Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong qúa trình thực hiện các hoạt động thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.88 KB, 16 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong kinh doanh, tranh chấp tồn tại như một tất yếu. Các mối quan hệ càng
nhiều, càng phức tạp thì khả năng xảy ra tranh chấp càng lớn, bất chấp một khung
pháp lý có hoàn chỉnh đến đâu – bởi không phải lúc nào các bên cũng tuân thủ pháp
luật một cách nghiêm chỉnh. Trước khi bắt đầu một thương vụ, các chủ thể không
bao giờ muốn có tranh chấp xảy ra. Tuy nhiên, nó vẫn có thể xảy ra do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan. Khi một tranh chấp đã xảy ra, để đảm bảo
lợi ích cho bản thân thì vấn đề lựa chọn một phương pháp giải quyết tranh chấp cần
được quan tâm thích đáng, sao cho tranh chấp được giải quyết thỏa đáng với chi phí
về thời gian, công sức và tiền bạc là ít nhất. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp
đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định và khó có thể nói phương thức nào ưu
việt hơn phương thức nào. Chỉ có các bên tranh chấp mới có thể quyết định lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp nào trong từng hoàn cảnh cụ thể. Nhìn
chung, các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có vai trò rất to lớn đối
với vấn đề giải quyết quyền và lợi ích của các bên. Qua đó, có thể phát triển được
các lợi ích kinh tế - xã hội, điều hòa được sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Bởi vậy, trong phần bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ bản chất của các
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại hiện này và quan trọng nhất là đưa
ra những ưu điểm và hạn chế của từng phương thức nhằm định hướng cho việc lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp cụ thể, phù hợp với từng trường hợp tranh
chấp phát sinh.


NỘI DUNG
1. Khái quát về tranh chấp thương mại.
1.1. Khái niệm tranh chấp thương mại.
Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh tế là thuật ngữ quen thuộc trong
đời sống kinh tế của các nước trên thế giới. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng
tồn tại nhiều khái niệm khác nhau để biểu đạt loại tranh chấp này. Khái niệm tranh


chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập tới trong LTM 1997 với cách hiểu như
sau: tranh chấp thương mại là tranh chấp pháp sinh do việc không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng hợp đồng trong hoặt động thương mại (điều 238 LTM 1997).
Tuy nhiên, khái niệm này mang nội hàm rất hẹp so với quan niệm của các nước
trên thế giới. Khái niệm được đề cập tới trong Pháp lệnh trong tài thương mại 2003
một cách không trực tiếp thông qua việc ghi nhận khái niệm hoạt động thương mại,
theo nghĩa rộng tạo ra sự tương đồng trong quan niệm thương mại và tranh chấp
thương mại của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và thông lệ
quốc tế.
Luật thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Như vậy, hoạt động
thương mại được hiểu rất rộng và gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Điều
này cho thấy khái niệm tranh chấp thương mại cũng được mở rộng hơn, có thể
hiểu: tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền
và nghĩa vụ giữa các bên trong qúa trình thực hiện các hoạt động thương mại.
1.2. Đặc điểm của tranh chấp thương mại.
Tranh chấp thương mại phải hội đủ các yếu tố sau:
Thứ nhất, tranh chấp thương mại trước hết là những mâu thuẫn (bất đồng) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong mối quan hệ cụ thể.
Thứ hai, những mâu thuẫn bất đồng đó phải phát sinh trong hoạt động thương mại.
Thứ ba, những mâu thuẫn (bất đồng) đó phải chủ yếu giữa các thương nhân.
1.3. Phạm vi của tranh chấp thương mại.
Các tranh chấp thương mại chủ yếu là những tranh chấp phát sinh giữa các
thương nhân (cá nhân kinh doanh, tổ chức kinh doanh) với nhau. Ngoài thương
2


nhân là chủ thể chủ yếu của tranh chấp thương mại, trong những trường hợp nhất
định, các cá nhân, tổ chức khác (không phải là thương nhân) cũng có thể là chủ thể

