Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghĩa vụ của người bán và người mua theo quy định của công ước viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và kinh nghiệm cho doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.75 KB, 81 trang )

ĐÀO SỸ KIỀU

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÁN VÀ NGƢỜI MUA
THEO QUY ĐỊNH CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP
ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ KINH
NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

2015 - 2017

ĐÀO SỸ KIỀU

HÀ NỘI – 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI BÁN VÀ NGƢỜI MUA THEO QUY ĐỊNH
CỦA CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA


QUỐC TẾ VÀ KINH NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM

ĐÀO SỸ KIỀU

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2017

2


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Công ƣớc Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG) là
văn bản hài hòa hóa pháp luật nhằm thống nhất các quy phạm đƣợc áp dụng để điều
chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, dù các bên của hợp đồng ở quốc gia
nào. Cho đến thời điểm hiện tại, CISG là một trong các điều ƣớc quốc tế thành công
nhất trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế, đƣợc phổ biến và áp dụng rộng rãi nhất, với
trên 80 quốc gia thành viên trên thế giới.
Ngày 18/12/2015 vừa qua, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập
CISG để trở thành viên thứ 84 của Công ƣớc này. Điều đáng chú ý là Việt Nam đã
đi trƣớc nhiều nƣớc ASEAN khác để trở thành thành viên thứ 2 sau Singapore gia
nhập Công ƣớc quan trọng này. Hiện nay, hầu hết các đối tác thƣơng mại lớn của
Việt Nam đều là thành viên của Công ƣớc (CISG). Từ ngày 01/01/2017 vừa qua,
Công ƣớc Viên 1980 sẽ chính thức có hiệu lực tại Việt Nam, mở ra nhiều thuận lợi,
cũng nhƣ những kinh nghiệm cho các doanh nghiệp trong giao thƣơng hàng hóa
quốc tế.

Việc gia nhập CISG đã đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia vào
các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng về thƣơng mại, tăng cƣờng mức độ hội nhập của
Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa
quốc tế và cho các doanh nghiệp việt nam một khung pháp lý hiện đại, công bằng
và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này trên cơ sở đó có thể
đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động mua bán
hàng hóa quốc tế ở Việt Nam, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “Nghĩa vụ của
người bán và người mua theo quy định của Công ước viên 1980 về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế và kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam” để làm đề tài
nghiên cứu.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài
Trên thế giới, hầu hết các cƣờng quốc thƣơng mại trên thế giới trong đó có
nhiều quốc gia là bạn hàng lớn và lâu dài của Việt nam đều đã gia nhập Công ƣớc
Viên nhƣ Pháp, Mỹ, Italia, Liên bang Nga, Canada, Đức, Hà Lan, Australia, Trung
Quốc… còn tại khu vực châu Á là các quốc gia mới gia nhập nhƣ Hàn Quốc và
Nhật Bản. Việc Công ƣớc Viên 1980 trở thành nguồn luật của tất cả những quốc gia
này và đƣợc khuyến khích sử dụng cho mọi giao dịch thƣơng mại quốc tế có thể
thấy có ảnh hƣởng không nhỏ đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế của các
doanh nghiệp Việt Nam
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu thêm một phần nhỏ bé về hoạt động mua bán
quốc tế một đề tài không mới đối với các nƣớc phát triển nhƣng rất mới mẻ đối với
các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam chúng ta. Sự hiểu biết chƣa sâu sắc đã làm
cho các doanh nghiệp Việt Nam luôn mắc phải và luôn phải chịu thiệt hại rất lớn,
mục đích của đề tài là không chỉ giúp nhà nƣớc, doanh nghiệp, cá nhân hiểu và thực
hiện chiến lƣợc xuất nhập khẩu phù hợp với các điều kiện cam kết gia nhập mà còn

