Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Hạn chế đình công bất hợp pháp trong doanh nghiệp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG NGA

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

TÊN ĐỀ TÀI
HẠN CHẾ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

TÁC GIẢ LUẬN VĂN: NGUYỄN THỊ HẰNG NGA

2015 - 2017


HÀ NỘI - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

TÊN ĐỀ TÀI
HẠN CHẾ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP
TRONG DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM

TÁC GIẢ LUẬN VĂN: NGUYỄN THỊ HẰNG NGA



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ MINH TIẾN


HÀ NỘI - 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.

Xác nhận của GVHD

TS. Vũ Minh Tiến

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng Nga


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên cạnh
sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy Cô,
cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập

nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy TS. Vũ Minh Tiến người đã hết
lòng giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này. Xin chân
thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô Khoa Sau Đại học - Viện Đại học
Mở Hà Nội. Những người đã dành hết tâm huyết, sự chỉ bảo tận tình để truyền đạt
tri thức chuyên ngành ở bậc Cao học, giúp cho tôi tiếp cận tri thức với cách tư duy
mới, tạo nền tảng vững chắc cho tôi trong quá trình học tập, nghiên cữu cũng như
viết Luận văn.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, anh chị và các bạn đồng
nghiệp đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện
đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2017
Người viết

Nguyễn Thị Hằng Nga


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài ..................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................ 3
4. Phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .................................... 4
6. Kết cấu luận văn ........................................................................... 5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP
PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP ....................... 6
1.1 Những vấn đề lý luận về đình công............................................. 6
1.1.1. Khái niệm đình công ........................................................... 6
1.1.2 Dấu hiệu cơ bản của đình công ......................................... 10

1.1.3 Phân loại đình công ........................................................... 13
1.2. Những vấn đề pháp lý về đình công nói chung và đình công bất
hợp pháp nói riêng của một số nước trên thế giới và Việt Nam ................ 15
1.2.1 Những vấn đề pháp lý về đình công bất hợp pháp của một số
nước trên thế giới ................................................................................. 15
1.2.2. Những vấn đề pháp lý về đình công bất hợp pháp tại Việt
nam ...................................................................................................... 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ............................................................... 26
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP
PHÁP TRONG DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM ....... 27
2.1. Thực trạng pháp luật về đình công tại Việt Nam...................... 27
2.2 Tình hình thực tiễn về đình công và đình công bất hợp pháp
trong doanh nghiệp tại Việt Nam hiện nay ............................................... 37
2.3 Đánh giá về thực trạng đình công bất hợp pháp ở Việt Nam ..... 44
2.4 Xu hướng tình trạng đình công ở nước ta trong thời gian tới .... 46
2.5 Khó khăn, trở ngại của giải quyết đình công ở nước ta hiện nay48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ............................................................... 50


Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG
NGỪA, HẠN CHẾ ĐÌNH CÔNG BẤT HỢP PHÁP TRONG DOANH
NGHIỆP TẠI VIỆT NAM ........................................................................... 51
3.1 Hoàn thiện các quy định về điều kiện hợp pháp của cuộc đình
công ......................................................................................................... 51
3.2 Giải pháp đối với từng đối tượng chủ thể.................................. 59
3.2.1 Nhà nước và cơ quan quản lý ............................................ 59
3.2.2 Giải pháp đối với tổ chức Công đoàn ................................ 62
3.2.3 Các giải pháp với người lao động ...................................... 67
3.3.4 Giải pháp đối với chủ doanh nghiệp .................................. 70
3.2.5 Kiến nghị với Đảng, Chính phủ ......................................... 76

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ............................................................... 79
KẾT LUẬN........................................................................................ 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật lao động

:

BLLĐ

Doanh nghiệp

:

DN

Doanh nghiệp nhà nước

:

DNNN

Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

:

FDI


Lao động

:



Lao động thương binh – xã hội

:

LĐTBXH

Liên đoàn lao động

:

LĐLĐ

Người lao động

:

NLĐ

Người sử dụng lao động

:

NSDLĐ


Ủy ban nhân dân

:

UBND

Xã hội chủ nghĩa

:

XHCN


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
Đình công là một trong những quyền cơ bản của người lao động, được ghi
nhận trong Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (Thông qua ngày
16/12/1966) của Liên Hợp quốc, Công ước số 98 về quyền tổ chức và thương lượng
tập thể năm 1949 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và pháp luật của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, sau cách mạng tháng Tám thành công, chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số 29/SL trong đó có ghi nhận quyền đình công của người
lao động. Tuy nhiên, trong cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp, người lao động
được phát huy quyền làm chủ một cách tối đa nên quyền đình công của họ đã không
được sử dụng.
Chỉ đến khi có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị
trường thì hiện tượng đình công mới xuất hiện. Năm 1994, Bộ luật lao động đầu
tiên của nước ta được ban hành, khẳng định lại quyền đình công của người lao
động, quy định cụ thể, điều kiện đình công. Tuy nhiên, sau nhiều năm áp dụng và
giải quyết đã bộc lộ nhiều bất cập. Để khắc phục các thiếu sót và bất cập trong các
quy phạm pháp luật lao động nói chung và các quy phạm giải quyết đình công nói

riêng, Quốc hội nước ta khóa XI (2002-2007) đã sửa đổi và bổ sung một số điều của
Bộ luật lao động vào các năm 2002, 2006 và 2007. Cho đến nay, Bộ luật lao động
năm 2012 đã được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/05/2013 đã điều chỉnh lại
một lần nữa phù hợp hơn về vấn đề đình công và giải quyết đình công góp phần
đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho người sử dụng lao động và người lao động
trong quan hệ lao động.
Tuy nhiên, nhận thức về quyền đình công, thực hiện hoạt động đình công của
người lao động là không đồng đều. Việc tổ chức và lãnh đạo đình công của công
đoàn chưa thực sự có hiệu quả, chưa được người lao động tin tưởng, dẫn đến một
thực trạng là hầu hết các cuộc đình công diễn ra trong những năm qua đều chưa
tuân thủ các quy định của pháp luật. Mặc dù nhiều cuộc đình công có xuất phát từ