của tranh chấp thương mại, như: tranh chấp giữa công ty và thành viên của công ty;
giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động,
giải thể, sát nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty
hay tranh chấp về giao dịch giữa một bên không nhằm mục đích sinh lời với thương
nhân thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích
sinh lời đó chọn áp dụng luật thương mại. Như vậy, hoạt động không nhằm mục
đích sinh lời của một bên trong giao dịch với thương nhân tuy không phải là hoạt
động thương mại thuần túy nhưng khi bên không nhằm mục đích sinh lợi đã chọn
áp dụng Luật thương mại thì quan hệ này sẽ trở thành một quan hệ pháp luật
thương mại và tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật này phải được quan niệm
là tranh chấp thương mại. Hiện này, Luật Trọng tài năm 2010 đã quy định thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp của trọng tài tại Điều 2 bao gồm:
“1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài”.
Như vậy, Luật Trọng tài đã công nhận loại tranh chấp này thuộc phạm vi giải
quyết của trọng tài. Tuy nhiên, Điều 29 BLTTDS quy định về những tranh chấp về
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án thì loại tranh chấp
này lại không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Bởi vậy, khi xảy ra
loại tranh chấp này, thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án dân sự, song bên có
hoạt động không nhằm mục đích sinh lời có thể chọn áp dụng luật thương mại để
giải quyết tranh chấp.
2. Các phương thức giải quyết tranh chấp và ưu điểm, hạn chế của từng
phương thức.
Trên thế giới, cũng như Việt Nam hiện nay tồn tại bốn phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại cơ bản. Pháp Việt Nam ghi nhận các phương thức này tại
điều 317 Luật thương mại 2005 bao gồm:


3


“1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án”.
Khi xảy ra tranh chấp, tùy thuộc vào điều kiện, mức độ tranh chấp, mối quan
hệ của các chủ thể, thời gian, chi phí.v.v…mà các bên có thể lựa chọn phương thức
giải quyết tranh chấp phù hợp để giải quyết tranh chấp của mình. Phương thức giải
quyết tranh chấp là biện pháp thích hợp để giải toả các mâu thuẫn, bất đồng, xung
đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể
chấp nhận được.
2.1. Giải quyết tranh chấp thương mại theo phương thức thương lượng.
2.1.1. Bản chất pháp lý.
Thương lượng là phương thức giải quyết tranh chấp thông qua việc các bên
cùng nhau bàn bạc, tự dàn xếp, tháo gỡ những bất đồng pháp sinh để loại bỏ tranh
chấp mà không có sự giúp đỡ hay phán quyết của bất kí bên thứ ba nào. Đây chính
là phương thức giải quyết tranh chấp trực tiếp giữa các bên có tranh chấp. Pháp luật
không có quy định cụ thể điều chỉnh phương thức giải quyết tranh chấp này. Nhưng
khi đã lựa chọn được phương án trong khi thương lượng thì các bên tranh chấp phải
tự nguyện thực hiện. Phương thức này có đặc điểm pháp lý tương đối thoáng về cơ
chế cho các bên tham gia:
- Phương thức được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên
tranh chấp bàn bạc, thỏa thuận để tự giải quyết những bất đồng mà không có sự
hiện diện của bên thứ ba để trợ giúp hay ra phán quyết.
- Quá trình thương lương lượng giữa các bên không chịu sự ràng buộc của
bất kì nguyên tắc pháp lý hay những quy định khuôn mẫu nào của pháp luật về thủ
tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật Việt Nam mới dừng lại ở việc ghi nhận thương
lượng là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại mà không có quy định

nào chi phối đến cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
- Việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện
của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế pháp lý nào bảo đảm việc thực
thi đối với các thỏa thuận của các bên tong quá trình thương lượng. Tuy nhiên, nếu

