Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng phương thức tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 99 trang )

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

2015- 2017

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
BẰNG PHƯƠNG THỨC TÒA ÁN


NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ TÌNH


HÀ NỘI – 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Tình.
Những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này là trung thực và
không có sự trùng lặp công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả

Nguyễn Thị Thu Hương


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến TS.
Nguyễn Thị Tình– người đã cho tôi những lời khuyên hữu ích cùng với sự hướng
dẫn tận tình để tôi có thể hoàn thành được luận văn thạc sỹ của mình.
Xin cảm ơn các thầy cô giáo dưới mái trường Viện Đại học mở Hà Nội đã
truyền đạt cho tôi những kiến thức pháp luật quý báu giúp tôi có thể hoàn thành
chương trình Cao học và hỗ trợ cho sự nghiệp của mình sau này.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn ở bên cạnh ủng hộ và tạo động lực để
tôi phấn đấu thật tốt trong quá trình học tập và công tác.

Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả!
Học viên:

Nguyễn Thị Thu Hương


MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐƯƠNG SỰ VÀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN

8

1.1 Khái quát về đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh,
thương mại

8

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đương sự trong vụ án về tranh chấp
kinh doanh, thương mại

8

1.1.2. Thành phần đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh,
thương mại


14

1.2. Khái quát về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

17

1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

17

1.2.2. Điều kiện bảo đảm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án

22

1.2.3. Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án theo quy định của pháp
luật một số quốc gia khác trên thế giới

25

Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN


31

2.1. Quyền và nghĩa vụ chung của đương sự trong quá trình giải

31


quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
2.1.1. Nhóm quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong quá
trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

32

2.1.2. Nhóm quyền và nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung cấp
chứng cứ và chứng minh

42

2.1.3. Nhóm quyền và nghĩa vụ khác của đương sự trong quá trình giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

47

2.2.

Quyền và nghĩa vụ riêng của từng đương sự trong quá trình
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

57


2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn trong quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

58

2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bị đơn trong quá trình giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

62

2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại
Tòa án

66

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ
NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN

68

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án.

68

Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp

luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải
quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án.

70

3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định
của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

82

3.2.

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

TTDS

:


Tố tụng dân sự

BLTTDS 2011

:

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ( sửa

đổi, bổ sung năm 2011)


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam ngày càng phát triển, kéo theo sự ra đời của
hàng loạt các chủ thể kinh doanh tạo nên một môi trường kinh doanh sôi động, ở đó,
việc cạnh tranh giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh được xem là nhân tố quan
trọng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển kinh tế, sự
gia tăng của các chủ thể kinh doanh cả về quy mô và số lượng cũng đồng nghĩa với
việc các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại phát sinh ngày một nhiều hơn.
Trong những năm gần đây, số lượng các vụ tranh chấp trong kinh doanh, thương
mại ở Việt Nam tăng đều qua các năm. Theo Báo cáo tổng kết ngành Tòa án nhân
dân năm 2012 thì chỉ trong vòng 05 năm từ năm 2008 đến năm 2012, số lượng vụ
án tranh chấp Kinh doanh thương mại tăng khoảng gấp 3 lần ( từ 5.384 vụ lên
14.215 vụ) và đến năm 2015 đã thụ lý 17.260 vụ, đã giải quyết 11.578 vụ, năm
2016 thụ lý giải quyết 16.327 vụ, đã giải quyết 10.172 vụ. Theo thống kê tình hình
giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam VIAC năm 2016, số
lượng các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại do cơ quan này giải quyết có sự
tăng mạnh, từ 64 vụ năm 2012 lên 155 vụ năm 2016.[16] Tuy vậy, có thể thấy, Tòa
án luôn là lựa chọn hàng đầu và là phương thức giải quyết chiếm ưu thế nhất cho

các bên tranh chấp khi phát sinh những mâu thuẫn, bất đồng trong hoạt động kinh
doanh.
Để việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại Tòa án đạt hiệu
quả cao nhất, thì bên cạnh vai trò to lớn của Tòa án, vai trò của các đương sự khi
tham gia vào quá trình tố tụng cũng quan trọng không kém. Bởi lẽ, trong vụ án dân
sự nói chung và các vụ tranh chấp kinh tế nói riêng, đương sự được xem là nhân vật
trung tâm trong quá trình tố tụng; có thể khẳng định không có sự tham gia đầy đủ
của đương sự thì công việc giải quyết tranh chấp của Tòa án gần như không đạt hiệu
quả. Đặc biệt, việc xác định quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của đương sự trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại là hết sức cần thiết. Pháp