1


việc tranh chấp lao động, từ những bức xúc thật sự trong quan hệ lao động nhưng
cách tổ chức đã vi phạm các quy định về thủ tục, trình tự do pháp luật quy định.
Dẫn tới việc, 100% các cuộc đình công xảy ra tại nước ta đều là đình công bất hợp
pháp. Đây là thực trạng đáng báo động ở Việt Nam, điều đó đã gây nên không chỉ
những bất ổn của doanh nghiệp mà còn gây ảnh hưởng lớn, thậm chí rất lớn đối với
nền kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân.
Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Hạn chế đình công bất hợp
pháp trong doanh nghiệp ở Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ với mục đích hiểu rõ
hơn về đình công bất hợp pháp và tìm ra giải pháp nhằm hạn chế được đình công
bất hợp pháp trong doanh nghiệp ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu về đề tài
Đình công nói chung và đình công bất hợp pháp nói riêng là hiện tượng xã
hội nóng trong thời gian qua cũng như hiện nay đang được các cơ quan thông tấn
báo chí, các nhà nghiên cứu, các cơ quan quản lý về lao động, các tổ chức chính trị
xã hội quan tâm. Vì vậy, đã có khá nhiều bài báo đề cập đến những vụ đình công

bất hợp pháp được đăng tải trên các nhật báo, tuần báo và tạp chí chuyên ngành.
Bên cạnh đó, đã có một số công trinh nghiên cứu đề cập đến vấn đề đình
công và giải quyết đình công. Chẳng hạn như:
- Luận án tiến sĩ với đề tài “Pháp luật về đình công và giải quyết đình
công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế”
(2006) của tác giả Đỗ Ngân Bình. Luận án này đã nghiên cứu những vấn đề
về lý luận, thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đình công và giải
quyết đình công ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
- Về luận văn thạc sỹ có: đề tài “Đình công và giải quyết đình công theo
Bộ luật lao động năm 2012” (2013) của tác giả Hà Thị Hoa Phượng; đề tài
“Những điểm mới về tranh chấp lao động và đình công trong Bộ luật lao
động 2012” (2013) của tác giả Chử Thị Xuyên.

2


- Đề tài khoa học “Pháp luật về quan hệ lao động Việt Nam – Thực trạng
và phương hướng hoàn thiện” (2012) của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu - Khoa
luật Đại học quốc gia Hà Nội.
- Về các bài viết đề cập đến vấn đề đình công và giải quyết đình công
trên các tạp chí nghiên cứu như: “Đánh giá quy định của Bộ luật lao động về
đình công và giải quyết đình công” của tác giả Nguyễn Xuân Thu (Tạp chí
Luật học, số 09/2009); “Thực trạng và hướng giải quyết đình công” của tác
giả Đào Văn Hộ (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 77/2006); “Mấy ý kiến về
tranh chấp lao động và đình công ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Kim
Phụng (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 4/2004); “Thực trạng tranh chấp lao
động và đình công ở Việt Nam nhìn từ góc độ quản lý doanh nghiệp và vai trò
của tổ chức công đoàn” của tác giả Lê Văn Hảo (Tạp chí Tâm lý học, số
5/2011); “Sử dụng hành động công nghiệp trong thương lượng tập thể ở Thụy

Điển và việc sử dụng đình công ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Thị Minh
(Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 204/2011).
Những công trình trên trong phạm vi nghiên cứu của mình đã có những đóng
góp đáng trân trọng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một công trình nào đi sâu
vào đình công bất hợp pháp nói riêng mà chỉ nghiên cứu về pháp luật đình công và
giải quyết đình công nói chung. Do đó, đề tài này được thực hiện sẽ có sự kế thừa
nhất định những công trình trên và đi sâu nghiên cứu vấn đề đình công bất hợp pháp
để tìm ra giải pháp hạn chế vấn đề đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về đình công nói chung và đình công bất hợp pháp nói riêng, để từ đó đề
xuất những giải pháp, phương hướng phòng ngừa và giải quyết đình công bất hợp
pháp trong doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong
điều kiện hội nhập kinh tế thị trường tại nước ta hiện nay.
Với mục đích nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

3


+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận và pháp lý về đình công nói chung và
đình công bất hợp pháp nói riêng chẳng hạn như: khái niệm đình công, đình công
bất hợp pháp, đặc điểm, cách phân loại đình công, các trường hợp đình công bất
hợp pháp, nguyên nhân phát sinh đình công bất hợp pháp, một số vấn đề pháp lý về
đình công bất hợp pháp.
+ Nghiên cứu tình hình đình công bất hợp pháp trong doanh nghiệp ở Việt
Nam, thực trạng giải quyết tình hình đó bằng pháp luật, nhằm đánh giá, tìm ra
những điểm bất cập chưa hợp lý để từ đó đưa ra những phương hướng, giải pháp để
hạn chế tình trạng đình công bất hợp pháp đang xảy ra.
+ Đề xuất một số phương hướng, giải pháp để phòng ngừa, giải quyết tình
trạng đình công bất hợp pháp trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.

