Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai qua thực tiễn tại cà mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.5 MB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

HUỲNH VĂN VUI

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI QUA THỰC TIỄN TẠI CÀ MAU

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM

HUỲNH VĂN VUI

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI QUA THỰC TIỄN TẠI CÀ MAU

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:TS. ĐOÀN THỊ PHƢƠNG DIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Huỳnh Văn Vui mã số học viên: 7701251137A là học viên lớp
Cao học Luật Khóa 25 Cà Mau chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại
học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài
“Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai qua thực tiễn tại Cà Mau” (Sau đây
gọi tắt là “Luận văn”).
Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là
kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn
khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học
của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và
có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn
khách quan và trung thực.
Học viên thực hiện

Huỳnh Văn Vui


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp đất đai .....................................................................................................7
1.1. Khái niệm chung về tranh chấp đất đai ............................................................7
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai .....................................................................7
1.1.2. Các dạng tranh chấp đất đai .......................................................................9
1.1.3 Đặc điểm của tranh chấp đất đai .................................................................9
1.1.4. Nguyên nhân tranh chấp đất đai ..............................................................11

1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan .................................................................11
1.1.4.2 Nguyên nhân chủ quan .......................................................................11
1.2. Khái niệm chung về giải quyết tranh chấp đất đai và nguyên tắc giải quyết
tranh chấp đất đai...................................................................................................14
1.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai .............................................14
1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai ................................................15
1.2.2.1. Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất
quản lý ............................................................................................................15
1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của người sử dụng đất, nhất là lợi ích
kinh tế, khuyến khích việc tự thương lượng, tự hòa giải trong nội bộ nhân
dân ..................................................................................................................15
1.2.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với
việc tổ chức lại sản xuất, bố trí lại cơ cấu sản xuất hàng hóa ........................16
1.2.2.4. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa ..............................16
1.2.3. Lịch sử pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam từ 1954
đến nay ...............................................................................................................16
1.2.3.1. Thời kỳ trước khi ban hành Hiến pháp 1980 ....................................17
1.2.3.2. Thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp 1980 .......................................17
Tiểu kết luận chương 1 ..........................................................................................23
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật việt nam hiện hành về giải quyết tranh
chấp đất đai và việc tổ chức thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan
hành chính tỉnh Cà Mau .........................................................................................24


2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai
...............................................................................................................................24
2.1.1 Quy định của pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai .............................24
2.1.2. Quy định của pháp luật về tranh chấp đất đai tại tòa án nhân dân. .........27
2.1.3. Quy định của pháp luật về tranh chấp đất đai của cơ quan hành chính ...29

2.1.4. Căn cứ giải quyết tranh chấp đất đai .......................................................31
2.2. Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ
quan hành chính tỉnh Cà Mau ................................................................................32
2.2.1. Quy định về tiếp đơn và xử lý đơn tranh chấp, khiếu nại về đất đai .......32
2.2.2. Về thực hiện giải quyết tranh chấp đất đai ..............................................34
2.2.3. Quy định về công bố và niêm yết quyết định giải quyết có hiệu lực ......36
Tiểu kết luận chương 2 ..........................................................................................37
Chƣơng 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính nhà
nƣớc ở tỉnh Cà Mau – bất cập của pháp luật và kiến nghị hoàn thiện ..............39
3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính Nhà nước ở
tỉnh Cà Mau ...........................................................................................................39
3.1.1 Tổng quan về tình hình giải quyết tranh chấp tại cơ quan hành chính Nhà
nước ở tỉnh Cà Mau ...........................................................................................39
3.1.2. Một số vụ việc tranh chấp đất đai được giải quyết tại Cà Mau ...............42
- Nội dung vụ việc: .............................................................................................. 42

3.2. Những bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất
đai ..........................................................................................................................59
3.2.1. Bất cập, hạn chế của pháp luật làm phát sinh tranh chấp hành chính trong
lĩnh vực đất đai và pháp luật về giải quyết tranh chấp hành chính về đất đai ...60
3.2.2. Bất cập, hạn chế về cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh
vực đất đai ..........................................................................................................61
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hành chính trong
lĩnh vực đất đai ......................................................................................................62
3.3.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai trong lĩnh vực hành chính .........62
3.3.2. Đổi mới cơ chế giải quyết tranh chấp hành chính trong lĩnh vực đất đai 63
Tiểu kết luận chương 3 .........................................................................................64
KẾT LUẬN ..............................................................................................................65
DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

TCĐĐ:
UBND:
GCNQSDĐ:

Tranh chấp đất đai
Ủy ban nhân dân
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TAND:
TANDTC:
VKSNDTC:

Tòa án nhân dân
Toà án nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TCĐC:

Tổng cục địa chính

TTLT:

Thông tư liên tịch


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tranh chấp đất đai (TCĐĐ) là một hiện tượng phát sinh trong đời sống xã
hội, ở mọi quốc gia và mọi thời kỳ, không phụ thuộc vào chế độ sở hữu đất đai. Đối
với Việt Nam, trong suốt thời gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai
được thiết lập từ năm 1980 cho đến nay, TCĐĐ luôn là vấn đề thời sự, có những
diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và
gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Sự kiện Bộ
Tài nguyên - Môi trường từng đề xuất thành lập một cơ quan tài phán chuyên trách
để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai đã phần nào cho thấy tính chất
nghiêm trọng của vấn đề(1).
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, mà một trong số đó chính
là do quy định của pháp luật về vấn đề TCĐĐ trong thời gian qua còn nhiều bất cập,
hạn chế. Nhà nước ta đã cố gắng trong việc giải quyết các TCĐĐ nhằm ổn định tình
hình chính trị - xã hội. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đất đai ngày càng
được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, trong đó có quy định thẩm quyền giải quyết
TCĐĐ thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân (UBND) và Tòa án nhân dân
(TAND). Tuy nhiên, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mới
chỉ dừng lại ở mức độ chung chung, nên thực tiễn dẫn đến sự chồng chéo, đùn đẩy
giữa UBND và TAND. Hơn nữa, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan có
thẩm quyền cũng chưa đầy đủ và kịp thời. Do đó tình hình giải quyết TCĐĐ của các
cơ quan hành chính và TAND trong những năm qua vừa chậm trễ, vừa không thống
nhất. Có nhiều vụ việc phải xử đi, xử lại nhiều lần, kéo dài trong nhiều năm, phát
sinh khiếu kiện kéo dài và làm giảm lòng tin của người dân đối với đường lối, chính
sách, pháp luật của nhà nước.
Có thể khẳng định rằng, việc giải quyết TCĐĐ hiện nay là loại việc khó
khăn, phức tạp nhất và là khâu yếu nhất trong công tác giải quyết các tranh chấp
dân sự nói chung. Do đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của
pháp luật về đất đai, thẩm quyền giải quyết TCĐĐ của các cơ quan có thẩm quyền