4


kết quả của việc thương lượng được ghi nhận thành các văn bản quy định nghĩa vụ
của các bên như: giấy xác nhận nợ, giấy công nhân việc đã thực hiện nghĩa vụ của
một bên…thì các văn bản này sẽ được sử dụng làm căn cứ giải quyết tranh chấp
theo phương thức khác.
2.1.2. Ưu và nhược điểm của phương thức thương lượng.
Phương thức thương lượng có các ưu điểm và nhược điểm sau:
a. Ưu điểm
- Thủ tục tiến hành thương lượng đơn giản không bị ràng buộc bởi bất cứ thủ
tục thủ tục pháp lý nào. Điều này tạo nên những hiệu ứng tốt như: giải quyết nhanh
chóng linh hoạt, ít tốn kém, khắc phục hậu quả nhanh và khồng làm gián đoạn các
quá trình kinh doanh.
- Các chủ thể tham gia thương lượng dựa trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và
tự do về ý chí. Điều này tăng khả năng tự do ý chí nên các chủ thể tham gia vào
quá trình thương lượng có thể kiểm soát và định đoạt toàn bộ quá trình thương
lượng. Sự tự do ý chí của các chủ thể này cũng không bị bất cứ một thủ tục nào
ràng buộc. Họ có quyền chủ động đàm phán các vấn đề mà họ cho là cần thiết,
chính yếu trong tranh chấp và qua đó có thể lựa chọn được phương án tối ưu nhất
giải quyết tranh chấp của các bên.
- Thương lượng không gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên. Mà thông qua
đó các bên còn có thể trao đổi những quan điểm...giúp các bên hiểu biết lẫn nhau,
cũng như nắm được tâm tư nguyện vọng của nhau. Bởi vậy, các bên vẫn có khả
năng duy trì quan hệ hợp tác, thậm chí là gắn kết hơn.

- Phương thức thương lượng đảm bảo được uy tín, bí mật trong kinh doanh. Bởi
phương thức không cho phép sự tham gia của một bên thứ ba, không công khai.
b. Nhược điểm
- Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp mang tính tự phát, không
bị ràng buộc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật. Do đó, việc thực hiện các cam
kết thỏa thuận hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện giữa các bên mà không chịu bất kì sự
cường chế thi hành. Điều này dẫn đền nhiều trường hợp các bên tiến hành thương
lượng không thực hiện kam kết như đã thương lượng và việc thượng lượng có thể
được các bên sử dụng với mục đích trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình.

5


- Quá trình thương lượng là một hoạt động khép kín, không hề có sự tham gia
giám sát, can thiệp nên có thể nhiều cam kết, thỏa thuận thương lượng trái với các
nguyên tắc và nội dung của pháp luật, hoặc tạo cơ hội cho những tranh chấp và sai
phạm tiếp theo.
- Có thể lợi dụng phương thức này để thực hiện sự "hòa hoãn" nhằm tạo thời
gian cho việc thực hiện các ý đồ khác, nhất là khi thời hiệu khởi kiện không còn
nhiều. Do đó, thương lương có thể trở thành “cái bẫy” đối với những đối tác cả tin
và thiếu thận trọng.
- Pháp luật Việt Nam quy định cách sơ lượng về phương thức này, chưa có
quy định cụ thể hơn về điều kiện, thủ tục thương lượng. Đặc biệt, là thiếu các biện
pháp hỗ trợ từ phía quyền lực nhà nước. Nên phương thức này thiếu tính thực tế,
không đảm bảo độ tin tưởng cho thương nhân Việt Nam nên họ ít lựa chọn.
2.2. Giải quyết tranh chấp thương mại theo phương thức hòa giải.
2.2.1. Bản chất pháp lý
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
làm trung gian hòa giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các
giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh. Từ khái niệm này có thể thấy bản

chất pháp lý của hòa giải thông qua các đặc trưng sau:
- Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải có sự hiện diện của bên thứ
ba (do các bên tranh chấp lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiểm
giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Bên thứ ba với tư cách là trung gian hòa
giải không có quyền quyết định, áp đặt, bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên
tranh chấp. Họ chỉ có thể đưa ra các giải pháp gợi ý, thuyết phục các bên tìm cách
giải quyết thỏa đáng mà không đưa ra phán quyết buộc các bên phải tuân theo.
- Quá trình hòa giải các bên tranh chấp không chịu sự chi phối bởi các quy
định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải. Hiện nay, pháp
luật nước ta không có những quy định ràng buộc vê thủ tục, chi phối đến cơ chế
hòa giải ngoài các quy định ghi nhận có tính chất thương lượng, hòa giải là những
phương thức giải quyết tranh chấp được các bên ưu tiên lựa chọn.
- Kết quả hòa giải thành được các bên thực thi hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự
nguyện cảu cac nên tranh chấp mà không có cơ chế nào bảo đảm thi hành. Giống