4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: luận văn tập trung làm rõ một số lý luận, về đình công nói
chung và đình công bất hợp pháp nói riêng,nghiên cứu về thực trạng đình công bất
hợp pháp trong doanh nghiệp tại Việt Nam để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
hạn chế tình trạng này.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu đình công tại Việt Nam trong những năm
gần đây.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu đình công bất hợp pháp trong các
doanh nghiệp tại Việt Nam
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã có sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu kết hợp với nhau. Chẳng hạn như: Phương pháp phân tích, phương pháp
tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,…để có thể làm rõ từng nội

4


dung cụ thể của luận văn, nhằm đạt được mục đích và nhiệm vụ đã xác định của
luận văn.
6. Kết cấu luận văn
Luận văn được kết cấu gồm phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, ba
chương về nội dung và kết luận. Trong đó, các chương của luận văn gồm:
Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về đình công bất hợp pháp và pháp luật về
đình công bất hợp pháp
Chương 2. Thực trạng về đình công bất hợp pháp trong doanh nghiệp tại Việt
Nam
Chương 3. Quan điểm, định hướng và các giải pháp phòng ngừa, hạn chế

đình công bất hợp pháp trong doanh nghiệp tại Việt Nam.

5


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÌNH
CÔNG BẤT HỢP PHÁP VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐÌNH
CÔNG BẤT HỢP PHÁP
1.1 Những vấn đề lý luận về đình công
1.1.1. Khái niệm đình công
Đình công là một trong những quyền của người lao động. Đình công xảy ra
có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động, đến đời sống của doanh
nghiệp… Hơn nữa, đình công còn gây ảnh hưởng đến cả nền kinh tế quốc dân , an
ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội. Do vậy, đình công là hiện tượng xã hội phức
tạp. Do điều kiện về chính trị, kinh tế - xã hội của mỗi nước, mà các quốc gia trên
thế giới có quan điểm khác nhau về vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Cụ thể,
đình công cần được xem xét dưới góc các góc dộ kinh tế - xã hội và pháp lý với tư
cách là một hiện tượng tồn tại khách quan trong nền kinh tế thị trường. [28]
Dưới góc độ kinh tế - xã hội, đình công là một biện pháp phản ứng tập thể
của người lao động nhằm gây sức ép buộc người sử dụng lao động phải giải quyết
và đáp ứng các vấn đề thuộc quyền lợi của người lao động phát sinh trực tiếp từ
quan hệ lao động như: tiền lương, tiền thưởng, phụ cấp lương, thời giờ làm việc,
thời giờ nghỉ ngơi,.. Do vậy, mỗi cuộc đình công đều ít nhiều mang lại hậu quả kinh
tế - xã hội nhấ định. Như vậy, đình công được hiểu là đỉnh cao của tranh chấp lao
động tập thể mà biểu hiện rõ nhất là sự ngừng việc có tổ chức của tập thể người lao
động nhằm gây áp lực buộc người sử dụng lao động phải thỏa mãn một hoặc một số
yêu sách nào đó của tập thể lao động.
- Dước góc độ pháp lý, đình công là một quyền tập thể do pháp luật quy
định, theo đó những người lao động có quyền được nghỉ việc tập thể nhằm buộc
người sử dung lao động phải thỏa mãn những yêu sách của mình.


6


Đình công vừa là mức biểu hiện ở mức cao nhất của tranh chấp lao động tập
thể giữa một bên là tập thể lao động và một bên là người sử dụng lao động, vừa là
hệ quả của quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể không thành. Đồng thời
đình công là biện pháp mà pháp luật cho phép nhằm thúc đẩy giải quyết tranh chấp
một cách nhanh chóng theo hướng có lợi cho phía tập thể lao động. Như vậy, đình
công và tranh chấp lao động tập thể là hai khái niệm không hoàn toàn đồng nhất,
nhưng giữa chúng có mối quan hệ với nhau. Phải có tranh chấp lao động tập thể
mới có thể phát sinh đình công và đình công là biện pháp cuối cùng cho phép tập
thể lao động tiến hành nhằm thúc đẩy giải quyết một cách nhanh chóng tranh chấp
đã xảy ra. Đình công phản ánh sự tồn tại khách quan của quan hệ lao động trong
nền kinh tế thị trường.
Trong những hiện tượng có biểu hiện tương tự như đình công có lãn công,
bãi công và phản ứng tập thể, ngừng việc tạm thời của tập thể người lao động trong
doanh nghiệp. Luận văn sẽ đưa ra một vài quan điểm để phân biệt đình công với
những phạm trù tương đương dưới đây:
* Thứ nhất, phân biệt đình công với lãn công
Hiện nay, đang có hai quan điểm về vấn đề này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, lãn công (người lao động không rời khỏi nơi
làm việc nhưng không làm việc hoặc làm việc cầm chừng, lơ là, “lười biếng”) là
biểu hiện ra bên ngoài của ngừng việc tập thể, đình công. Ví dụ, pháp luật của một
số nước như Philipin ghi nhận: Đình công không chỉ bao gồm sự ngừng việc có
phối hợp mà gồm cả lãn công, nghỉ việc hàng loạt, bãi công ngồi, có ý đồ hủy hoại
hoặc tiêu hủy, phá hoại thiết bị, cơ sở kinh doanh và các hoạt động tương tự (Điều
226a BLLĐ Philipin).
Quan điểm thứ hai cho rằng, lãn công không phải là đình công vì nó là sự
ngừng việc không hoàn toàn, không triệt để của một số người lao động nhằm phản