(qua thực tiễn tại Cà Mau) trong những năm gần đây, trên cơ sở đó nhằm đề xuất

1

Kết quả kiểm tra việc thi hành Luật Đất đai 2003 theo Quyết định 1741/QĐ-BTNMT ngày 14/7/2005 của
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường cho thấy, 70% khiếu kiện của người dân là về đất đai, rất nhiều tranh
chấp về đất đai không thể giải quyết dứt điểm. Xem: “Sau tổng kiểm tra việc thi hành Luật Đất đai: làm gì
để giảm cơ bản khiếu kiện của dân?”,www.hanoitv.org.vn ngày 19/9/2005.


2

những kiến nghị, bổ sung chính sách, pháp luật về đất đai và đưa ra hướng giải
quyết các TCĐĐ một cách hợp lý, có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
cho công dân là việc làm có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.
Với nhận thức như vậy, tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai qua thực tiễn tại Cà Mau” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.
2. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
Cốt lõi của Luận văn là làm rõ cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp
đất đai tại cơ quan hành chính, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp để từ đó có
kiến nghị xác đáng về hoàn thiện pháp luật cho giải quyết (TTĐĐ) tại cơ quan hành
chính. Luận văn được thực hiện để trả lời cho các câu hỏi sau đây:
Thứ nhất: Tranh chấp đất đai là gì? Việc giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt
Nam có những đặc điểm gì đặc biệt? Việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Việt Nam
phải tuân thủ những nguyên tắc gì? Pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp đất
đai có quá trình hình thành và phát triển ra sao?
Thứ hai: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai đặc biệt là
phương thức giải quyết tại cơ quan hành chính ở Việt Nam như thế nào? Việc tổ
chức thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính
Nhà nước ở Cà Mau được tiến hành ra sao? Thực tiễn giải quyết các tranh chấp đất

đai tại các cơ quan hành chính Nhà nước ở Cà Mau có bộc lộ những hạn chế, bất
cập gì?
Thứ ba: Cần hoàn thiện những nội dung nào để tăng cường hiệu quả, hiệu lực
của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại các cơ quan hành chính.
Luận văn được xác lập trên cơ sở giả thuyết là :
Thứ nhất: Các cơ quan hành chính nhà nước trong qáa trình thực hiện nhiệm
vụ quản lý Nhà nước và việc tổ chức thực thi pháp luật thì việc đảm trách nhiệm vụ
giải quyết các tranh chấp đất đai đối với những trường hợp đặc thù là cần thiết.
Thứ hai: Pháp luật hiện hành mặc dù đã có những quy định về thẩm quyền và
thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính nhưng các quy định này
vẫn còn nhiều bất cập khi áp dụng trong thực tế.
Thứ ba, Việc tiếp tục hoàn thiện các nội dung cụ thể của pháp luật liên quan
đến giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính có tác dụng tích cực cho
việc giảm thiểu các tranh chấp đất đai tại các địa phương.
3. Tình hình nghiên cứu


3

Xoay quanh vấn đề của Luận văn “Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai qua thực tiễn tại Cà Mau”, trong quá trình nghiên cứu tác giả đã tìm thấy nhiều
công trình nghiên cứu, bài viết có liên quan, với nhiều cách viết và tiếp cận khác
nhau, đặc biệt chú ý với các tài, liệu công trình sau đây:
- Luận án Tiến sĩ Luật học, “ Kỷ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán
bộ quản lý cấp cơ sở” của tác giả Hồ Thị Song Quỳnh, thực hiện tại Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2016 đã
nghiên cứu lý luận và thực trạng về kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ
quản lý hành chính cấp cơ sở ở Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó đề xuất một số kiến
nghị nhằm góp phần nâng cao kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai của cán bộ quản
lý hành chính cấp cơ sở.

- Luận văn Tiến sĩ Luật học, “Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp
đất đai bằng tòa án ở nước ta” của tác giả Mai Thị Tú Oanh, được thực hiện tại Học
viện Khoa học Xã hội Việt Nam năm 2013 đã làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án. Từ đó
đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ Luật học, “Giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục
hành chính trong vùng đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang” của tác giả
Nguyễn Thành Đoàn, được thực hiện tại Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2009,
tác giả đã trình bày được Cơ sở lí luận và pháp lí giải quyết tranh chấp đất đai theo
thủ tục hành chính. Thực trạng giải quyết ranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính
đối với đồng bào dân tộc trên địa bàn tỉnh An Giang và một số giải pháp nâng cao
hiệu quả. Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả việc giải quyết tranh chấp đối
với đồng bào dân tộc, góp phần đảm bảo an ninh chính trị và phục vụ yêu cấu phát
triển kinh tế xã hội.
Ngoài ra tác giả còn tìm thấy một số bài viết đăng trên tạp chí khoa học có
liên quan đến đề tài như:
Đỗ Thị Hằng, Những bất cập về hòa giải cơ sở trong giải quyết tranh chấp
đất đai theo Luật đất đai 2013, Thanh tra, Thanh tra chính phủ số 05/2016, tr. 20236.
Nguyễn Vĩnh Diện, Một số điểm mới về giải quyết tranh chấp đất đai thep
Luật đất đai năm 2013, Dân chủ & Pháp luật, Bộ Tư pháp, số 11(272), tr. 37-398.