áp dụng các điệu kiện đó để kiện lại bên vi phạm các điệu kiện đó, hay nói đúng
hơn là chúng ta dùng cam kết đó bảo vệ mình và dùng nó để đòi lại quyền lợi cho
mình. Nâng cao và tuyên truyền pháp luật về hợp đồng mua bán quốc tế vào các
doanh nghiệp, cá nhân để khi thực hiện các hoạt động kinh tế đặc biệt là kinh tế
xuất nhập khẩu để tránh những thiệt hại kinh tế khi bị kiện hay tranh chấp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu lãm rõ thêm một số vấn đề lý
luận cơ bản về ký kết hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng,
hàng hoá trong hợp đồng, việc chuyển rủi ro, bồi thƣờng thiệt hại,…; đề xuất vấn đề
Việt Nam gia nhập Công ƣớc viên 1980.
Để đạt đƣợc mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ là trả lời những câu
hỏi sau:
- Công ƣớc viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là gì?

4


- Lợi ích và khó khăn khi Việt Nam gia nhập vào Công ƣớc viên 1980?
- Nghĩa vụ của bên mua và bên bán nhƣ thế nào khi tham gia Công ƣớc viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế?
- Cách giải quyết khi xảy ra tranh chấp, kiện tụng nhƣ thế nào?
- Các án lệ đã xảy ra và cách giải quyết án lệ theo quy định của CISG ra sao?
- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam khi tham gia vào CISG là gì?
- Trên cơ sở những án lệ rút ra những bài học quí báu cho doanh nghiệp
Việt Nam khi tham gia vào công ƣớc Viên 1980.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đúng nhƣ những gì tên luận văn thể hiện, nội dung chủ yếu của luận văn sẽ
tập trung đi vào nghiên cứu các quy định pháp luật của CISG về nghĩa vụ của bên
mua và bên bán trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Ngoài ra, trong luận văn
còn đề cập đến thực tiễn kinh nghiệm mà Việt Nam đã nhận đƣợc khi nghiên cứu

các án lệ đã xảy ra trên thế giới. Những bài học cho doanh nghiệp Việt Nam khi
tham gia mua bán hàng hóa quốc tế
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp luận chung của Luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, áp dụng các phƣơng pháp cụ thể:
Phƣơng pháp phân tích
Phƣơng pháp tổng hợp
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu
Phƣơng pháp thống kê
6. Những điểm mới về khoa học của luận văn
Kết quả việc nghiên cứu của luận văn là tập hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận
và thực tiễn của các vấn đề về nội dung cơ bản của Công ƣớc Viên năm 1980
(CISG) về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ
mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý nhƣ sau:

5


Thứ nhất, Việt Nam vẫn cần tăng cƣờng tham gia vào các điều ƣớc quốc tế
đa phƣơng quan trọng trong lĩnh vực thƣơng mại. Công ƣớc Viên về mua bán hàng
hóa quốc tế là một trong số các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng quan trọng nhất mà
Việt Nam đƣợc khuyến nghị phê chuẩn trong thời gian sớm nhất có thể, và đã đƣợc
hiện thực hóa vào tháng 18/12/2015.
Thứ hai, khẳng định bản chất tiến bộ, dân chủ và ngày càng phù hợp với
thông lệ quốc tế của pháp luật dân sự Việt Nam điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế. Thông qua đó, đề cao vai trò của pháp luật điều chỉnh
các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, góp phần ổn định các quan hệ xã hội dân
sự, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nƣớc, đặc biệt là trong lĩnh thƣơng mại
quốc tế.
7.


Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận

văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng1: Tổng quan về công ƣớc viên 1980 và hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế theo quy định của công ƣớc.
Chƣơng 2: Nội dung nghĩa vụ của bên bán và bên mua trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện hợp đồng và bài học kinh nghiệm cho doanh
nghiệp Việt Nam.