đối người sử dụng lao động về các vấn đề lao động. Nó không làm ngừng hẳn hoạt

7


động lao động mà chỉ là không tuân thủ nghĩa vụ lao động và như vậy là hành vi vi
phạm kỷ luật lao động (ví dụ như: Pháp, Nga, Thái Lan...).
Theo nhận định trong luận văn này, thì lãn công không phải là một dạng của
đình công là quan niệm có cơ sở. Bởi lẽ, lãn công phải được coi là việc người lao
động không thực hiện tốt nghĩa vụ lao động, không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ lao
động đã cam kết – đó là hành vi vi phạm, là có lỗi trong thực hiện hợp đồng lao
động đã cam kết. Như vậy, đình công là quyền của người lao động nhưng lãn công
không phải là quyền của người lao động. Hành vi lãn công có thể bị xem xét kỷ
luật. Ti
* Thứ hai, phân biệt đình công và bãi công
Trong tác phẩm "Bàn về bãi công", Lênin đã nêu: “Bãi công chính là sự phản
kháng của người lao động khi bị giai cấp tư sản bóc lột tàn nhẫn hoặc bị sa thải, bãi
công là cuộc đấu tranh của nhiều người lao động để mặc cả với bọn chủ về tiền
công bằng cách đập phá máy móc, phá các công xưởng, dần dần dẫn đến cuộc đấu
tranh toàn diện của giai cấp công nhân để tự giải phóng mình”. Theo Từ điển Bách
khoa Việt Nam: “Bãi công kinh tế, chính trị, là sự ngừng bộ phận hay toàn bộ quá
trình sản xuất dịch vụ do tập thể những người lao động đồng tâm, hiệp lực cùng
nhau tiến hành, là một biện pháp đấu tranh của người lao động, viên chức chống lại
chủ nhà máy, hầm mỏ, đồn điền... các nhà tư bản và Chính phủ để đòi thực hiện
những yêu sách về kinh tế, nghề nghiệp và nhiều khi cả yêu sách chính trị”.
Như vậy, nhìn chung, đây là hai hành vi tương đồng và được sử dụng tương
đương. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người ta thường chỉ những cuộc đình
công có diện rộng, đình công của nhiều doanh nghiệp, nhiều giới lao động trong
một quốc gia gọi là bãi công.
*Thứ ba, phân biệt đình công và đơn phương chấm dứt quan hệ lao động

Ngừng việc trong đình công khác với việc chấm dứt quan hệ lao động. Đình
công chỉ là việc những người lao động tạm thời không thực hiện nghĩa vụ lao động
với mục đích gây thiệt hại với chủ thể để tạo ra sức ép về kinh tế. Những người lao

8


động khi đình công không nhằm mục đích chấm dứt quan hệ lao động và luôn sẵn
sàng trở lại làm việc nếu được chấp nhận các yêu sách về quyền và lợi ích. Vì vậy,
đình công biểu hiện ra bên ngoài là hành vi ngừng việc tạm thời (tạm ngưng quan
hệ lao động), không phải là hành vi đơn phương chấm dứt quan hệ lao động (bỏ
việc vĩnh viễn).
*Thứ tư, phân biệt Đình công và phản ứng tập thể/ngừng việc tạm thời của
tập thể người lao động trong doanh nghiệp.
Ta có thể hiểu, ngừng việc tạm thời chỉ là một biểu hiện của phản ứng tập thể
– là thái độ của một tập thể người lao động phản ứng lại với người sử dụng lao động
về những vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động. Nó có nhiều mức độ khác nhau
như: phản kháng tại chỗ; phát sinh thành tranh chấp; lời nói, ứng xử có tính chất
phản kháng; phát sinh thành những hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, sức
khỏe người sử dụng lao động, người quản lý doanh nghiệp; đập phá máy móc... Về
mặt mục đích, phản ứng tập thể cũng muốn gây sức ép về kinh tế/dư luận... với
người sử dụng lao động. Nếu hiểu theo nghĩa này, rõ ràng trong những hình thức
phản ứng tập thể có những hành vi đình công. Tuy nhiên, xem xét dưới góc độ là
một phản ứng/phản kháng tức thời, có tính chất bất ngờ của những người lao động
đối với người sử dụng lao động khi người này có hành vi vi phạm pháp luật đối với
tập thể lao động thì phản ứng tập thể khác với đình công ở các dấu hiệu sau:
+ Không nhất thiết biểu hiện dưới dạng ngừng việc tập thể.
+ Là hành vi có tính tức thời, bộc phát, không có sự chuẩn bị trước và do đó
tính tổ chức gần như không có.
+ Nguyên nhân phát sinh phản ứng tập thể là do hành vi vi phạm pháp luật

hay không thực hiện những thỏa thuận trước đó của người sử dụng lao động.
+ Gần như không có mục đích đòi hỏi những lợi ích, điều kiện lao động cao
hơn. Nếu có thì phát sinh mang tính ngoài dự tính của những người lao động.