1


luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ đều đã đưa ra những quy định về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng, như: Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế 1994, Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2004 ( sửa đổi, bổ sung năm
2011) – những văn bản này đã có những quy định thiết thực nhằm nâng cao trách
nhiệm cũng như bảo vệ quyền của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại Tòa án. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn mang
tinh chung chung, chưa có sự chi tiết và cụ thể hóa khiến cho việc áp dụng trong
thực tiễn tố tụng dân sự còn gặp nhiều khó khăn.
Từ yêu cầu cấp bách trong bối cảnh các tranh chấp kinh doanh, thương mại
ngày càng phức tạp như hiện nay, các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011) chưa thực sự phát huy hiệu quả, đặc biệt là trong việc
xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự, do đó, ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc
Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự
mới, chính thức có hiệu lực vào ngày 01 tháng 7 năm 2016; BLTTDS 2015 đã khắc
phục hạn chế, kế thừa và bổ sung nhiều quy định có tính khả thi hơn so với

BLTTDS trước đó về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự nói
chung và trong việc giải quyết các tranh chấp kinh tế tại Tòa án nói riêng.
Tuy vậy, mặc dù đã có BLTTDS mới với nhiều sự sửa đổi tích cực, nhưng
hiệu quả giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại tại Tòa án vẫn chưa
được cải thiện rõ nét. BLTTDS 2015 dù mới có hiệu lực được hơn một năm nhưng
đã bắt đầu phát sinh những bất cập, hạn chế trong các quy định về quyền và nghĩa
vụ của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng. Bên cạnh đó, bản thân các đương
sự khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án chưa thực sự hiểu rõ được về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đến
đâu. Điều đó khiến cho việc giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại tại
Tòa án trên thực tế gặp nhiều khó khăn.

2


Vì vậy, để việc giải quyết tranh chấp được nhanh chóng và đạt hiệu quả tốt
nhất, trong bối cảnh các tranh chấp kinh doanh, thương mại ngày càng gia tăng và
diễn biến phức tạp như hiện nay, việc tiếp tục làm rõ và hoàn thiện các quy định của
pháp luật TTDS về quyền và nghĩa vụ của đương sự cũng như nâng cao ý thức trách
nhiệm của đương sự trong việc thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình khi tham gia
vào quá trình tố tụng là yêu cầu có tính thời sự và cấp thiết. Xuất phát từ lý do đó,
tác giả đã lựa chọn vấn đề “Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng phương thức Tòa
án” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ của mình, với mong muốn đóng góp chút công sức
vào hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại và hoàn thiện hành
lang pháp lý về tố tụng dân sự nước nhà.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nhận thấy, việc tìm hiểu các vấn đề pháp lý về đương sự nói chung và
về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự nói riêng được các nhà
nghiên cứu đặc biệt quan tâm. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề

này, mỗi công trình đều có những cách tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Xét dưới góc độ nghiên cứu về các vấn đề pháp lý liên quan đến đương sự
trong tố tụng dân sự, không thể không kể đến Luận án Tiến sĩ Luật học “Đương sự
trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều
Dương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2010; Luận án đã đem đến cái nhìn toàn
diện về các nội dung pháp lý quan trọng liên quan đến đương sự, từ đó đưa ra
những kiến nghị thiết thực nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
tố tụng dân sự. Tiếp tục kế thừa những đóng góp của Luận án, tác giả Nguyễn Thị
Hiền, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012 với bài Khóa luận tốt nghiệp “Đương
sự trong vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã khai thác vấn đề pháp
lý về đương sự liên quan đến vụ án dân sự. Và dưới cấp độ một bài báo khoa học,
bài viết “Đương sự trong vụ án dân sự” của tác giả Nguyễn Việt Cường được đăng
trên Tạp chí Nghề luật số tháng 02 năm 2006 cũng đã khái quát được những nội