4

Đặng Thị Phượng, Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Tòa án
theo Luật Đất năm 2013, Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 6/2014 trang
11-1611.
Qua nghiên cứu các tài liệu, Luận văn đã thực hiện trước đây cũng có nhiều
công trình nghiên cứu có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai những tài liệu

giúp tuy chỉ mang tính tham khảo nhưng đã giúp cho tác giả thu thập được thông tin
đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về giải quyết tranh chấp đất đai của
các cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn chưa có một cộng trình nghiên
cứu nào mang tính toàn diện về lý luận nhằm đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển của xã hội và giải quyết các vụ việc tranh chấp đất một cách triệt để, cũng như
các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại cơ quan hành
chính và thực tiễn đề ra từ khi Luật đất đai năm 2013 có hiệu lực. Chính vì vậy mục
đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giải quyết
tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp
đất đai tại cơ quan hành chính ở tỉnh Cà Mau, qua đó đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về đất đai và cơ chế áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn
các vụ tranh chấp đất đai tại cơ quan hành chính.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật Việt Nam về
giải quyết TCĐĐ, đặc biệt chú trọng đến giải quyết TCĐĐ tại cơ quan hành chính
Nhà nước.
Việc giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay, tùy theo loại vụ việc,
thuộc thẩm quyền giải quyết tại cơ quan hành chính và cơ quan tư pháp giải quyết.
Tuy nhiên, đề tài xác định phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn ở việc giải quyết tại cơ
quan hành chính. Tuy vậy, để làm rõ nội dung nghiên cứu và mang tính hệ thống, tại
phần lý luận và phân tích quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp đất đai, Luận
văn đã trình bày một số nội dung có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai tại
tòa án. Song, tác giả xác định đây không phải là nội dung trọng tâm của Luận văn
này.
Khi khảo sát thực tiễn tổ chức thực hiện và thực tiễn vụ việc, luận văn chỉ
phân tích thực tiễn và các vụ việc tranh chấp đất đai được giải quyết tại cơ quan
hành chính Nhà nước tại tỉnh Cà Mau.
Các thông tin, số liệu thu thập trong luận văn là những thông tin, số liệu từ
khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực (năm 2014) đến nay.



5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu sau đây để giải quyết các vấn đề
do đề tài đặt ra: Các phương pháp phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so
sánh đối chiếu, phương pháp thống kê.
+ Phƣơng pháp phân tích tổng hợp: Phương pháp phân tích và tổng hợp là
phương pháp nghiên cứu chung và được sử dụng xuyên suốt trong quá trình thực
hiện luận văn. Phương pháp tổng hợp được sử dụng tại chương I của luận văn nhằm
hệ thống hóa và tổng hợp các lý luận cơ bản về tranh chấp đất đai, giải quyết tranh
chấp đất đai tại cơ quan hành chính Nhà nước.
+ Phƣơng pháp phân tích luật viết: Phương pháp này cũng được sử dụng
tại chương II để phân tích các quy định từ các văn bản pháp quy hiện hành liên quan
đến giải quyết tranh chấp đất đai.
+ Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Phương pháp so sánh, đối chiếu được
sử dụng trong các chương của Luận văn, phương pháp này dùng để sử dụng vào
việc đối chiếu, so sánh các quy định từ các văn bản pháp quy hiện hành, các quan
điểm, ý kiến về các vấn đề pháp lý liên quan đến pháp luật về tranh chấp đất đai tại
cơ quan hành chính Nhà nước.
+ Phƣơng pháp thống kê: Phương pháp này được sử dụng tại phần 1
chương 3 của Luận văn để phân tích thực trạng và xu hướng tranh chấp đất đai và
kết quả giải quyết tranh chấp đất đai trong thực tiễn tại các cơ quan Nhà nước ở tỉnh
Cà Mau.
6.

ngh a và khả năng ứng dụng của Luận văn
Đề tài nghiên cứu này được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích đánh giá thực
trạng về giải quyết TCĐĐ tại cơ quan hành chính Nhà nước ở tỉnh Cà Mau. Trên cơ
sở đó chỉ ra những bất cập, tồn tại của pháp luật đất đai hiện hành về thẩm quyền và

thủ tục giải quyết TCĐĐ tại cơ quan hành chính; đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật về giải quyết TCĐĐ tại cơ quan hành chính nhằm đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị
tham khảo đối với cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong quá trình xây dựng,


6

hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật đất đai nói chung và pháp luật giải quyết
TCĐĐ nói riêng ở nước ta.


7

Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về tranh chấp đất đai và
giải quyết tranh chấp đất đai
1.1. Khái niệm chung về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Đất đai là một loại tài sản quý giá, một tài nguyên do thiên nhiên ban tặng
cho con người. Vì lẽ đó, có thể nói việc hưởng lợi từ đất đai trao cho, đất đai có vị
trí là một đối tượng quan trọng trọng bậc nhất của quyền sở hữu. Cũng vì thế mà
tranh chấp đất đai (TCĐĐ) đã trở thành một trong những hiện tượng xảy ra trong
bất kỳ một quốc gia và ở bất kỳ một thể chế chính trị nào.
Trong ngôn ngữ thông thường, tranh chấp được hiểu là sự giành nhau một
cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào 2. Tranh chấp đất đai là tranh chấp có
đối tượng tranh chấp là đất đai. Nếu coi đối tượng của tranh chấp là đất đai thì tranh
chấp đất đai cũng có thể được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau.
Nếu hiểu theo nghĩa rộng, tranh chấp đất đai là sự mâu thuẫn, bất đồng trong

việc xác định quyền sở hữu, quản lý hoặc quyền sử dụng đất đai. Tranh chấp này có
thể được phát sinh trực tiếp hoặc phát sinh một cách gián tiếp trong quá trình các
bên tranh chấp quản lý và sử dụng đất đai.
Theo nghĩa hẹp, tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và
sử dụng đất đai.
Tuy vậy, thực tế vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm này. Có
quan điểm cho rằng, tranh chấp đất đai chỉ là những tranh chấp liên quan đến quyền
sử dụng đất3. Tuy nhiên, trong Luật Đất đai năm 2013 lại không có khái niệm hay
định nghĩa nào về tranh chấp quyền sử dụng đất, cho nên thế nào là tranh chấp về
quyền sử dụng đất là hoàn toàn phụ thuộc vào cách hiểu của các bên có liên quan và
đặc biệt là của cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Cũng có ý kiến cho rằng, tranh chấp đất đai là mọi tranh chấp phát sinh trong
quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn
liền với đất, tranh chấp liên quan đến địa giới hành chính… Quan điểm này được
nhiều cơ quan có thẩm quyền giải quyết chấp nhận vì Điều 203 Luật Đất đai năm
2013 quy định tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường,
2