9


Có thể coi phản ứng tập thể hoặc một trong những biểu hiện cụ thể của nó
như: ngừng việc tạm thời, những xô xát có tính tức thời giữa hai bên... không có đầy
đủ dấu hiệu của hành vi đình công. Chỉ có thể hiểu, đây là trường hợp người sử
dụng lao động đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động được
quy định trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hay những cam kết,
thỏa thuận, lời hứa đã công bố... (ví dụ trả lương không đúng hạn, trả tiền thưởng tết
ít hoặc chậm hơn so với công bố của doanh nghiệp,...). Như vậy, đã có sự vi phạm
thỏa thuận, vi phạm “hợp đồng”, không thực hiện đúng đầy đủ nghĩa vụ của người
sử dụng lao động cho nên như vậy người lao động cũng có quyền “tạm ngừng” việc
thực hiện nghĩa vụ của mình cho đến khi người sử dụng lao động thực hiện đầy đủ
các nghĩa vụ đã cam kết. [20]
1.1.2 Dấu hiệu cơ bản của đình công
Đình công được nhận biết thông qua nhiều dấu hiệu. Tuy nhiên, những dấu
hiệu cơ bản nhất để nhận biết về đình công một cách chính xác là những dấu hiệu
dưới đây:
Dấu hiệu thứ nhất: đình công biểu hiện bằng sự ngừng việc tạm thời của
nhiều người lao động
Đây là dấu hiệu cơ bản nhất, giữ vị trí trung tâm, liên kết với các đặc điểm
khác tạo nên hiện tượng đình công. Sự ngừng việc của đình công được hiểu là phản
ứng của những người lao động bằng cách dừng làm việc, không xin phép, trong khi
biết trước là NSDLĐ không đồng ý. Trong ý thức thức của người ngừng việc và
trong thực tế, sự ngừng việc này chỉ diễn ra tạm thời, trong một thời gian ngắn.
Thời gian ngừng việc cụ thể của mỗi cuộc đình công sẽ tùy thuộc vào từng hoàn

cảnh nhưng họ không dự định ngừng việc lâu dài, không bỏ việc và không đi làm
cho người khác. Điều đó có nghĩa là sự ngừng việc chỉ là hình thức thể hiện, là cách
phản ứng, không phải là mục đích mong muốn đạt được. Trong thời gian đình công,
quan hệ lao động vẫn tồn tại và NLĐ sẽ tiếp tục làm việc sau đình công.

10


Mặc dù chỉ là tạm thời nhưng mức độ ngừng việc của đình công lại rất là
triệt để, ngừng việc hoàn toàn. Những người tham gia đinh công trong đình công,
trừ trường hợp phải đảm bảo công việc vì lý do xã hội chứ không vì lợi ích của
NSDLĐ hay vì những cam kết đã có,..
Dấu hiệu thứ hai: Đình công luôn có tính tập thể
Đình công là quyền của NLĐ nhưng thực hiện đình công bao giờ cũng là
hành vi mang tính tập thể. Điều đó có nghĩa là ý chí của của cá nhân và tập thể phải
có sự trùng hợp thì NLĐ mới có thể sử dụng, thực hiện quyền đình công của mình.
Nếu cá nhân NLĐ đơn phương ngừng việc thì thường bị coi là bỏ việc, có thể bị xử
lý kỷ luật tới mức sa thải, bất kể nhận thức và ý chí thực sự của họ là gì. Nếu các cá
nhân NLĐ kết hợp nhau lại, cùng chung ý chí, mục đích và hành đọng ngừng việc
thì vấn đề đã có sự thay đổi về bản chất và pháp luật coi đó là quyền của họ. Vì vậy,
tính tập thể là dấu hiệu không thể thiếu, luôn gắn với hiện tượng đình công. Nó
không chỉ được biểu hiện ở số lượng có nhiều người tham gia ngừng việc mà còn
thể hiện ở ý chí, hành động và mục đích chung của họ; ở tính đại diện của những
người đó cho những người khác không tham gia đình công, nhằm đạt được những
quyền và lợi ích chung hoặc đạt được những nguyên tắc chung về quyền lợi trong
lao động. Tính tập thể không chỉ là điều kiện đảm bảo thắng lợi cho đình công, đảm
bảo tính hợp pháp cho sự ngừng việc của mỗi NLĐ mà còn làm cho sự ngừng việc
đó là đình công chứ không phải là dấu hiệu của hiện tượng khác. Phạm vi tập thể
lao động tiến hành đình công có thể là toàn bộ, đa số hay chỉ là một số lượng lớn lao
động trong một bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp, trong một ngành, vùng,...Nếu chỉ

có một vài, một số NLĐ hoặc một nhóm nhỏ ngừng việc thì không thể gọi đó là sự
ngừng việc của tập thể lao động. Như vậy, tính tập thể phải được biểu hiện qua cả
các yếu tố định tính và định lượng.
Dấu hiệu thứ ba: Đình công phải có sự tự nguyện của NLĐ
Đây là dấu hiệu về mặt ý chí của NLĐ, kể cả chủ thể lãnh đạo và tham gia
đình công, thể hiện ở việc họ được quyền quyết định và tự ý quyết định ngừng việc,