3


dung quan trọng của pháp luật tố tụng dân sự về đương sự trong các vụ án dân sự ở
Việt Nam.
Xét dưới góc độ nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng
dân sự, có thể kể đến các công trình như: Luận văn Thạc sỹ Luật học “ Đảm bảo
thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Nga, Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2013 và
“Quyền tố tụng của đương sự và thực tiễn thực hiện” của tác giả Đỗ Thị Hà, Trường
ĐH Luật Hà Nội, năm 2013. Những luận văn này đã tập trung vào việc phân tích
một số quyền quan trọng của đương sự trong tố tụng dân sự, từ đó đề ra các kiến
nghị và giải pháp nhằm bảo đảm quyền lợi cho các đương sự. Bên cạnh đó, bàn về
nghĩa vụ của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng, không thể không kể đến
Luận văn Thạc sỹ Luật học “Nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng dân sự Việt
Nam” của tác giả Phạm Thị Hoàng Phúc, Trường ĐH Luật Hà Nội, năm 2013; luận

văn đã đi sâu vào phân tích và làm rõ các nội dung pháp lý về nghĩa vụ của đương
sự. Hay các bài viết như “Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương
sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh được
đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Viện Nhà nước và Pháp luật, số 05 năm
2005; “Bảo đảm quyền tố tụng của đương sự thông qua người đại diện” của tác giả
Nguyễn Thị Thúy Hằng được đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân
tối cao, số 11 năm 2015; các bài này cũng tập trung vào việc làm sáng tỏ một số
quyền cụ thể của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng; chứ không bao quát các
quyền cơ bản được quy định trong pháp luật tố tụng dân sự.
Các công trình nghiên cứu đã có những đóng góp nhất định vào việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, chưa có một công trình khoa học nào tập trung
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quyền và nghĩa vụ của đương sự, đặc
biệt là chỉ xét trong quá trình giải quyết các tranh chấp về kinh doanh, thương mại
tại Tòa án. Hơn nữa, những công trình nêu trên được thực hiện trước thời điểm
BLTTDS 2015 có hiệu lực nên không còn tính thời sự và có giá trị tham khảo. Vì

4


vậy, với đề tài nghiên cứu của mình, trên cơ sở kế thừa những đánh giá, phân tích
của các công trình nghiên cứu trước, tác giả kỳ vọng sẽ đem đến cái nhìn mới mẻ,
toàn diện hơn về các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án, góp phần
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) ở Việt
Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Về nội dung, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại tại Tòa án, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ

của đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh thương mại; đồng thời luận văn
cũng phân tích những bất cập; hạn chế của pháp luật tố tụng dân sự gây khó khăn
cho các đương sự trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế; từ
đó đưa ra cái nhìn bao quát và đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Về không gian, luận văn nghiên cứu dựa trên phạm vi các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành và hướng đến đối tượng chính là đương sự trong
các vụ tranh chấp kinh doanh, thương mại , chủ yếu là các quy định của BLTTDS
2015, ngoài ra, Luận văn còn có sự đối chiếu với các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự 2004 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011) , các văn bản hướng dẫn, các văn bản pháp luật
chuyên ngành khác liên quan và đôi nét so sánh với pháp luật tố tụng dân sự của một số
quốc gian khác trên thế giới.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu, luận văn sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu khoa học khác nhau như: Chương 1 của luận văn được triển khai thông
qua phương pháp phân tích các vấn đề chung về đương sự và quyền, nghĩa vụ của
đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án,
kết hợp với phương pháp so sánh, đối chiếu với pháp luật tố tụng dân sự một số

5


nước khác. Đối với chương 2, tác giả sử dụng phương pháp phân tích nhằm cụ thể
hóa và làm rõ những quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa
án. Từ đó, ở chương 3, bằng phương pháp đối chiếu, phương pháp kết hợp nghiên
cứu lý luận với thực tiễn, tác giả đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về quyền và
nghĩa vụ của đương sự.
Dù là sử dụng phương pháp nào để xây dựng các nội dung của luận văn thì

các phương pháp nghiên cứu trong luận văn vẫn được thực hiện trên nền tảng của
phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường
lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Lựa chọn nghiên cứu đề tài trên, tác giả mong muốn phân tích làm sáng tỏ
thực trạng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về quyền và nghĩa vụ của
đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án,
trên cơ sở đó đề ra một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự, góp phần nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật trên thực tế.
Để đạt được mục đích trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về đương sự và quyền, nghĩa vụ của
đương sự trong các vụ tranh chấp kinh tế, những yếu tố nhằm bảo đảm việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại Tòa án.
- Phân tích nội dung cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ
của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án

6


- Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự về quyền và nghĩa vụ của đương sự, tạo điều kiện để các đương
sự phát huy được vai trò của mình trên thực tế, từ đó nâng cao hiệu quả giải
quyết các vụ tranh chấp trong kinh doanh thương mại
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên phân tích, đánh giá một
cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá
trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.

Trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ, tác giả sẽ làm sáng tỏ một cách có hệ
thống những vấn đề lý luận về đương sự và quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án. Trên cơ sở các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, tác giả còn đi sâu bình luận, đánh
giá thực trạng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự, có sự dẫn
chiếu so sánh với Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) . Cuối
cùng, từ việc đánh giá những bất cập, hạn chế của pháp luật tác giả đưa ra những
quan điểm và kiến nghị góp phần hoàn thiện Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về quyền
và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án .
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần lời nói đầu và phần kết luận, luận văn được bố cục nội dung chính
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về đương sự và quyền, nghĩa vụ của đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án
Chương 2:Thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án;

7


Chương 3: Một số kiến nghị góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết tranh
chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án

8


Chương 1


KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐƯƠNG SỰ VÀ QUYỀN,
NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN.
1.1.

Khái quát về đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại:
Đương sự được xem là trung tâm của vụ án dân sự nói chung và vụ án về tranh

chấp trong kinh doanh, thương mại nói riêng. Trong quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại; đương sự đóng một vai trò rất quan trọng; góp phần không
nhỏ vào hiệu quả giải quyết tranh chấp của Tòa án. Bởi vậy, việc xác định rõ các vấn
đề lý luận cơ bản về đương sự là công việc rất cần thiết để tăng cường hiệu quả áp
dụng pháp luật tố tụng dân sự trong thực tiễn:
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh
doanh, thương mại:
1.1.1.1. Khái niệm đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại:
Để đưa ra khái niệm đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương
mại cần phải làm rõ hai khái niệm: “đương sự” và “vụ án về tranh chấp kinh doanh,
thương mại”.
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt: “Đương sự được hiểu là người, là đối tượng
trực tiếp của một việc đang được giải quyết”. Từ điển Luật học xuất bản năm 1999,
Nhà xuất bản Từ điển bách khoa có định nghĩa: “đương sự là người có quyền, nghĩa
vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án”. Bên cạnh đó, theo giải
thích trong cuốn “Black law Dictionary” của tác giả Bryan A. Garner xuất bản năm
2001 thì: “đương sự là người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc kiện”. Như
vậy, theo các cách định nghĩa này thì đương sự là người, là đối tượng tham gia vào

9



quá trình giải quyết các khiếu nại, các tranh chấp phát sinh trong một số lĩnh vực cụ
thể. [5, tr.3]
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 68 BLTTDS 2015 thì: “Đương sự trong vụ án
dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu
cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”.
Có thể thấy, BLTTDS 2015 đã đưa ra định nghĩa về đương sự theo hướng liệt
kê các chủ thể là đương sự khi tham gia vào quá trình tố tụng. Kết hợp với cách giải
thích về đương sự trong các cuốn từ điển, có thể hiểu đương sự là chủ thể tham gia
vào quá trình tố tụng dân sự, thông qua Tòa án đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình, bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích hợp pháp của Nhà nước.
Vậy, đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại là gì? Trước
hết, vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại là một trong những vụ án dân sự
theo quy định của BLTTDS 2015: vụ án dân sự bao gồm: vụ án về tranh chấp dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc tìm hiểu khái
niệm đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại có ý nghĩa cụ thể
hóa một trong những nội dung quan trọng của vụ án dân sự. Tranh chấp kinh doanh,
thương mại được hiểu là những bất đồng, xung đột về quyền và lợi ích giữa các bên
chủ thể khi tham gia vào quan hệ thương mại, chủ yếu nhằm mục đích sinh lời.
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, hoạt động kinh
doanh, thương mại diễn ra ngày càng sôi nổi, khiến cho tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực này cũng gia tăng rõ rệt. Các bên tranh chấp trong kinh doanh, thương mại
thường là thương nhân, hay các tổ chức, cá nhân khác có tham gia quan hệ thương
mại với thương nhân.
Theo quy định tại Điều 30 BLTTDS 2015 thì nhóm các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:


10


+ Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+ Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
+ Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.
+ Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy BLTTDS 2015 đã có sửa đổi, bổ sung những quy định về tranh
chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với
BLTTDS 2011; cụ thể: BLTTDS 2015 đã không liệt kê cụ thể các tranh chấp trong
hoạt động kinh doanh, thương mại giữa các tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh
và nhằm mục đích lợi nhuận. Bởi lẽ sự liệt kê chi tiết trong quy định này tại
BLTTDS 2011 là không cần thiết, thậm chí thiếu tính phù hợp và nhất quán với các
quy định về hoạt động kinh doanh, thương mại tại các văn bản pháp luật chuyên
ngành khác như: Luật Thương mại 2005, Luật Doanh nghiệp 2014,… Đồng thời,
BLTTDS 2015 cũng đã làm rõ hơn các tranh chấp kinh doanh, thương mại thông
qua việc bổ sung thêm các trường hợp: “Tranh chấp giữa người chưa phải là thành
viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành
viên công ty” và “Tranh chấp công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty

cổ phần”. BLTTDS 2015 cũng đã thêm điều khoản loại trừ đối với “các tranh chấp

11


khác về kinh doanh, thương mại”: “Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại,
trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy
định pháp luật”. Những quy định này đã cho thấy sự tiến bộ của BLTTDS 2015, thể
hiện sự tương thích và phù hợp với các văn bản pháp luật khác; từ đó làm rõ hơn về
nội dung các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại.
Như vậy, các tranh chấp kinh doanh, thương mại được BLTTDS 2015 liệt kê
tại Điều 30 đều liên quan đến các chủ thể có tham gia vào quan hệ thương mại, chủ
yếu là giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa thương nhân với các bên có liên
quan trong quan hệ thương mại. Từ đó, có thể hiểu vụ án về tranh chấp kinh doanh,
thương mại là những vụ việc xung đột, bất đồng về quyền và lợi ích phát sinh giữa
các bên trong quan hệ thương mại được giải quyết tại Tòa án. Với những phân tích
trên, có thể đưa ra khái niệm:
Đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại là các cơ quan,
tổ chức, cá nhân tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình thông qua việc giải quyết mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ thương mại;
bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.1.1.2. Đặc điểm của đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại:
BLTTDS 2015 khi quy định về thành phần các đương sự trong vụ án dân sự
vẫn giữ nguyên cách phân loại như BLTTDS 2011. Vụ án về tranh chấp kinh doanh
thương mại là một dạng của vụ án dân sự, vì vậy, đương sự trong vụ án tranh chấp
kinh doanh, thương mại cũng mang những đặc điểm của các đương sự trong vụ án
dân sự nói chung, bên cạnh đó, cũng có những nét đặc thù:
- Đương sự trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại là chủ thể được
Tòa án chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.

Khi quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, phát sinh
tranh chấp, họ mong muốn tham gia hoặc buộc phải tham gia vào hoạt động tố tụng
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có

12


được Tòa án chấp nhận tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hay không còn phải
xem xét đến việc vụ án tranh chấp kinh tế đó có được Tòa án thụ lý giải quyết hay
không. Nếu việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức được Tòa án chấp nhận thì
họ được gọi là nguyên đơn; và cơ quan, tổ chức, cá nhân bị kiện được gọi là bị đơn;
còn cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc kiện thì được gọi là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu việc khởi kiên đó không được Tòa án chấp nhận
thì các chủ thể nói trên sẽ không có tư cách đương sự.
- Đương sự trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại là những chủ thể
bình đẳng với nhau trong tố tụng.
Xuất phát từ quyền bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS được quy
định tại Điều 8 BLTTDS 2015 : “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tòa án”. Do đó, trong quá trình giải
quyết vụ án về tranh chấp kinh doanh thương mại, các đương sự đều bình đẳng với
nhau về các quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Pháp luật TTDS quy định các quyền và nghĩa vụ chung của đương sự, nhưng
các đương sự trong những tư cách tố tụng khác nhau thì cũng có một số quyền và
nghĩa vụ khác nhau. Sự khác nhau đó không đồng nghĩa với việc pháp luật tạo nên
sự bất bình đẳng giữa các đương sự mà với những quyền và nghĩa vụ tố tụng khác
nhau đó của mỗi đương sự lại là cơ sở để các đương sự có điều kiện thuận lợi như
nhau khi tham gia tố tụng nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Đương sự trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại là chủ thể có

quyền tự định đoạt, việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự là cơ sở để
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quá trình giải quyết các vụ án đó.
Đương sự là chủ thể có vai trò đặc biệt quan trọng đối với quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án. Đương sự có quyền quyết định việc
khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp. Trong quá trình