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VÀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA CÔNG ƢỚC
1.1 CÔNG ƢỚC VIÊN 1980 VÀ VIỆC GIA NHẬP CỦA VIỆT NAM
1.1.1 Sơ lƣợc về lịch sử của Công ƣớc Viên 1980
Công ƣớc Viên 1980 đƣợc soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật
thƣơng mại quốc tế (UNCITRAL) trong một nỗ lực hƣớng tới việc thống nhất
nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Trên thực tế, từ những năm 30 của thế kỷ XX, Viện nghiên cứu quốc tế và
thống nhất luật tƣ (Unidroit) đã khởi xƣớng định hƣớng thống nhất nguồn luật áp
dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Unidroit đã cho ra đời hai Công ƣớc
La Haye năm 1964 là: Công ƣớc “Luật thống nhất về thiết lập hợp đồng mua bán
quốc tế các động sản hữu hình”, điều chỉnh việc hình thành hợp đồng (bao gồm
chào hàng và chấp nhận chào hàng) và Công ƣớc “Luật thống nhất cho mua bán
quốc tế các động sản hữu hình”, điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của ngƣời bán, ngƣời

mua và các biện pháp đƣợc áp dụng khi một trong các bên hoặc các bên vi phạm
hợp đồng.
Tuy nhiên, hai Công ƣớc này đều ít đƣợc áp dụng. Trên cơ sở yêu cầu của các
thành viên Liên hợp quốc về một khuôn khổ mới với “sự mở rộng ra các nƣớc có
nền pháp lý, kinh tế, chính trị khác nhau”, năm 1968 UNCITRAL đã khởi xƣớng
việc soạn thảo một Công ƣớc thống nhất pháp luật về nội dụng áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế hai công ƣớc La Haye, đánh dấu
bƣớc khởi đầu cho sự ra đời của Công ƣớc Viên 1980. Công ƣớc Viên 1980 đƣợc
soạn thảo trên cơ sở đổi mới và hoàn thiện các điều khoản của hai Công ƣớc La
Haye, đƣợc thông qua tại Viên (Áo) ngày 11/04/1980 tại hội nghị của Ủy ban Liên
Hợp quốc về Luật thƣơng mại quốc tế với sự có mặt của khoảng 60 quốc gia và 8 tổ

7


chức quốc tế. Công ƣớc Viên 1980 có hiệu lực từ ngày 01/01/1988 sau khi đã có 10
quốc gia phê chuẩn theo quy định tại điều 99 của Công ƣớc.
1.1.2 Những nội dung cơ bản của Công ƣớc Viên 1980
Toàn văn Công ƣớc Viên 1980 gồm 101 Điều, đƣợc chia làm 4 phần với các
nội dung chính sau:
Phần 1: Bao gồm phạm vi áp dụng và các quy định chung (từ điều 1đến điều 13)
Phần I đƣợc chia làm hai chƣơng quy định trong đó:
Chƣơng 1: Phạm vi áp dụng, quy định về các trƣờng hợp đƣợc áp dụng hoặc
không áp dụng CISG (từ điều 1 đến điều 6).
Chƣơng 2: Các quy định chung, quy định các nguyên tắc trong việc áp dụng
CISG, nguyên tắc diễn giải các tuyên bố, hành vi xử sự của các bên, nguyên tắc tự
do về hình thức hợp đồng.
Phần I cũng nhấn mạnh đến giá trị tập quán trong các giao dịch mua bán hàng
hóa quốc tế.
Phần 2: Ký kết hợp đồng (từ điều 14 đến điều 24)

Chỉ với 11 điều khoản, Công ƣớc đã quy định tƣơng đối đầy đủ, chi tiết những
vấn đề pháp lý có thể xảy ra trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Ở điều 14, Công ƣớc nêu định nghĩa chào hàng, đặc điểm của chào hàng và
phân biệt nó với các “lời mời chào hàng”. Tiếp theo đó, CISG quy định các vấn đề
về hiệu lực, thu hồi và hủy bỏ chào hàng tại các điều 15, 16, 17. Từ điều 18 đến
điều 21, CISG quy định chi tiết về phƣơng thức để một chấp nhận chào hàng hợp
pháp (về nội dung, thời điểm, điều kiện để chấp nhận chào hàng có hiệu lực) cùng
với chào hàng cấu thành hợp đồng, ngoài ra công ƣớc còn quy định thời hạn để
chấp nhận, chấp nhận muộn, kéo dài thời hạn chấp nhận, địa điểm hợp đồng có
hiệu lực và thu hồi chấp nhận chào hàng.