/>Lưu Quốc Thái (2006), Bàn về khái niệm tranh chấp dất đai theo Luật đất đai 2003, Tạp chí Khoa học pháp
lý, số 2/2006.
3


8

thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như
sau:
“1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn

liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;
2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không
có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ
được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định
sau đây:
a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
về tố tụng dân sự;
3. Trường hợp đương sự lựa chọn giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân
cấp có thẩm quyền thì việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện như sau:
a) Trường hợp tranh chấp giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư với
nhau thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết; nếu không đồng ý với
quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành
chính;
b) Trường hợp tranh chấp mà một bên tranh chấp là tổ chức, cơ sở tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết; nếu không đồng ý với quyết định giải
quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hoặc khởi
kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính;
4. Người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại khoản 3 Điều này
phải ra quyết định giải quyết tranh chấp. Quyết định giải quyết tranh chấp có hiệu
lực thi hành phải được các bên tranh chấp nghiêm chỉnh chấp hành. Trường hợp
các bên không chấp hành sẽ bị cưỡng chế thi hành.”
Trong thực tế, tranh chấp đất đai được hiểu là sự tranh chấp về quyền quản
lý, quyền sử dụng xung quanh một khu đất cụ thể mà mỗi bên đều cho rằng mình
phải được quyền đó do pháp luật quy định và bảo hộ. Vì vậy, họ không thể cùng
nhau tự giải quyết các tranh chấp đó mà phải yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phân
xử (giải quyết).



9

Trong luận văn này, Khái niệm tranh chấp đất đai chỉ được hiểu trong phạm
vi tranh chấp giữa các chủ thể về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất.
1.1.2. Các dạng tranh chấp đất đai
Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013 thì tranh chấp đất đai là tranh
chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan
hệ đất đai. Trong khái niệm này chúng ta cần lưu ý: đối tượng của tranh chấp đất
đai không phải là quyền sở hữu đất, các chủ thể tham gia tranh chấp không phải là
các chủ thể có quyền sở hữu đối với đất. Đây là điều không phải bàn cãi vì Điều 53,
Hiến pháp 2013 hay điều 4, Luật đất đai 2013 quy định rất rõ đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Trên thực tế, tranh chấp đất đai không chỉ là hiện tượng phổ biến mà trong
đó còn hết sức đa dạng về chủ thể cũng như nội dung tranh chấp. Tuy nhiên, về cơ
bản tranh chấp đất đai được chia thành ba dạng như sau:
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất: là những tranh chấp giữa các bên với
nhau về việc ai có quyền sử dụng hợp pháp đối với một mảnh đất nào đó. Trong
dạng tranh chấp này chúng ta thường gặp các loại tranh chấp về ranh giới đất; tranh
chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong các quan hệ ly hôn, thừa
kế; tranh chấp để đòi lại đất (đất đã cho người khác mượn sử dụng mà không trả
lại, hoặc tranh chấp giữa người dân tộc thiểu số với người đi xây dựng vùng kinh tế
mới…)
- Tranh chấp về quyền, ngh a vụ phát sinh trong quá trình sử dụng
đất: dạng tranh chấp này thường xảy ra khi các chủ thể có những giao dịch dân sự
về quyền sử dụng đất hoặc các tranh chấp liên quan đến việc bồi thường giải phóng
mặt bằng, tái định cư…
- Tranh chấp về mục đích sử dụng đất: đây là dạng tranh chấp ít gặp hơn,
những tranh chấp này liên quan đến việc xác định mục đích sử dụng đất là gì.

Thông thường những tranh chấp này cũng dễ có cơ sở để giải quyết vì trong quá
trình phân bổ đất đai cho các chủ thể sử dụng, Nhà nước đã xác định mục đích sử
dụng đất thông qua quy hoạch sử dụng đất. Tranh chấp chủ yếu do người sử dụng
đất sử dụng sai mục đích so với khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
1.1.3 Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Là một dạng đặc biệt của tranh chấp dân sự, tranh chấp đất đai vừa chứa
đựng những đặc điểm chung của một tranh chấp dân sự, lại vừa có những đặc điểm


10

đặc trưng riêng khác với các tranh chấp dân sự, tranh chấp lao động, tranh chấp kinh
doanh, thương mại khác... có thể chỉ ra những điểm khác biệt chủ yếu sau đây:
Một là, Xét về chủ thể tranh chấp, tranh chấp đất đai chỉ xuất hiện giữa các
chủ thể có quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là các chủ thể của của
quyền sở hữu đất đai. Bởi lẽ, ở Việt Nam, quyền sở hữu đất thuộc về toàn dân do
Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu. Các chủ thể có quyền sử dụng đất được xác lập
trên cơ sở được nhà nước trao quyền sử dụng đất (thông qua quyết định giao đất,
hợp đồng cho thuê đất của Nhà nước hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng
đất hợp pháp đối với diện tích đất đang sử dụng) hoặc được Nhà nước cho phép nhận
chuyển nhượng từ các chủ thể khác. Vì thế, chủ thể của tranh chấp đất đai là người
sử dụng đất (các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) tham gia vào tranh chấp đó với tư cách
là những người được trao quyền quản lý hoặc trao quyền sử dụng đất.
Hai là, So với các loại tranh chấp khác, tranh chấp đất đai có nội dung rất đa
dạng và phức tạp. Điều này xuất phát từ việc trong nền kinh tế thị trường, các hoạt
động quản lý và sử dụng đất ngày càng trở nên rất đa dạng, phong phú do đất đai
được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng khác
nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không đơn thuần chỉ
là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Đất đai đã trở thành một loại hàng
hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động theo quy luật cung cầu trên

thị trường, nên việc quản lý và sử dụng nó không đơn thuần chỉ là việc khai thác giá
trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất (thông qua các hành vi kinh
doanh quyền sử dụng đất). Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong
phú và phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng xung quanh việc quản lý và sử
dụng đất đai cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn.
Ba là, tranh chấp đất đai có thể làm phát sinh những hậu quả xấu về nhiều
mặt như: làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản lý đất đai, gây
đình trệ sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích không những của bản thân các bên
tranh chấp mà còn gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Hơn thế nữa
tranh chấp đất đai còn có thể gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã
hội.
Bốn là, tranh chấp đất đai có đối tượng là quyền quản lý và quyền sử dụng
đất. đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp
mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.