13


giải quyết vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại, các đương sự có quyền chấm
dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện,
không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Nếu như đương sự trong vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại có quyền tự
định đoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thì các chủ thể khác
trong vụ án đó phải có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền tự định đoạt đó của
đương sự. Việc đương sự thực hiện hay không thực hiện các quyền và nghĩa vụ
trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt hoạt động tố tụng trong vụ án đó.
- Đương sự trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại thường là thương
nhân và những chủ thể gắn liền với mục đích kinh tế.
Quan hệ thương mại theo pháp luật thương mại Việt Nam thường là quan hệ
giữa các thương nhân hoặc giữa thương nhân với các tổ chức, cá nhân khác có liên
quan. Do đó, một đặc trưng khá khác biệt của đương sự trong vụ án tranh chấp kinh
doanh, thương mại đó là thường ít nhất một bên là thương nhân – những tổ chức
kinh tế hoặc cá nhân có thực hiện hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và
có đăng ký kinh doanh.
Rõ ràng, thương nhân hay các tổ chức, cá nhân khác khi tham gia vào hoạt
động kinh doanh đều có một mục đích chung là tìm kiếm lợi nhuận, để đạt được
mục đích đó, họ phải cạnh tranh với nhau để phát triển. Trong quá trình cạnh tranh,
tất yếu sẽ phát sinh những xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích; khi đó, Tòa án

chính là địa chỉ đáng tin cậy để giúp họ giải quyết tranh chấp, bảo vệ quyền lợi kinh
tế cho mình; và họ sẽ mang tư cách đương sự trong suốt quá trình tố tụng. Điều đó
thể hiện sự khác biệt với đương sự trong các vụ án dân sự khác, như: vụ án về tranh
chấp hôn nhân và gia đình; vụ án về tranh chấp dân sự; vụ án về tranh chấp lao
động; bởi đương sự trong các vụ án này có thể gắn với mục đích kinh tế hoặc đơn
thuần chỉ mang mục đích dân sự.

14


1.1.2. Thành phần đương sự trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại:
Cũng như đương sự trong các vụ án dân sự khác, đương sự trong vụ án về
tranh chấp kinh doanh, thương mại cũng bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Mỗi đương sự đều có những đặc trưng riêng khi tham
gia vào quá trình tố tụng.
1.1.2.1. Nguyên đơn:
Khoản 2 Điều 68 BLTTDS 2015 quy định: “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là
người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy
định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi
ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ
trách cũng là nguyên đơn”.
Như vậy, theo quy định của BLTTDS 2015, nguyên đơn là người khởi kiện vụ
án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc được người khác khởi
kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Như các đương sự khác,
nguyên đơn tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nhưng
việc tham gia tố tụng của nguyên đơn mang tính chủ động hơn các chủ thể khác.
Nguyên đơn là người đã khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện để bảo vệ quyền
và lợi ích của họ, nguyên đơn còn là cơ quan, tổ chức, cá nhân do BLTTDS quy

định khởi kiện vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người đó. Hoạt động
tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn tới việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố
tụng. Trong một vụ án, có thể có một nguyên đơn và cũng có thể có nhiều nguyên
đơn.
Trong vụ án về tranh chấp kinh doanh thương mại, nguyên đơn thường là các
thương nhân, những tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động kinh tế; khi quyền và
lợi ích của họ bị xâm hại; họ có quyền khởi kiện tại Tòa án với mong muốn tranh