6


như thương lượng phương thức này thực chất vẫn được thực hiện bởi cơ chế tự giải
quyết và hoàn toàn trên cơ sở tự nguyện của các bên. Các thỏa thuận không có giá
trị bắt buộc thi hành mà phụ thuộc vào thiện chí của các bên (trừ trường hợp các
bên hòa giải với nhau trước cơ quan tài phán khi đã đưa tranh chấp ra giải quyết tại
cơ quan tài phán đó.
Nhìn chung, bản chất pháp lý của hòa giải cũng có những điểm tương đồng
với thương lượng. Điểm khác biệt của hai phương thức này đó là sự tham gia của
bên thứ ba, trong khi thương lương không có sự tham gia của chủ thể này.
2.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức hòa giải.
a. Ưu điểm.
- Cũng như thương lượng, hòa giải cũng có ưu điểm về thủ tục giải quyết
nhanh chóng, linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém.

- Bên thứ ba thường là bên có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm… nên họ sẽ
biết cách làm cho ý chí của các bên dễ dàng gặp nhau và hiểu nhau hơn trong quá
trình đàm phán. Trong những trường hợp kinh nghiệm và sự hiểu biết của các bên
còn hạn chế giải quyết bằng thương lượng sẽ khó đạt hiệu quả hơn. Nhưng khi có
sự tham gia của bên thứ ba thì cơ hội thành công cao hơn.
- Giúp cho các nhà kinh doanh trực tiếp giữ giàn được các mối quan hệ kinh
tế, uy tín và sự tín nhiệm của bạn hàng. Kết quả hòa giải không thể hiện sự thắngthua, được-mất nên không dẫn tới tình trạng đối đầu như hậu quả của các vụ kiện
tại tòa án.
- Các bên có cơ hội tham gia trực tiếp và kiểm soát, định hướng quá trình
đàm phán trực tiếp và hướng tới một kết quả thỏa mãn lợi ích của các bên. Các bên
có thể tập trung sự chú ý và quan tâm vào các vấn đề cốt lõi, gay cấn của nội dung
tranh chấp thương mại, hạn chế tối đa sự hao phí thời gian và tăng cường khả năng
giải quyết tranh chấp hiệu quả.
- Hòa giải được tiến hành theo với sự tham gia của bên thứ ba nên kêt quả
hòa giải dễ được các bên tôn trọng tự nguyện vì có sự chứng kiến của người thứ ba.
b. Nhược điểm
- Hòa giải có những hạn chế tương tự như phương thực thương lượng vì cơ
sở của hòa giải vẫn được giải quyết dựa trên sự tự do thỏa thuận và tự nguyện thi

7


hành của các bên. Bởi vậy, dù có sự tham gia của bên thứ ba mà một bên không
trung thực, thiếu thiện chí… thì cũng rất khó đạt được kết quả.
- Dễ bị ảnh hưởng đến uy tín, bí mật kinh doanh vì có sự tham gia của bên
thứ ba.
- So với thương lượng thì phương thức này tốn kém hơn vì phải tốn chi phí
chi trả thù lao cho bên thứ ba.
2.3. Giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài.
2.3.1. Bản chất pháp lý

Khoản 1 điều 3 Luật Trọng tài thương mại 2010 quy đinh: “Trọng tài thương
mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành
theo quy định của Luật này”. Theo điều luật có thể thấy giải quyết tranh chấp
thương mại được tiến hành có trình tự theo quy định của pháp luật về trọng tài.
Pháp luật đã có sự điều chỉnh phương thức này một cách cụ thể, mặc dù vẫn trên cơ
sở thỏa thuận của các bên nhưng sự thỏa thuận này đã chịu sự hạn chế. Phương
thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thể hiện bản chất pháp lý như sau:
- Phương thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự
nguyện. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp, các bên thỏa thuận trọng tài. Tức là, có thể khi kí kết hợp đồng
các bên đã trù bị trước bên có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là trọng tài nếu
tranh chấp hoặc khi tranh chấp đã xảy ra thì các bên cùng thỏa thuận lựa chọn một
Trung tâm trọng tài (chỉ định trọng tài viên) hay một ai đó tham gia với tư cách là
trọng tài.
- Phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài mang tính chất tài phán.
Tính chất tài phán thể hiện ở các điểm như phải tuân theo các trình tự, thủ tục (quy
tắc tố tụng) nhất định và pháp quyết có giá trị bắt buộc thi hành với các bên. Tuy
nhiên các nguyên tắc mà trọng tài phải tuân theo có thể quy tắc “trọng tài quy chế”
là hình thức giải quyết tranh chấp tại một Trung tâm trọng tài theo quy định của
Luật Trọng tài thương mại 2010 và quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài đó
(khoản 6 điều 3 Luật TTTM) hoặc “trọng tài vụ việc” là hình thức giải quyết tranh
chấp theo quy định của Luật Luật Trọng tài thương mại 2010 và trình tự, thủ tục do
các bên thoả thuận (khoản 7 điều 3). Trọng tài tuy là cơ quan tài phán nhưng không