8


Về vấn đề xác lập hợp đồng mua bán, CISG thừa nhận Quy tắc chào hàng –
chấp nhận chào hàng (offer - acceptance Rule). Theo công ƣớc, một thƣ chào hàng
phải đƣợc gửi đến một hay một số ngƣời cụ thể, trong đó xác định và miêu tả đầy
đủ về hàng hóa, số lƣợng, và giá cả. Chào hàng chỉ có thể đƣợc thu hồi nếu nhƣ thƣ
chào hàng đến trƣớc hoặc cùng lúc với thƣ chào hàng, hoặc trƣớc khi khách hàng
gửi lại thƣ chấp thuận. Bất kỳ sự thay đổi nào với thƣ chào hàng ban đầu đều đƣợc
xem nhƣ sự từ chối thƣ chào hàng trừ phi các điều khoản sửa chữa không làm thay
đổi những điều khoản thiết yếu của thƣ chào hàng. Trong đó những nội dung cơ
bản, thiết yếu của chào hàng bao gồm: các điều kiện giá cả, thanh toán, phẩm chất
và số lƣợng hàng hóa, địa điểm và thời hạn giao hàng, phạm vi trách nhiệm của các
bên, và phƣơng thức giải quyết tranh chấp.
Phần III: Mua bán hàng hóa (từ điều 25 đến điều 88)
Nội dung của phần 3 bao gồm các vấn đề pháp lý trong quá trình thực hiện
hợp đồng với các nội dung đƣợc chia làm 5 chƣơng cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng I: Những quy định chung
Chƣơng II: Nghĩa vụ của ngƣời bán

Chƣơng III: Nghĩa vụ của ngƣời mua
Chƣơng IV: Chuyển rủi ro
Chƣơng V: Các điều khoản chung về nghĩa vụ của ngƣời bán và ngƣời mua
Với tổng cộng 64 điều khoản, đây là chƣơng có số lƣợng điều khoản lớn nhất,
cũng là chƣơng chứa đựng những quy phạm hiện đại, cốt lõi mang tính ƣu việt của
CISG. Nội dung nghĩa vụ của ngƣời bán và ngƣời mua đƣợc quy định chi tiết trong
hai chƣơng riêng, giúp cho việc đọc và tra cứu của các thƣơng nhân trở nên dễ
dàng.
Về nghĩa vụ của ngƣời bán, Công ƣớc quy định rất rõ trong 23 điều, bao gồm
các nội dung: nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng từ, đặc biệt là nghĩa vụ đảm
bảo tính phù hợp của hàng hóa đƣợc giao (về mặt thực tế cũng nhƣ về mặt pháp lý),

9


bên cạnh đó còn dành riêng một mục quy định về các biện pháp bảo hộ hợp lý trong
trƣờng hợp ngƣời bán vi phạm hợp đồng. Công ƣớc nhấn mạnh đến việc kiểm tra
hàng hóa đƣợc giao (thời hạn kiểm tra, thời hạn thông báo các khiếm khuyết của
hàng hóa). Những quy định này rất phù hợp với thực tiễn và đã góp phần giải quyết
có hiệu quả các tranh chấp phát sinh có liên quan.
Chƣơng nghĩa vụ của ngƣời mua, gồm 18 điều (từ điều 53 đến điều 60) quy
định nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ nhận hàng.
Công ƣớc Viên 1980 không có một chƣơng riêng về vi phạm hợp đồng và chế
tài do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên các nội dung này đƣợc lồng ghép trong chƣơng
II, chƣơng III và chƣơng V. Trong chƣơng II và chƣơng III, sau khi nêu các nghĩa
vụ của ngƣời bán và ngƣời mua, Công ƣớc Viên 1980 đề cập đến các biện pháp bảo
hộ pháp lý trong trƣờng hợp ngƣời bán, ngƣời mua vi phạm hợp đồng. Điều này đã
nhấn mạnh nguyên tắc bình đẳng giữa ngƣời bán và ngƣời mua trong CISG. Các
biện pháp mà Công ƣớc cho phép ngƣời bán và ngƣời mua áp dụng khi một bên vi
phạm hợp đồng bao gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng, đòi bồi thƣờng thiệt hại,