11


tham gia đình công trong khi vẫn có những cách giải quyết khác cho vấn đề đang
phải đối mặt . Họ hoàn toàn không bị người khác bắt buộc, cưỡng ép ngừng việc.
Nếu NLĐ nào đó bị những NLĐ khác buộc tham gia đình công thì hoàn toàn không
phải là người đó đang sử dụng quyền đình công của mình. Nếu tập thể lao động bị
những thế lực khác buộc phải ngừng việc, không do họ tự nguyện thì cuộc ngừng
việc đó không phải là đình công. Ngoài ra, những trường hợp tập thể lao động phải
ngừng việc một cách bị động cũng không phải là đình công.
Dấu hiệu thứ tư: Đình công luôn có tính tổ chức
Tính tổ chức được biểu hiện bằng sự có chủ định, có phối hợp, thống nhất về
mặt ý chí, mục đích và hành động trong phạm vi những NLĐ ngừng việc. Điều đó
có nghĩa là khi chuẩn bị và tiến hành đình công luôn có sự tổ chức, lãnh đạo, điều
hành thống nhất của một hay một số người và có sự chấp hành, phối hợp thực hiện
của những người khác trong phạm vi đình công. Đây cũng là một trong những điều
kiện để xét tính hợp pháp của cuộc đình công.
Dấu hiệu thứ năm: mục đích của đình công là nhằm đạt được những yêu
sách về quyền và lợi ích mà những người thực hiện quan tâm
Sự ngừng việc của NLĐ phải nhằm đạt được những yêu sách về quyền và
lợi ích của họ, thông thường đó là các quyền và lợi ích đang tranh chấp của chính
những người đình công. Về hình thức, những yêu sách đó có thể hiện hữu bằng
những nội dung ghi trong văn bản hoặc thể hiện bằng lời nói, khẩu hiện.v.v. Cá biệt

cũng có thể là những yêu sách ngầm nhưng ai cũng hiểu trong hoàn cảnh nhất định
đó, những người ngừng việc phản đối và yêu cầu những gì. Ví dụ: trường hợp
doanh nghiệp cắt, giảm suất ăn trưa, người quản lý thay đổi giờ làm việc không hợp
lý… và cả tập thể ngừng việc. Tuy họ không hoặc chưa trực tiếp tuyên bố yêu cầu
của mình nhưng NSDLĐ, các cơ quan hữu quan, các phương tiện thông tin đều thừa
nhận rằng họ đang phản đối những quyết định của bên người sử dụng lao động và
yêu cầu NSDLĐ phải đảm bảo quyền lợi cho họ. Đây cũng được coi là yêu sách.

12


1.1.3 Phân loại đình công
Tùy theo mục đích nghiên cứu mà có thể phân loại đình công theo những căn
cứ khác nhau, chẳng hạn như sau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất cuộc đình công
Nếu căn cứ vào những đặc tính riêng thuộc về bản chất của đình công, có thể
phân đình công thành hai loại đình công kinh tế và đình công chính trị như sau:
Đình công kinh tế là những cuộc đình công nhằm gây sức ép với bên sử dụng
lao động hoặc chủ thể khác để đạt được những mức độ lớn hơn về quyền và lợi ích
trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nghề nghiệp…như việc làm, tiền lương, thu nhập,
điều kiện lao động….và các quyền lợi khác liên quan đến quan hệ lao động. Đây là
loại đình công phổ biến vì nó phản ánh lý do ra đời và tồn tại cảu đình công, phản
ánh bản chất của đình công. Phạm vi đình công kinh tế có thể khác nhau theo quy
định của từng nước nhưng nhìn chung, pháp luật Việt Nam và nhiều nước khác đều
thừa nhận đình công kinh tế là hợp pháp.
Đình công chính trị là những cuộc đình công nhằm gây sức ép để phản đối
chính quyền nhà nước hoặc các đảng phái chính trị, cầm quyền hay đối lập nhằm
đạt được các mục đích chính trị mà người đình công quan tâm. Những cuộc đìnhc
ông này thường có quy mô khá rộng lớn và yêu sách không liên quan trực tiếp đến
quyền và lợi ích trong quan hệ lao động của người tham gia đình công. Nó thường

phản ánh thái độ, mục đích chính trị của họ đối với đường lối đối nội và đối ngoại
của nhà nước hay các đang phái.
Thứ hai, căn cứ vào mục đích đình công
Nếu căn cứ vào mục đích thì đình công có thể được chia thành: đình công
yêu sách và đình công hưởng ứng
Đình công yêu sách là những cuộc đình công nhằm đạt được một hoặc một
số yêu sách về quyền và lợi ích cho chính những NLĐ tham gia đình công. Điều đó
không loại trừ trường hợp yêu cầu mà người đình công đưa ra có thể còn mang lại