11

1.1.4. Nguyên nhân tranh chấp đất đai
1.1.4.1. Nguyên nhân khách quan
Tranh chấp đất đai ở nước ta phát sinh có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại.
Ở miền Bắc, sau Cách mạng tháng 8 và sau năm 1953, Đảng và Chính phủ đã tiến
hành cải cách ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của thực dân, phong
kiến, thiết lập quyền sở hữu ruộng đất cho người nông dân. Năm 1960, thông qua
con đường hợp tác hóa nông nghiệp, ruộng đất của người nông dân được đưa vào
làm tư liệu sản xuất chung trở thành sở hữu tập thể, do đó tình hình sử dụng đất đai
tương đối ổn định.
Ở miền Nam, sau hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm tình hình sử dụng
đất đai có nhiều diễn biến phức tạp hơn. Trong 9 năm kháng chiến, Chính phủ đã
tiến hành chia ruộng đất cho người nông dân hai lần vào các năm 1949 - 1950 và

năm 1954, nhưng đến năm 1957, ngụy quyền Sài gòn đã thực hiện cải cách điền địa,
thực hiện việc "truất hữu" nhằm xóa bỏ thành quả của cách mạng, gây ra những xáo
trộn về quyền quản lý ruộng đất của người nông dân. Sau khi thống nhất đất nước,
năm 1975, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây dựng
hàng loạt các lâm trường, nông trường, trang trại. Những tổ chức đó bao chiếm quá
nhiều diện tích đất nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều chỉnh
ruộng đất vào các năm 1977 - 1978 và năm 1982 - 1983, với chính sách chia cấp đất
theo kiểu bình quân, "cào bằng" đã dẫn tới những xáo trộn lớn về ruộng đất, về ranh
giới, số lượng và mục đích sử dụng đất đai.
Khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường với sự thay đổi cơ chế
quản lý làm cho đất đai thì đất đai ngày càng trở nên có giá trị. Dưới góc độ kinh tế,
đất đai được coi như một loại hàng hóa trao đổi trên thị trường theo quy luật cung
cầu, quy luật giá trị. Đây là quy luật tự nhiên, nhưng đối với đất lại không được
thừa nhận một cách dễ dàng ở nước ta trong một thời gian khá dài. Do vậy Nhà
nước chưa kịp thời có các chính sách để điều tiết và quản lý có hiệu quả.
Từ khi nhà, đất trở nên có giá trị cao đã tác động đến tâm lý của nhiều người
dẫn đến tình trạng tranh chấp, đòi lại nhà, đất mà trước đó đã bán, cho thuê, cho
mượn, đã bị tịch thu hoặc giao cho người khác sử dụng hoặc khi thực hiện một số
chính sách về đất đai ở các giai đoạn trước đây mà không có các văn bản xác định
việc sử dụng đất ổn định của họ.
1.1.4.2 Nguyên nhân chủ quan
Về cơ chế quản lý đất đai


12

Trong thời gian qua, công tác quản lý nhà nước về đất đai còn bị buông lỏng,
nhiều sơ hở, có khi phạm sai lầm, giải quyết tùy tiện, sai pháp luật
Trong cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch hóa cao độ, Nhà nước phân công,
phân cấp cho quá nhiều ngành, dẫn đến việc quản lý đất đai thiếu chặt chẽ, nhiều sơ

hở. Có thời kỳ mỗi loại đất do một ngành quản lý dẫn đến việc tranh chấp về đất
thuộc quyền quản lý của nhiều ngành khác nhau.
Trong cơ chế thị trường, Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch
chung, có sự phân công, phân cấp trách nhiệm quản lý đất đai khá rõ. Tuy nhiên,
trên thực tế vẫn còn tồn tại nhiều sai phạm, non kém về trình độ quản lý của đội ngũ
cán bộ làm công tác quản lý đất đai. Điều này góp phần làm xuất hiện nhiều tranh
chấp đất đai phức tạp, khó giải quyết. Cụ thể:
- Hồ sơ địa chính chưa hoàn chỉnh, đồng bộ, nên thiếu căn cứ pháp lý và thực
tế để xác định quyền sử dụng và quản lý đất đai của tổ chức, cá nhân, đặc biệt là ở
những vùng mà quan hệ đất đai phức tạp và có nhiều biến động. Trong nhiều trường
hợp, việc tranh chấp đất đai lại bắt nguồn từ những tài liệu lịch sử của chế độ cũ để
lại. Hơn nữa, việc giao đất lại không được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ,
nên hồ sơ đất đai không đồng bộ và bị thất lạc.
- Quy hoạch sử dụng đất đai chưa đi vào nề nếp, nên nhiều trường hợp sử
dụng đất không hợp lý khó bị phát hiện. Khi phát hiện thì lại không được xử lý kịp
thời. Nhiều địa phương còn có những nhận thức lệch lạc về chính sách đất đai, quản
lý đất đai còn nặng về biện pháp mệnh lệnh hành chính mà chưa chú ý đến biện
pháp quản lý về mặt kinh tế.
- Một số nơi ban hành văn bản pháp lý đất đai không rõ ràng hoặc chủ trương
sai lầm của một số cán bộ đã làm cho một bộ phận nhân dân hiểu lầm là Nhà nước
có chủ trương "trả lại đất cũ", trả lại đất ông cha, dẫn đến việc khiếu kiện đòi lại đất
ngày càng nhiều.
Về công tác cán bộ thực hiện công vụ liên quan đến đất đai
Một bộ phận cán bộ, công chức được giao nhiệm vụ quản lý đất đai đã thực
hiện không tốt nhiệm vụ được giao, thiếu gương mẫu, lạm dụng chức quyền, vì lợi
ích riêng tư, bị kẻ xấu lợi dụng để "đục nước béo cò", thực hiện những âm mưu đen
tối, gây mất ổn định xã hội.
Lợi dụng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, tổ chức lại sản xuất theo cơ chế
mới, một số cán bộ, đảng viên lợi dụng sơ hở trong các chế độ, chính sách đất đai
của Nhà nước và dựa vào chức quyền để chiếm dụng đất đai trái phép, gây bất bình