8


mang tính chất quyền lực công mà là một tổ chức xã hội – nghề nghiệp theo ý chí
của các bên mà tiến hành giải quyết tranh chấp và nhân danh chính mình đưa ra
phán quyết.

- Phán quyết của Trọng tài có giá trị bắt buộc thi hành. Luật trọng tài thương
mại 2010 tại Điều 65 quy định về sự tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài như
sau: “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài”.
Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa là phán quyết của trọng tại không phải thực hiện vì
nó là tự nguyện. Bởi Điều 66 quy định về quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng
tài: “1. Hết thời hạn thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết
không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài theo quy
định tại Điều 69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền
làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết
trọng tài.
2. Đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm
đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng
tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.
Do đó, phán quyết là bắt buộc nếu khi hết thời hạn, bên phải thì hành không tự
nguyện thực hiện và pháp quyết đó được Tòa án công nhận thì thông qua các quan
thì hành án dân sự như một bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc và trọng
tài thường trực.
* Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
thành lập để giải quyết tranh cháp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi
giải quyết xong tranh chấp. Trọng tài vụ việc có các đặc điểm riêng biệt như sau:
- Chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và chấm dứt hoạt động khi giải
quyết xong tranh chấp.
- Không có trụ sở làm việc, không có bộ máy điều hành và không có danh
sách trọng tài viên riêng.
- Không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình.
* Trọng tài thường trực theo pháp luật Việt Nam được tổ chức dưới dạng các
trong tâm trọng tài. Các trung tâm trọng tài có các đặc trưng cơ bản sau:

9



- Là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước.
- Có tư cách pháp nhân và tồn tại độc lập với nhau.
- Có tổ chức và quản lý đơn giản, gọn nhẹ
- Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng.
- Việc tiến hành xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng
tài viên của trung tâm.
2.3.2. Ưu điểm và nhược điểm
a. Ưu điểm
- Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài thương mại có ưu điểm
nổi bật so với Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo và phán quyết của trọng tài là có giá
trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài
không chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự mà nó còn khiến các bên
không thể chống án hay kháng cáo. Quyết định trọng tài được thực hiện ngay, đáp
ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về tiền, hàng trong kinh doanh thương
mại. Tuy là chung thẩm, nhưng tố tụng trọng tài không đặt vấn đề cưỡng chế thi
hành, nên bên đương sự nào không chấp nhận phán quyết của trọng tài thì có thể
kiện ra Toà kinh tế theo thủ tục giải quyết các vụ án.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp bí mật. Hầu hết pháp luật về
trọng tài của các nước đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín (in camera) nếu
các bên không quy định khác. Tính bí mật thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và
danh tính của các bên được giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thương
mại. Điều đó có ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh.
- Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, linh
hoạt cho các bên. Với trọng tài, các bên thông thường được tự do lựa chọn thủ tục,
thời gian, địa điểm phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi,
nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều
này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết

tranh chấp.
- Tiết kiệm thời gian

10


Tính liên tục trong hoạt động giải quyết của trọng tài đáp ứng được yêu cầu
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng được do luôn
phải giải quyết nhiều tranh chấp cùng một lúc, gây ra khả năng ách tắc hồ sơ.
- Duy trì được quan hệ đối tác
Việc thắng, thua trong tố tụng tại trọng tài kinh tế vẫn giữ được mối hoà khí lâu
dài giữa các bên tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác
kinh doanh giữa các đối tác. Bởi lẽ tố tụng tại trọng tài là tự nguyện.
- Trọng tài cho phép các bên sử dụng được kinh nghiệm của các chuyên gia.
Các bên có thể chọn một Hội đồng trọng tài dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững
vàng của họ về pháp luật thương mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính
chuyên sâu như chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch
vụ, sở hữu trí tuệ…
- Tuy là giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi
chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Toà án trên các mặt như:
Xác định giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài; giải quyết khiếu nại về thẩm
quyền của Hội đồng trọng tài; ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; xét đơn
yêu cầu huỷ quyết định trọng tài; công nhận và thi hành quyết định trọng tài.
b. Nhược điểm
- Việc sử dụng phương thức giải quyết bằng trọng tài cần có sự nhất trí của
các bên tranh chấp trong việc chọn trung tâm trọng tài và trọng tài viên. Nếu trong
hợp đồng đã có dự liệu về việc giải quyết tranh chấp thì sẽ dựa vào hợp đồng để
xác định trung tâm trọng tài và trọng tài viên. Tuy nhiên, nếu sau khi xảy ra tranh
chấp các bên mới tiến hành lựa chọn thì không phải trong trường hợp nào các bên
cũng có thể nhất trí để chọn được trung tâm trọng tài và trong tài viên giải quyết

tranh chấp của mình.
- Hiện nay, các trung tâm trọng tài Việt Nam thường hướng các bên tới áp
dụng pháp luật Việt Nam. Điều này xuất phát từ ảnh hưởng của việc áp dụng luật
Việt Nam của Tòa án để giải quyết, những Trọng tài viên am hiểu luật pháp Việt
Nam, bằng những cách khác nhau đã hướng các bên tới áp dụng pháp luật Việt
Nam trong giải quyết tranh chấp thương mại. Điều này tạo lên sự bất bình đẳng
trong thương mại quốc tế. Mà hệ quả là sự phản ứng như kiện lên các cơ quan tài

11


phán quốc tế, kiện hủy quyết định trọng tài. Điều này hoàn toàn không có lợi nếu
không nói rằng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển nền kinh tế Việt Nam nói chung và
quan hệ giao thương giữa các doanh nhân tại Việt Nam nói riêng.
- Trung tâm trọng tài, trọng tài viên không phải là chủ thể đại diện cho quyền
lực nhà nước nên tính cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài, cả những quyết
định mang tính thì tục và quyết định giải quyết về mặt nội dung không cao. Nhiều
trường hợp, việc thực hiện các quyết định trọng tài hoàn toàn trông cậy vào sự tự
nguyện của các bên, cho dù pháp luật cũng đã có những cơ chế nhất định.
- Quyết đinh trọng tài có thể bị Tòa án hủy. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có đủ căn cứ để chứng minh
được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật trọng tài năm 2010, thì có quyền làm đơn
gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài.
2.4. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng Tòa án.
2.4.1. Bản chất pháp lý.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh
quyền lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt và chặt chẽ
và bản án hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện
tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

Phương thức giải quyết này có các đặc trưng cơ bản sau:
- Có sự tham gia của cơ quan tài phán sử dụng quyền lực nhà nước để giải
quyết tranh chấp là tòa án. Tòa án là một cơ quan quyền lực nhà nước thuộc hệ thống
cơ quan tư pháp. Do đó, nó được nhà nước trao quyền, được phép sử dụng quyền
lực, nhân danh nhà nước thực hiện xét xử. Đây là một chủ thể đặc biệt so với phương
thức thương lượng hay hòa giải. Tòa án tham gia giải quyết tranh chấp không những
nhằm đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên liên quan mà còn nhằm bảo về trật tự,
kỉ cương các quan hệ kinh tế, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế phát triển lành
mạnh, tác động tích cực vào quan hệ kinh tế thị trường. Khác với các phương thức
khác chỉ tiến hành giải quyết khi có sự tham gia thỏa thuận của các bên thì phương
thức Tòa án chỉ cần một bên thể hiện ý chí là “nguyên đơn dân sự”.