13


lợi ích cho những người không tham gia đình công. Những người không đình công
có thể được hưởng theo thường là những NLĐ thuộc phạm vi tập thể lao động đình
công, do kết quả đình công đạt được là những quyền và lợi ích tập thể. Hệ quả này
có thể do chính những người đình công lựa chọn vì nhân danh lợi ích chung thường
dễ được ủng hộ, hiệu quả hơn và do chính NSDLĐ cũng không muốn tạo ra tình
trạng chỉ đình công thì mới có thể đạt được quyền lợi cao hơn và ngược lại.
Đình công hưởng ứng là những cuộc đình công nhằm ủng hộ, tỏ thái độ đồng
tình để hỗ trợ cho cuộc đình công khác trong khi những người tham gia đình công
(hưởng ứng) không có yêu sách về quyền và lợi ích cho mình. Những cuộc đình
công loại này thường xuất hiện ở những nơi sử dụng lao động tập trung như các khu
công nghiệp, khu chế xuất hoặc trong một ngành, trong những phạm vi đó, các
quyền và lợi ích của NLĐ trong các đơn vị khác nhau có thể liên quan, ảnh hưởng
lẫn nhau.
Thứ ba, căn cứ vào phạm vi đình công
Đình công trong doanh nghiệp là những cuộc đình công do tập thể lao động
trong phạm vi một doanh nghiệp tiến hành. Đây là loại đơn vị thường xảy ra đình
công, cũng là phạm vi đình công thường được phap luật thừa nhận. Về lý thuyết,
những cuộc đình công trong phạm vi một đơn vị sử dụng lao động không phải là

loại hình doanh nghiệp có thể xếp vào loại này
Đình công ngành, khu vực là những cuộc đình công của những NLĐ trong
phạm vi một ngành, một khu vực tiến hành.
Đình công bộ phận: là những cuộc đình công do tập thể lao động trong một
bộ phận cơ cấu của doanh nghiệp (hoặc của đơn vị sử dụng lao động) tiến hành.
Tổng đình công: là những cuộc đình công của những NLĐ trong phạm vi
nhiều ngành hoặc nhiều khu vực trong toàn quốc tiến hành. Về nguyên tắc, tổng
đình công có thể do giới lao động trong phạm vi quốc gia tiến hành. Tuy nhiên, điều
đó hiếm khi xảy ra vì phạm vi đình công thường liên quan đến lợi ích chung của

14


NLĐ trong phạm vi nhất định hoặc phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của một tổ
chức công đoàn.
Thứ tư, căn cứ vào các quy định của pháp luật về đình công
Đình công hợp pháp là đình công tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật.
Mục đích cơ bản của các quy định này để nhà nước kiểm soát đình công, hạn chế
những cuộc đình công không cần thiết hoặc có tính chất tiêu diệt đối phương, hoặc
ảnh hưởng lớn đến kinh tế quốc dân, an ninh quốc phòng…Những hạn chế này có
thể có phạm vi rộng hẹp khác nhau theo quan điểm từng nước song nó phải đảm bảo
cho đình công hợp pháp hoàn toàn có điều kiện thực hiện được, nhà nước không thể
dùng những hạn chế này nhằm mục đích triệt tiêu quyền đình công của NLĐ. Theo
pháp luật hiện hành của Việt Nam, đình công nếu không thuộc các trường hợp đình
công bất hợp pháp là đình công hợp pháp.
Đình công bất hợp pháp là đình công không thực hiện đầy đủ, không thực
hiện đúng các quy định của pháp luật. Pháp luật hiện hành của Việt Nam đã quy
định đầy đủ các trường hợp đình công bất hợp pháp.
Thứ năm, các căn cứ khác: Ngoài các căn cứ phân loại cơ bản trên thì bên
cách đó việc phân loại đình công còn có thể dựa vào các căn cứ khác như phương

thức đình công, hình thức thực hiện đình công, thời gian đình công, chủ thể lãnh
đạo đình công…[21]
1.2. Những vấn đề pháp lý về đình công nói chung và đình công bất hợp
pháp nói riêng của một số nước trên thế giới và Việt Nam
1.2.1 Những vấn đề pháp lý về đình công bất hợp pháp của một số nước
trên thế giới
Quy định về mục đích đình công: nhiều nước trên thế giới đều thừa nhận
đình công kinh tế là hợp pháp mặc việc xác định phạm vi đình công kinh tế có thể
khác nhau theo quy định của từng nước. Ngược lại, các cuộc đình công nhằm gây

15


sức ép để phản đối chính quyền nhà nước hoặc các đảng cầm quyền nhằm đạt được
mục đích chính trị không được các nước thừa nhận.
Quy định về đối tượng đình công: Hầu hết các nước đều đưa ra những quy
định nhằm giới hạn đối tượng được phép đình công trong một phạm vi nhất định.
Giới hạn này rộng hay hẹp, ít hay nhiều tùy thuộc vào đặc điểm tình hình của mỗi
nước và thường được thể hiện thông qua các quy định về đối tượng cấm đình công
hoặc hạn chế đình công.
Quy định về phạm vi đình công: Đối với một số quốc gia, phạm vi đình công
không phải là điều kiện để xác định tính hợp pháp của cuộc đình công. Tuy vậy,
một số quốc gia hác như Philippin, Thái Lan thường đưa ra các quy định giới hạn
phạm vi đình công và coi đó là một trong các điều iện xét tính hợp pháp của cuộc
đình công.
Quy định về chủ thể lãnh đạo đình công: Nhiều nước trên thế giới quy định
tổ chức đại diện lao động (công đoàn hay nghiệp đoàn) là chủ thể hợp pháp có tư
cách lãnh đạo đình công.
Quy định về thủ tục chuẩn bị đình công: Nhìn chung, đa số các quốc gia đều
quy định các thủ tục như: lấy ý kiến tập thể lao động, thông báo đình công, hòa giải

hoặc trọng tài trước khi được phép đình công nhưng cũng có một số nước thủ tục
đình công được tiến hành theo tập quán hoặc theo hướng dẫn của điều lệ c ng đoàn..
Quy định về các chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật về đình công:
Pháp luật nhiều nư c trên thế giới đều có những quy định cụ thể về các chế tài xử lý
(kỷ luật, bị áp dụng các chế tài hành chính, dân sự hay hình sự tùy theo tính chất,
mức độ vi phạm). Về vấn đề này, quan điểm của ILO cho rằng không thể phạt tù
đối với trường hợp đình công hòa bình; việc áp dụng chế tài hình sự phải phù hợp
với nguyên tắc tự do liên ết và tương xứng với tội phạm.
Pháp luật của hầu hết các nước ít nhiều đều có những quy định cấm, hạn chế
đình công đình công bất hợp pháp. Cấm đình công có thể được áp dụng đối với
người lao động làm việc trong một số doanh nghiệp hoạt động công ích, doanh