15


chấp được giải quyết, quyền và lợi ích của họ sẽ được đảm bảo bằng cơ chế tài phán
của Nhà nước.
1.1.2.2. Bị đơn:
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 68 BLTTDS 2015 : “Bị đơn trong vụ án dân
sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ
luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng
quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm”
Có nghĩa là, bị đơn trong vụ án dân sự nói chung và vụ án tranh chấp kinh
doanh, thương mại nói riêng là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị
nguyên đơn hoặc bị người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Khác với
nguyên đơn, việc tham gia vào vụ án tranh chấp kinh doanh thương mại của bị đơn
mang tính bắt buộc, thụ động chứ không mang tính chủ động như nguyên đơn. Bị
đơn buộc phải tham gia tố tụng để trả lời cho việc kiện của nguyên đơn hoặc người
đại diện của họ. Tuy nhiên, trong hoạt động tố tụng, bị đơn cũng có thể làm thay đổi
quá trinh giải quyết vụ án tranh chấp. Như vậy, bị đơn là người bị nguyên đơn hoặc
bị người khác có thẩm quyền khởi kiện theo quy định của pháp luật TTDS khi họ bị
cho rằng đã xảy ra tranh chấp về quyền và lợi ích với nguyên đơn.
Trong vụ án về tranh chấp kinh doanh, thương mại, bị đơn thường là các tổ
chức, cá nhân có tham gia quan hệ kinh doanh với bên nguyên đơn, và khi phát sinh

tranh chấp khiến cho nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án, khi đó, bị đơn là người ở thế
thụ động, bị nguyên đơn cho là xâm hại đến quyền và lợi ích của họ.
1.1.2.3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Khoản 4 Điều 68 BLTTDS 2015 quy định: “Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc
giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ được tự
mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và được Tòa án chấp nhận đưa họ
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

16


Trường hợp việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ
của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”
Theo đó, trong vụ án tranh chấp kinh doanh, thương mại, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan được xác định là người tham gia tố tụng vào vụ án đã phát sinh
giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở đây không phải một bên trong tranh chấp kinh
doanh, thương mại giữa nguyên đơn và bị đơn; nhưng lại có liên quan đến quyền lợi
và nghĩa vụ trong tranh chấp đó; đồng thời; họ không khởi kiện như nguyên đơn,
không bị kiện như bị đơn mà là người tham gia tố tụng khi vụ án đã xuất hiện giữa
nguyên đơn, bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Nếu nguyên đơn
tham gia tố tụng với tâm thế chủ động, bị đơn thì thường ở tâm thế thụ động, thì
việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án
tranh chấp kinh doanh thương mại có thể mang tính chủ động thông qua việc tự
mình đề nghị tham gia tố tụng hoặc mang tính thụ động theo yêu cầu của đương sự
khác hoặc của Tòa án.
Trong khoa học pháp lý, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được phân

làm hai loại: (i) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và (ii)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn và bị đơn. Trong vụ
án tranh chấp kinh doanh, thương mại; lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị
đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị

17


đơn. Việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu
cầu độc lập phụ thuộc vào nguyên đơn.
1.2. Khái quát về Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án:
Với vai trò là trung tâm của quá trình tố tụng, đương sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mình nhằm đạt được mục đích khi tham gia vào TTDS; từ đó
góp phần lớn vào hiệu quả giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa
án. Bên cạnh đó, những quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự là một nội
dung hết sức quan trọng trong pháp luật TTDS Việt Nam, tạo nên địa vị pháp lý cho
đương sự. Để xác định được các quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của đương sự
trong quá trình giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án, trước hết,
cần phải làm rõ các vấn đề lý luận về Quyền và nghĩa vụ của đương sự.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá
trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án:
1.2.1.1. Khái niệm Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án:
Để đưa ra được khái niệm về Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong quá trình

giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Tòa án; trước hết cần phải làm rõ
khái niệm “Quyền của đương sự” và “Nghĩa vụ của đương sự” trong TTDS.
Trong khoa học pháp lý, chưa có sự định nghĩa cụ thể về “Quyền của đương
sự” và “Nghĩa vụ của đương sự”. Có thể hiểu, khái niệm “Quyền” dưới góc độ pháp
luật là khả năng mà chủ thể trong quan hệ pháp luật được phép lựa chọn cách xử sự
phù hợp nhất để thực hiện hay bảo vệ lợi ích cho mình. Trong pháp luật TTDS,
Quyền của đương sự được hiểu là việc đương sự được pháp luật cho phép thực hiện
hoặc không phải thực hiện một số công việc nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
cho đương sự trong quá trình tham gia tố tung.

18


×