13

trong nhân dân. Đặc biệt, ở những nơi nội bộ mất đoàn kết thì lại lấy vấn đề đất đai
làm phương tiện để đấu tranh với nhau, một số phần tử xấu lợi dụng cơ hội này để
bao chiếm đất đai hoặc kích động gây chia rẽ nội bộ và gây mất ổn định về tình
hình chính trị- xã hội, làm mất uy tín của tổ chức Đảng và chính quyền.
Về công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết tranh chấp đất đai ở nhiều nơi,
nhiều lúc còn hữu khuynh, mất cảnh giác. Chẳng những hồ sơ đất đai không đầy đủ,
mà việc đăng ký nhân khẩu, hộ khẩu ở nông thôn cũng chưa chặt chẽ, kẻ xấu có
điều kiện để hoạt động dễ dàng. Khi phát hiện những kẻ cầm đầu, tổ chức gây rối,
kích động vi phạm pháp luật thì lúng túng trong xử lý, nương nhẹ trong thi hành pháp
luật, không tổ chức được lực lượng quần chúng cốt cán đấu tranh với mọi biểu hiện
tiêu cực mà trái lại, để quần chúng bị bọn xấu lôi kéo. Tổ chức Đảng và chính
quyền trở thành người bị động, phải chạy theo giải quyết những vụ việc đã xảy ra
hoặc xử lý những hậu quả nặng nề.
Về đường lối chính sách, pháp luật về đất đai
Chính sách đất đai và các chính sách khác có liên quan đến đất đai chưa đồng
bộ, có mặt không rõ ràng và đang còn biến động. Thực tế áp dụng các chính sách
đất đai còn tùy tiện dẫn đến tình trạng: Người có khả năng sản xuất nông nghiệp thì
thiếu ruộng đất, ngược lại, người có ruộng lại không có khả năng hoặc nhu cầu sản
xuất, để đất đai hoang hóa hoặc sử dụng đất kém hiệu quả. Tình trạng người nông
dân phải ra các đô thị bán sức lao động, gây mất ổn định cơ cấu lao động sản xuất cũng
có nguyên nhân từ việc thiếu đất để sản xuất.
Thực tiễn đã chứng minh những sai lầm trong phong trào hợp tác hóa nông
nghiệp như nóng vội, gò ép, đưa quy mô hợp tác xã nhỏ lên quy mô lớn không phù
hợp với trình độ năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ cơ
sở đã dẫn đến hậu quả là đất đai sử dụng bừa bãi, lãng phí và kém hiệu quả.

Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp được đổi mới,
người sử dụng đất có nhu cầu sử dụng đất ngày càng cao, đòi hỏi phải có một diện
tích đất nhất định để sản xuất. Do đó đã xuất hiện tư tưởng đòi lại đất để sản xuất.
Chính sách đất đai chưa phù hợp, chậm đổi mới đã tạo cơ sở cho việc lấn chiếm đất đai
diễn ra khá phổ biến, song chưa được giải quyết và xử lý kịp thời.
Bên cạnh đó, việc Nhà nước chia, tách, nhập hoặc thành lập mới những đơn
vị hành chính trong những năm gần đây dẫn đến việc phân địa giới hành chính


14

không rõ ràng, cụ thể làm cho tình hình tranh chấp đất đai ngày càng phức tạp và
gay gắt hơn.
Về công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật
Công tác tuyên truyền, giáo dục và phổ biến pháp luật đất đai chưa được coi
trọng, làm cho nhiều văn bản pháp luật đất đai của Nhà nước chưa được phổ biến
sâu rộng trong nhân dân.
Tuy nhiên, việc tranh chấp đất đai ở mỗi địa phương khác nhau còn có những
nguyên nhân đặc thù và việc tìm ra những nguyên nhân đó phải căn cứ vào thực tế
sử dụng đất, và phong tục tập quán của từng địa phương để xây dựng được những
giải pháp tốt nhất nhằm giải quyết có hiệu quả từng vụ tranh chấp. Song trên thực
tế, khía cạnh này chưa được các cơ quan nhà nước chú trọng, xem xét.

1.2. Khái niệm chung về giải quyết tranh chấp đất đai và nguyên tắc giải
quyết tranh chấp đất đai
1.2.1. Khái niệm về giải quyết tranh chấp đất đai
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: "Giải quyết tranh chấp đất đai là
giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tổ chức và trên cơ sở đó
phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm hại đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý
đối với hành vi vi phạm pháp luật về đất đai".

Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết tranh chấp đất đai là
một trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò
trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết tranh chấp đất đai, Nhà nước điều
chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn
ngừa những vi phạm pháp luật có thể xảy ra.
Giải quyết tranh chấp đất đai, với ý nghĩa là một nội dung của chế độ quản lý
nhà nước đối với đất đai, được hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, nhằm tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật, nhằm giải quyết các
bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên, khôi phục lại quyền lợi cho bên bị xâm hại, đồng
thời xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
Như vậy, giải quyết tranh chấp đất đai là việc vận dụng đúng đắn các quy
định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất.


16

1.2.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định
tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, gắn việc giải quyết tranh chấp đất đai với
việc tổ chức lại sản xuất, bố trí lại cơ cấu sản xuất hàng hóa
Do ảnh hưởng tiêu cực của tranh chấp đất đai đến mọi mặt của đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội nên việc giải quyết các tranh chấp đất đai phải nhằm vào
mục đích bình ổn các quan hệ xã hội. Chú ý đảm bảo quá trình sản xuất của người
dân, tránh làm ảnh hưởng dây chuyền đến cơ cấu sản xuất chung. Đồng thời cải
thiện và bố trí, sắp xếp lại cơ cấu sản xuất hàng hóa theo chủ trương của Đảng: "Ai
giỏi nghề gì, làm nghề ấy".
1.2.2.4. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ ngh a
Khi giải quyết tranh chấp đất đai phải chú ý và tuân thủ các nguyên tắc, trình
tự, thủ tục, thẩm quyền mà pháp luật đã quy định. Phát hiện và giải quyết kịp thời