12


- Tòa án giải quyết các tranh chấp của tòa án phải tuân theo các nguyên tắc
hoạt động và tính đặc thù của tòa án. Như nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc
thực hiện chế độ hai cấp xét xử…
- Giải quyết tranh chấp tại tòa án phải tuân theo các nguyên tắc tố tụng mà
các bên tham gia tranh chấp không được phép thỏa thuận. Các thủ tục này khá phức
tạp. Các bên tham gia tranh chấp phải chấp hành mà không được thỏa thuận với tòa
án về vấn để bỏ qua, thay đổi trình tự… của bất kì thủ tục nào.
- Các bản án hoặc quyết định của tòa án được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước. Sức mạnh cưỡng chế thi hành bản án, quyết định của cơ
quan nhà nước được thực hiện bởi một cơ quan chuyên trách thi hành án dân sự.
2.4.2. Ưu điểm và nhược điểm của phương thức Tòa án.
a. Ưu điểm
- Phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án được sử dụng và tỏ ra hiệu
quả khi tranh chấp các bên có tranh chấp và mâu thuẩn gay gắt, trong khi đó, hợp
đồng mà các bên ký kết trước đó lại không có điều khoản quy định về phương thức

giải quyết tranh chấp.
- Thực hiện nhiều cấp xét xử đảm bảo cho quyết định do Tòa án đưa ra được
chính xác, công bằng khách quan, đúng pháp luật. Mặt khác, xét xử với những Hội
đồng xét xử khác nhau là nhằm loại trừ sự thiên vị, thiếu khách quan của người
tham gia xét xử và tạo điều kiện cho các đương sự có đủ thời gian, cơ hội chuẩn bị
hồ sơ, chứng cứ, bổ sung chứng cứ vào bất cứ giai đoạn nào. Từ đó, có thể bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
- Cơ chế bảo đảm thi hành bản án, pháp quyết của tòa án bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước là một đặc điểm hấp dẫn khiến các bên có tranh chấp sử
dụng phương thức này. Tính chất cưỡng chế thi hành án của Tòa án là mạnh hơn so
với phương thức trọng tài.
b. Nhược điểm
- Cơ chế giải quyết tranh chấp của Tòa án phải đảm bảo nhiều nguyên tắc,
thực hiện nhiều thủ tục. Bởi vậy, đây là cơ chế phức tạp nên việc giải quyết nhanh
chóng là rất đó. Thêm vào đó, số lượng án mà tòa án phải thụ lý là nhiều nên không
thể giải quyết nhanh chóng. Bởi vậy, việc hao phí nhiều thời gian và tiền bạc là

13


không thể tránh khỏi. Do đó, gây bất lợi nhiều cho các doanh nghiệp tham gia hoạt
động vốn đòi hỏi sự nhanh nhạy, linh hoạt.
- Giải quyết tranh chấp công khai không phải là phương án tốt để, phù hợp
với mong muốn của các thương nhân. Bởi, tham gia vào hoạt động thương mại họ
cần phải giữ được các bí mật kinh doanh, mà nhiều khi xét xử buộc phải đưa ra để
bảo vệ lợi ích của mình. Không phải khi nào Tòa án cũng chấp nhận yêu cầu xử kín
của các bên. Các bên muốn được xử kín thì phải chứng minh được lý do của họ là
chính đáng và không phải trường hợp nào cũng làm được điều này. Mặt khác, xử
công khai thì kết quả của phiên xét xử cũng công khai nên tạo ra sự bất lợi, mất uy
tín cho nên “thua kiện”. Bởi xét xử bằng tòa án phân định sự thắng thua là tương