hủy hợp đồng. Ngoài ra còn có một số biện pháp không có tính chất chế tài hoặc
nhằm mục đích trừng phạt bên vi phạm, mà mang mục đích giảm thiểu hậu quả của
hành vi vi phạm, ví dụ: biện pháp giảm giá (Điều 50); biện pháp bên bị vi phạm gia
hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ để tạo điều kiện cho bên vi phạm tiếp tục thực hiện
hợp đồng (Điều 47 khoản 1 và Điều 63 khoản 1); hay những biện pháp mà bên vi
phạm có thể đƣa ra nhằm khắc phục những thiệt hại do hành vi vi phạm của mình
gây ra (Điều 48 khoản 1). Công ƣớc cũng quy định rõ trƣờng hợp áp dụng các biện
pháp cụ thể (ví dụ biện pháp hủy hợp đồng hay đòi thay thế hàng chỉ đƣợc áp dụng
trong trƣờng hợp vi phạm cơ bản - tại Điều 25).
Chƣơng V của Phần 3 quy định về vấn đề tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng, vi phạm trƣớc hợp đồng, việc áp dụng các biện pháp pháp lý trong trƣờng
hợp giao hàng từng phần, hủy hợp đồng khi chƣa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ.
Các Điều 74, 75, 76, 77, 78 của CISG là những điều khoản đƣợc dẫn chiếu đến rất

10


nhiều trong các án lệ áp dụng CISG, vì các điều khoản này quy định rất chi tiết về
một biện pháp đƣợc áp dụng phổ biến nhất trong giải quyết tranh chấp về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế: đó là tính toán tiền bồi thƣờng thiệt hại. Các điều khoản
khác trong chƣơng này đề cập đến vấn đề miễn trách, hậu quả của việc hủy hợp
đồng và bảo quản hàng hóa trong trƣờng hợp có tranh chấp.
Phần IV: Những quy định cuối cùng (từ điều 89 đến điều 101)
Phần IV quy định về các thủ tục để các quốc gia ký kết, phê chuẩn, gia nhập
Công ƣớc, các bảo lƣu có thể áp dụng, thời điểm Công ƣớc có hiệu lực và một số
vấn đề khác mang tính chất thủ tục khi tham gia hay từ bỏ Công ƣớc này.
1.1.3. Thành công của Công ƣớc Viên 1980
Kể từ khi có hiệu lực đến nay, CISG đã trở thành một trong các công ƣớc quốc
tế về thƣơng mại đƣợc phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất. Trong phạm vi hẹp hơn,
so với các công ƣớc đa phƣơng khác về mua bán hàng hóa (nhƣ các công ƣớc La

Haye 1964), nhƣng CISG có quy mô lớn hơn hẳn về số quốc gia tham gia và mức
độ đƣợc áp dụng. Cho đến nay, với 85 quốc gia thành viên, ƣớc tính Công ƣớc này
điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tƣ thƣơng mại hàng hóa thế giới. Trong
danh sách 85 quốc gia thành viên của Công ƣớc Viên 1980, có sự góp mặt của các
quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau, các quốc gia phát triển cũng nhƣ
các quốc gia đang phát triển, các quốc gia tƣ bản chủ nghĩa cũng nhƣ các quốc gia
theo đƣờng lối xã hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục. Hầu hết các cƣờng quốc về
kinh tế trên thế giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản…) đều đã
tham gia CISG.
Sự thành công của Công ƣớc Viên 1980 đƣợc khẳng định trong thực tiễn với
hơn 2500 vụ tranh chấp – phát sinh ở những quốc gia thành viên và cả những quốc
gia không là thành viên của Công ƣớc Viên 1980 - đã đƣợc Tòa án và trọng tài các
nƣớc, quốc tế giải quyết có liên quan đến việc áp dụng và diễn giải CISG. Nhiều
doanh nhân tại các quốc gia chƣa phải là thành viên CISG đã tự nguyện áp dụng