các vi phạm pháp luật về đất đai, tránh tình trạng để tranh chấp đất đai kéo dài, làm
ảnh hưởng tới tâm lý và lợi ích của người dân.
1.2.3. Lịch sử pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam từ 1954
đến nay
Hệ thống các văn bản pháp luật về đất đai được ban hành từ sau khi thành lập
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1945 tới nay được coi là một hệ thống
rất phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử và có nhiều chính sách khác nhau được
áp dụng ở cả hai miền Nam, Bắc. Pháp luật đất đai của nước ta có những đặc điểm
chủ yếu như sau:
Thứ nhất, pháp luật về đất đai phát triển gắn liền với các giai đoạn lịch sử
phát triển của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện tập trung
nhất đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách mạng ruộng đất ở nước ta.
Pháp luật về đất đai phát triển và ngày càng hoàn thiện trở thành một hệ thống
tương đối hoàn chỉnh, một bộ phận của hệ thống pháp luật Việt Nam. Từ những văn
bản ban hành hiệu lực chưa cao (Sắc lệnh, Nghị định, Quyết định, Thông tư…), đã
ra đời văn bản luật hình thức cao nhất có hiệu lực cao điều chỉnh các quan hệ đất đai
ở nước ta, đó là Luật Đất đai.
Thứ hai, sự hình thành và phát triển của hệ thống các văn bản pháp luật về
đất đai là một quá trình lâu dài, thể hiện ở cả hai mặt: số lượng và chất lượng, gắn
liền với lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Việt Nam. Hệ thống
pháp luật đất đai nói chung và pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai nói riêng
đã được xây dựng và từng bước hoàn thiện nhằm phúc đáp các yêu cầu về quản lý


15

1.2.2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
Trong nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế,
quan hệ pháp luật đất đai đã trở nên đa dạng, phức tạp kéo theo các tranh chấp đất
đai phát sinh cũng đa dạng, phức tạp và gay gắt. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp

đất đai phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định mà thực tế đã đặt ra. Muốn đáp
ứng được các yêu cầu đó, thì việc giải quyết tranh chấp đất đai phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
1.2.2.1. Nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc thống nhất
quản lý
Hiến pháp 2013, Luật Đất đai hiện hành khẳng định toàn bộ đất đai trên lãnh
thổ Việt Nam đều thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân chỉ là những người được Nhà nước giao đất cho
sử dụng chứ không có quyền sở hữu đối với đất đai. Do đó, đối tượng của mọi tranh
chấp đất đai phát sinh chỉ là quyền quản lý và quyền sử dụng đất chứ không phải là
quyền sở hữu đối với đất đai. Vì vậy, khi giải quyết các tranh chấp đất đai, phải tôn
trọng và bảo vệ quyền sở hữu toàn dân đối với đất đai mà Nhà nước là người đại
diện; bảo vệ quyền đại diện sở hữu đất đai của Nhà nước; bảo vệ thành quả cách
mạng về đất đai mà nhân dân ta đã giành được.
1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm lợi ích của ngƣời sử dụng đất, nhất là lợi ích kinh
tế, khuyến khích việc tự thƣơng lƣợng, tự hòa giải trong nội bộ nhân dân
Từ khi Luật Đất đai 1993 ra đời, Nhà nước đã thừa nhận năm quyền năng của
người sử dụng đất (quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp
quyền sử dụng đất) đã khẳng định tư tưởng đổi mới trong quá trình Nhà nước điều
hành các quan hệ xã hội về đất đai. Do đó, việc tôn trọng các quyền của người sử
dụng đất và tạo điều kiện để họ phát huy tối đa các quyền đó là nguyên tắc quan
trọng của Luật Đất đai. Thực tế đã chứng minh rằng, nếu lợi ích của người sử dụng
đất không được đảm bảo, thì việc sử dụng đất không thể mang lại hiệu quả kinh tế
cao. Đó cũng chính là nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết các tranh chấp
đất đai.
Tôn trọng quyền định đoạt của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp
luật đất đai là tôn trọng quyền tự do thỏa thuận, thương lượng của họ trên cơ sở các
quy định của pháp luật. Do vậy, hòa giải trở thành cách thức và cũng là nguyên tắc
giải quyết tranh chấp đất đai quan trọng và đạt hiệu quả nhất.



17

và sử dụng đất đai qua các thời kỳ, cụ thể đề cập đến một số văn bản pháp luật về
giải quyết tranh chấp đất đai tiêu biểu qua các giai đoạn như sau:
1.2.3.1. Thời kỳ trƣớc khi ban hành Hiến pháp 1980
Trong thời kỳ này, các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
chưa rõ ràng, cụ thể, ngoại trừ các quy định về giải quyết tranh chấp đất bãi sa bồi
(đất canh tác).
Thông tư 45/NV-TC ngày 02/7/1958 của Bộ Nội vụ về việc phân phối và
quản lý đất bãi sa bồi quy định thẩm quyền giải quyết "tranh chấp hoa màu do chính
quyền và nông hội giải quyết, nếu đặc biệt khó khăn thì đưa ra Tòa án xét xử"; thẩm
quyền giải quyết "tranh chấp địa giới hành chính đất bãi sa bồi" do ủy ban hành
chính xã đang quản lý giải quyết, nếu ranh giới thuộc nhiều xã thì địa phận xã nào
xã đó quản lý hoặc xã có điều kiện thuận tiện hơn quản lý, nếu xen kẽ nhiều xã thì
xã nào có nhiều số dân hơn trên đất bãi sa bồi quản lý và chịu trách nhiệm đảm bảo
cho các xã ít dân sản xuất trên bãi sa bồi.
Như vậy, giai đoạn này thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của ủy ban
hành chính các cấp chưa được quy định rõ ràng. Thực tế, việc giải quyết các tranh
chấp đất đai chủ yếu do ủy ban hành chính cấp xã thực hiện với vai trò của tổ chức
nông hội địa phương (tham gia nhiều vào công việc chính quyền), cơ quan tư pháp
chỉ xuất hiện khi giải quyết tranh chấp hoa màu trên đất bãi sa bồi.
1.2.3.2. Thời kỳ sau khi ban hành Hiến pháp 1980
 Giai đoạn từ khi Hiến pháp 1980 có hiệu lực đến trước khi Luật Đất đai
1987 ra đời
Hiến pháp 1980 ra đời đã khép lại một chặng đường dài phấn đấu không ngừng
của Nhà nước ta nhằm mục tiêu xã hội hóa toàn bộ vốn đất đai trong phạm vi cả
nước. Điều 19 và Điều 20 Hiến pháp 1980 quy định: "Đất đai, rừng núi, sông hồ,
hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa... là của
Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân", "Những tập thể và cá nhân đang sử dụng