16


nghiệp có vai trò thiết yếu trong nền kinh tế hoặc doanh nghiệp an ninh quốc phòng.
Một số quốc gia khác chỉ rõ đối tượng cụ thể không được đình công, như Ấn Độ
quy định định cấm thành phần công chức làm việc cho Chính phủ đình công, nếu vi
phạm sẽ bị sa thải. Một số ngành nghề bị cấm không được đình công tại Pháp như
thẩm phán hay cảnh sát. Pháp luật của nhiều nước ghi nhận song song quyền đình
công của người lao động với quyền sử dụng giải công, bế xưởng của người sử dụng.
Pháp luật lao động Philipin và Thái Lan là những ví dụ minh chứng.
Cũng như nhiều quốc gia đang phát triển khác, pháp luật lao động Việt Nam
cũng tồn tại nhiều quy định hạn chế quyền đình công của người lao động. Những
hạn chế đó nằm rải rác trong các điều luật quy định cụ thể về đình công trong Bộ
luật lao động Việt Nam, tạo thành khung pháp lý nhất định giới hạn việc thực hiện
quyền của người lao động.
1.2.2. Những vấn đề pháp lý về đình công bất hợp pháp tại Việt nam
Sự haṇ chế thể hiêṇ thông qua các quy điṇh về điều kiêṇ hơp ̣ pháp của cuôc ̣
đình công. Cụ thể:

1.2.2.1. Chủ thể lãnh đạo đình công
Kể từ khi ghi nhận quyền đình công của NLĐ, vấn đề chủ thể lãnh đạo đình
công luôn được luật lao động Việt Nam điều chỉnh. Theo đó quyền này luôn thuộc
về tổ chức công đoàn.
Theo quy định Điều 210 Bộ luật lao động năm 2012 như sau:
“Điều 210. Tổ chức và lãnh đạo đình công
1. Ở nơi có tổ chức công đoàn cơ sở thì đình công phải do Ban chấp hành
công đoàn cơ sở tổ chức và lãnh đạo.
2. Nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở thì đình công do tổ chức công đoàn
cấp trên tổ chức và lãnh đạo theo đề nghị của người lao động”
Như vậy, BLLĐ năm 2012 chỉ thừa nhận công đoàn là tổ chức duy nhất có
quyền tổ chức và lãnh đạo NLĐ đình công (thay vì trước đây bên cạnh ban chấp
hành công đoàn cơ sở còn có ban đại diện NLĐ ở những nơi không có tổ chức công

17


đoàn). Tuy nhiên, sự linh hoạt của quy định này thể hiện ở chỗ bên cạnh ban chấp
hành công đoàn cơ sở, pháp luật còn thừa nhận cả sự lãnh đạo đình công của công
đoàn cấp trên, bởi thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng thành lập tổ chức công
đoàn cơ sở. Quy định này nhằm đảm bảo quyền đình công của NLĐ ở những nơi
doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn. Hơn nữa, công đoàn cấp trên không bị
phụ thuộc cũng như chi phối của NSDLĐ nên sẽ mạnh mẽ và kiên quyết hơn trong
việc tổ chức và lãnh đạo tập thể lao động đình công. Song từ quy định ra đến thực
tiễn thực hiện vẫn là vấn đề nan giải.
1.2.2.3 Trình tự, thủ tục đình công
Đình công là một cách để NLĐ đòi quyền lợi của mình 1 cách hợp pháp và
dễ đạt được mục đích của mình với sức mạnh tập thể. Biết sử dụng sức mạnh tập
thể là 1 ưu thế của người lao động- những con người luôn bị yếu thế hơn so với
NSDLĐ. Tuy nhiên không phải lúc nào muốn đình công cũng được và những cuộc

đình công không phải lúc nào cũng hợp pháp. Vậy thủ tục và trình tự đình công ở
nước ta hiện nay như thế nào?
Theo quy định tại Điều 209 Bộ luật lao động năm 2012 thì:
“Điều 209. Đình công
1. Đình công là sự ngừng việc tạm thời, tự nguyện và có tỉnh tổ chức của
tập thể lao động nhằm đạt được yêu cầu trong quá trình giải quyết tranh chấp lao
động.
2. Việc đình công chỉ được tiến hành đối với các tranh chấp lao động tập thể
về lợi ích và sau thời hạn quy định tại khoản 3 Điều 206 của Bộ luật này”
Việc đình công phải do Ban cấp hành công đoàn cơ sở tổ chức và lãnh đạo.
Đối với những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở thì đình công do tổ chức công
đoàn cấp trên tổ chức và lãnh đạo theo đề nghị của người lao động.
Sơ đồ 1.1 Trình tự đình công
Lấy ý kiến tập thể lao động

18


×