11


CISG cho các giao dịch thƣơng mại quốc tế của mình, bởi vì họ thấy đƣợc những
ƣu việt của CISG so với luật quốc gia.
Chính vì khả năng ứng dụng rộng rãi ấy, CISG đã trở thành nguồn tham khảo
quan trọng của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thƣơng mại quốc tế (PICC)
và Các nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL). Trên cơ sở nền tảng của
CISG, các nguyên tắc này đã trở thành các văn bản thống nhất luật quan trọng về
hợp đồng, đƣợc nhiều quốc gia và doanh nhân tham khảo và sử dụng trong các giao
dịch thƣơng mại quốc tế.
Năm 2008 đánh dấu sự thành công mới của Công ƣớc Viên 1980 tại Châu Á,
khi mà Nhật Bản tham gia Công ƣớc này. Với ảnh hƣởng mạnh mẽ và rộng lớn về
thƣơng mại hàng hóa của Nhật Bản ở Châu Á và trên thế giới, các chuyên gia dự
báo việc Nhật Bản - nền kinh tế hùng mạnh nhất Châu Á gia nhập Công ƣớc Viên

1980 sẽ kéo theo nhiều hồ sơ gia nhập hay phê chuẩn từ các quốc gia khác, đặc biệt
là các quốc gia Châu Á.
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập để trở
thành thành viên thứ 84 của CISG. Trong khối ASEAN, Việt Nam là thành viên thứ
2 sau Singapore gia nhập Công ƣớc quan trọng này.
Để Công ƣớc Viên 1980 có thành công nhƣ hiện tại phụ thuộc vào các nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, CISG được soạn thảo và thực thi dưới sự bảo trợ của Liên Hợp
Quốc- tổ chức quốc tế liên chính phủ lớn nhất hành tinh.
Đƣợc Liên Hợp Quốc bảo trợ soạn thảo và thực thi, CISG không chỉ tạo đƣợc
sự tin cậy từ phía các quốc gia (trong quá trình soạn thảo) mà còn nhận đƣợc sự tin
tƣởng từ đông đảo doanh nghiệp (trong quá trình thực thi). Đây là yếu tố rất cần
thiết đối với một văn bản nhất thể hóa pháp luật về một vấn đề quan trọng và vốn có
nhiều khác biệt giữa các quốc gia, chủ thể có tập quán khác nhau.

12


Thứ hai, cách thức soạn thảo CISG cho thấy những nỗ lực thực sự trong việc
tạo ra các quy phạm thực chất thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế.
Đại diện của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau (Dân luật,
Thông luật - đặc biệt là đại diện của Hoa Kỳ và Anh), tại các châu lục khác nhau, có
chế độ kinh tế - chính trị khác nhau (các nƣớc xã hội chủ nghĩa và tƣ bản chủ nghĩa,
các nƣớc phát triển và các nƣớc đang phát triển) đã đƣợc mời tham gia vào việc
soạn thảo các điều khoản của Công ƣớc này. Mỗi quy định trong văn bản cuối cùng
đều là kết quả của quá trình thảo luận chi tiết, với việc xem xét đầy đủ và hợp lý các
yêu cầu, tập quán thƣơng mại của các bên. Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo
Công ƣớc cũng nhƣ ngay trong nội dung Công ƣớc, các đại diện luôn nêu cao tinh
thần quốc tế của Công ƣớc và vì thế, cố gắng dùng ngôn ngữ trung tính, đơn giản,
tránh sử dụng các khái niệm riêng của từng hệ thống luật của các quốc gia. Để tránh