đất đai được tiếp tục sử dụng".
Tuy nhiên, việc coi đất đai thuộc sở hữu chung, đất không có giá, dẫn tới
việc chia cấp đất tràn lan, sử dụng kém hiệu quả. Cấp xã cũng tham gia vào việc giao
đất cho nhân dân; việc lấn, chiếm đất để xây dựng nhà ở diễn ra phổ biến song không
được giải quyết kịp thời là nguyên nhân chủ yếu của các tranh chấp đất đai trong thời
kỳ này. Cơ chế quản lý, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn này chưa
thực sự khuyến khích nông dân và sản xuất nông nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều tập


18

đoàn sản xuất, hợp tác xã làm ăn kém hiệu quả, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Do đó, một số hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp đi đến tan rã, đất đai lại có sự
chia cấp lại. Nhiều gia đình trước kia đã hiến ruộng đất của cha ông vào các hợ tác xã,
nay đòi lại. Khi giải quyết các tranh chấp một số địa phương còn thiên về việc sử
dụng biện pháp mệnh lệnh hành chính, khiến cho các tranh chấp đất đai không được
xử lý thỏa đáng và dứt điểm, nên việc tranh chấp đất đai vẫn kéo dài.
Thời kỳ này đã xuất hiện thêm các tranh chấp về đất hương hỏa, đất thổ cư;
tranh chấp đất giữa đồng bào địa phương với những người từ nơi khác đến xây
dựng vùng kinh tế mới. Tính chất của tranh chấp đất đai thời kỳ này trầm trọng hơn
và gay gắt hơn. Tuy vậy, việc giải quyết tranh chấp đất đai còn quan liêu, mang
nặng tính mệnh lệnh hành chính. Do đó, tranh chấp đất đai vẫn còn tồn tại kéo dài,
việc sử dụng đất kém hiệu quả, mâu thuẫn vẫn còn trầm trọng kéo theo sự trì trệ của
nền sản xuất hàng hóa.
Các văn bản pháp luật quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
trong giai đoạn này là:
- Quyết định số 201/CP ngày 01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc
thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả
nước lần đầu tiên quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai theo ngành,
theo cấp.

- Thông tư 55-ĐKTK ngày 05/1/1981 của Tổng cục Quản lý ruộng đất
hướng dẫn việc giải quyết các trường hợp sử dụng đất không hợp pháp, không hợp
lý.
- Thông tư 293-TT/ RĐ ngày 22/10/1985 của Tổng cục Quản lý ruộng hướng
dẫn việc giải quyết tranh chấp đất bãi sa bồi.
 Giai đoạn từ khi Luật Đất đai 1987 được ban hành đến trước khi Luật Đất
đai 1993 ra đời.
Hiến pháp 1980 cũng như Luật Đất đai 1987 đều khẳng định đất đai thuộc sở
hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Song các văn bản pháp luật hướng
dẫn thi hành đã không xác định rõ ràng quyền lợi của người sử dụng đất đã làm hạn
chế hiệu quả sử dụng đất.
Trong giai đoạn này, nổi trội nhất phải kể đến chủ trương thực hiện cơ chế
quản lý kinh tế mới trong nông nghiệp theo Nghị quyết 10 ngày 5/4/1988 của Bộ
Chính trị. Mục đích là gắn lợi ích của người lao động với từng mảnh đất được giao,
đã thúc đẩy sản xuất phát triển, người nông dân đã nhận thức rõ những quyền lợi và


19

nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, thấy được lợi ích thiết thực từ việc
sử dụng đất mang lại. Vì vậy, tình trạng đòi lại ruộng đất trong nội bộ nhân dân tăng
nhanh về số lượng. ở một số địa phương, nhất là ở miền Tây và miền Đông Nam
Bộ, nhiều nông dân đòi lại ruộng đất cũ, có nơi đã xảy ra những vụ tranh chấp đất
đai gay gắt. Những ruộng đất nông dân đòi lại phổ biến là: ruộng đất đã qua mấy lần
điều chỉnh, ruộng đất bị cắt bớt và bị "xáo canh" khi thực hiện khoán sản phẩm;
ruộng đất do lâm, nông trường và đơn vị quân đội quản lý nhưng không sử dụng
hết, trong đó có cả ruộng đất của nông dân trước đây đã khai phá; ruộng đất do một
số cán bộ, đảng viên chiếm vì tư lợi. ở khu vực trung du, miền núi, có sự tranh chấp
ruộng đất giữa đồng bào dân tộc tại chỗ với đồng bào các địa phương khác đến sản
xuất và khai hoang xây dựng vùng kinh tế mới. Ngoài ra, còn tồn tại các tranh chấp

giữa đất trồng lúa với đất nuôi tôm; giữa đất trồng cao su với đất trồng cây tiêu, cà
phê, cây điều, đất hương hỏa, đất thổ cư…
Đối với nhà ở, các tranh chấp phát sinh trong giai đoạn này thường liên quan
đến nhà cải tạo, nhà vắng chủ, đòi lại nhà cho thuê trước ngày 1/7/1991 (Pháp lệnh
về nhà ở có hiệu lực).Ngoài ra, còn xuất hiện các tranh chấp về nhà ở khi vợ chồng
ly hôn.
Để tạo cơ sở pháp lý giải quyết tình hình tranh chấp đất đai kể trên. Nhà
nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật như:
+ Luật Đất đai 1987 (Điều 21).
+ Chỉ thị số 154-HĐBT ngày 11/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về triển khai thực hiện chỉ thị số 47-CT/TƯ của Bộ Chính trị về giải
quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
+ Quyết định số 13- HĐBT ngày 01/ 02/ 1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất.
+ Nghị định 30-HĐBT ngày 23/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) về việc thi hành Luật Đất đai (Điều 15, 16).
+ Chỉ thị số 364-CT ngày 06/11/1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Thủ tướng Chính phủ) về việc giải quyết tranh chấp đất đai liên quan đến địa giới
hành chính.
Các văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết tranh
chấp đất đai trong giai đoạn này, góp phần vào việc giải quyết mâu thuẫn trong nội
bộ nhân dân, ổn định sản xuất.


×