đối rõ ràng. Cũng vì phán quyết của tòa án thể hiện bên thắng, bên thua rõ ràng nên
nhiều khi các bên tham gia tranh chấp từ đối tác trở thành đối thủ. Làm mất đi mối
quan hệ hợp tác của các bên và ảnh hưởng tới các hoạt động kinh tế về sau.
- Tiến hành xét xử phải tuân theo một cách đầy đủ các trình tự, thủ tục. Nên
cơ chế giải quyết tranh chấp của tòa án được đánh là tương đối cứng nhắc, thiếu
linh hoạt, phức tạp nên không phù hợp. Điều này cũng thu hẹp phạm vi quyền của
chủ thể vì không được thay đổi, rút gọn trình tự giải quyết, thẩm phán. Thiếu đi các
quyền này các chủ thể cũng bị hạn chế sự chủ động trong tham gia tranh chấp. Do
đó, nó gây trở ngại với việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động kinh
doanh vốn dĩ linh hoạt và mềm dẻo.
- Tòa án là một cơ quan quyền lực nhà nước nên ngoài thực hiện chức năng
xét xử nhằm đảm bảo quyền và lơi ích của các đương sự thì còn phải đảm bảo hài
hòa các lợi ích kinh tế - xã hội, chính trị. Do đó, các bản án, quyết định có ảnh
hưởng một phần bởi các yếu tố này, tính khách quan nhiều khi không được đảm
bảo trọn vẹn.

14


KẾT LUẬN
Nhìn tổng quan các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại có thể thấy:
Về mặt pháp lý phương thức thương lượng, hòa giải trọng tài không mang ý
chí quyền lực nhà nước, các bên được giải quyết tranh chấp trên nền tảng ý chí tự
định đoạt của các bên hoặc pháp quyết của bên thứ ba độc lập (được lực chọn thủ
tục linh hoạt, mềm dẻo, bên thứ ba có kĩ năng. Trong khi đó Tòa án lại là phươnng
thức mang ý chí quyền mực nhà nước được tòa án tiến hành theo thủ tục nghiêm
ngặt chặt chẽ, các bên không thể thỏa thuận về thủ tục, người tiến hành tố tụng (nếu
có thể thì cũng chỉ được để nghị thay đổi người tiến hành tố tụng theo những căn
cứ nhất định và việc quyết định thay đổi, ai là người thay thế cũng không phụ thuộc
vào ý chí của các đương sự).

Về nội dung, có thể thấy ưu điểm của phương thức thương lượng, hòa giải,
trọng tài so với tòa án là tính linh hoạt, mềm dẻo vê thủ tục, đảm bảo tối đã quyền
định đoạn của các bên trong tranh chấp mà không bị ràng buộc nghiêm ngặt như
tòa án. Từ đó, việc giải quyết cũng nhanh chóng và ít chi phí hơn. Ngoài ra nó còn
đảm bảo tối đa uy tín và bí mật của các bên tranh chấp, củng cố và duy trì mối quan
hệ lâu dài giữa các bên.
Về hạn chế của các phương thức thương lượng, hòa giải, trọng tài có những trở
ngại khó tránh khỏi như khả năng thành công. Khả năng thành công của các
phương thức này phụ thuộc vào thiện chí, khả năng của bên thứ ba. Hay các điều
kiện đảm bảo thi hành án nên nhiều khi việc thi hành quyết định cam kết dựa trên
sự tự nguyện thường phức tạp, tốn kém. Nhưng vấn đề này lại là một ưu điểm của
tòa án.
Tóm lại, mỗi phương thức đều có những ưu và nhược điểm nhất định và rất
khó để đánh giá phương thức nào là ưu việt hơn phương thức nào. Vẫn đề này chỉ
có các bên tranh chấp mới có thể lựa chọn phương thức cho họ phụ thuộc vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể và những mục đích hướng tới của các bên tham gia. Việc lựa
chọn, cân nhắc lựa chọn phương thức nào do các bên tự quyết định trên cơ sở cân
nhắc hàng loạt các vấn đề như mục tiêu, bản chất của hình thức giải quyết tranh
chấp, uy tín, mối quan hệ với bạn hàng…

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thương mại (HP2) – Trường Đại học Luật Việt Nam.
NXB. Công an nhân dân, 2009.
2. Giải quyết tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam
– Luận án tiến sĩ luật học. Tác giả: Đào Văn Hợi – Trường Đại học luật Hà
Nội, 2004/.
3. Các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại - những vấn đề lý luận

và thực tiễn. Khoá luận tốt nghiệp / Bùi Thị Thương; Người hướng dẫn:
ThS. Lê Thị Lợi . - Hà Nội, 2010.
4. Luật Thương mại 2005.
5. Luật Trọng tài thương mại 2010.
6. Các văn bản pháp luật khác.

16



×