa và đất thổ cư hay tranh chấp về mục đích sử dụng đất giữa các nhóm đất với
nhau như chuyển đất nông nghiệp sang thành đất thổ cư không theo quy hoạch... Các chủ
thể của dạng tranh chấp này là người được Nhà nước giao đất và cơ quan, tổ chức được
Nhà nước trao quyền quản lý đất đai v.v...
1.1.5. Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai
Bất cứ hiện tượng tự nhiên, xã hội nào xảy ra cũng đều có nguyên nhân. Tranh
chấp đất đai là một hiện tượng xã hội xảy ra với tần suất và mức độ ngày càng phổ biến và
phức tạp ở hầu hết các địa phương trong cả nước, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống
của các bên tranh chấp và trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, tìm hiểu nguyên nhân để góp phần