tối đa việc tham chiếu luật pháp quốc gia, ngay trong Điều 7 của Công ƣớc cũng
đƣa yêu cầu việc diễn giải và áp dụng CISG phải cân nhắc tính chất quốc tế của nó
và yêu cầu thúc đẩy sự thống nhất hóa trong việc diễn giải Công ƣớc và tuân thủ
nguyên tắc “thiện chí” trong thƣơng mại quốc tế.
Vì vậy, các điều khoản của CISG đã thể hiện đƣợc sự thống nhất, hài hòa các
quy phạm khác nhau trong pháp luật của các quốc gia tham gia soạn thảo, phản ánh
đƣợc mối quan tâm chung của các quốc gia này.
Thứ ba, nội dung của Công ước được đánh giá là hiện đại, linh hoạt, phù hợp
với thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế.
Nhìn chung, CISG là tập hợp các quy phạm khá hiện đại, thể hiện đƣợc sự
bình đẳng giữa bên mua và bên bán trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Sự
phù hợp với thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế đƣợc sinh ra do CISG đƣợc soạn
thảo dựa trên một nguồn luật quan trọng là các tập quán thƣơng mại quốc tế, trong
đó có các Incoterms của ICC.
Tính linh hoạt cũng là một trong yếu tố quan trọng tạo nên sự thành công của
CISG. Trƣớc tiên, sự linh hoạt này thể hiện ở quy định tại Điều 6 CISG, theo đó,

13


hầu hết các điều khoản của CISG đều là các điều khoản tùy nghi, nghĩa là các bên
trong hợp đồng có thể thỏa thuận khác so với các quy định tại các điều khoản đó.
Hơn nữa, Điều 6 cũng cho phép các bên lựa chọn có hoặc không lựa chọn Công ƣớc
làm nguồn luật điều chỉnh cho hợp đồng của mình, ngay cả khi các bên là doanh
nghiệp tại các quốc gia thành viên của Công ƣớc. Chính quy định mở này tạo điều
kiện để các thƣơng nhân có tâm lý thoải mái, tự do trong việc thỏa thuận các nội
dung của hợp đồng cũng nhƣ tự do chọn lựa cho hợp đồng một nguồn luật áp dụng
phù hợp trong trƣờng hợp họ thấy rằng một số các quy định của CISG là chƣa phù
hợp đối với họ (ví dụ trong những lĩnh vực đặc thù, đối với những hàng hóa đặc
thù). Ngoài ra, nhiều điều khoản cụ thể của Công ƣớc cũng có cách tiếp cận rất linh

hoạt để phù hợp với thực tiễn rất phong phú về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Thứ tư, CISG có được sự ủng hộ rất lớn từ phía các trọng tài quốc tế và
của ICC.
Sự ủng hộ của các trọng tài quốc tế đối với CISG trong nhiều vụ tranh chấp về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đƣợc thể hiện chủ yếu thông qua việc dẫn
chiếu CISG nhƣ một lựa chọn ƣu tiên cho việc giải quyết các tranh chấp này khi các
bên không lựa chọn luật áp dụng. Sự ủng hộ này của các trọng tài quốc tế khiến cho
việc áp dụng Công ƣớc ngày càng rộng rãi hơn, đặc biệt khi mà phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng phố biến hơn.
ICC thể hiện sự ủng hộ của mình đối với văn bản thống nhất luật này bằng
việc đƣa CISG vào điều khoản luật áp dụng mẫu có trong Hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế mẫu của ICC. Nhờ việc dẫn chiếu đến CISG mà khi soạn thảo hợp
đồng, các bên chỉ cần thống nhất các nội dung tại phần “Những điều khoản riêng”
(Specific Conditions), bao gồm các vấn đề liên quan trực tiếp đến từng giao dịch
mua bán cụ thể (hàng hóa, giá cả, điều kiện giao hàng, phƣơng thức thanh toán, các
chứng từ cần cung cấp) và một số vấn đề mà CISG chƣa đề cập tới (nhƣ điều khoản
phạt vi phạm hợp đồng, điều khoản quy định giới hạn trách nhiệm của các bên, điều
khoản quy định về thời hiệu hay dự kiến một nguồn luật bổ sung cho CISG đối với

14


những vấn đề không nằm trong phạm vi điều chỉnh của CISG). Mục đích của Hợp
đồng mẫu của ICC là đơn giản hóa quá trình soạn thảo hợp đồng cũng nhƣ giải
quyết các tranh chấp liên quan. Hợp đồng mẫu này cung cấp một khung pháp lý có
thể áp dụng đối với mọi giao dịch mua bán hàng hóa, đặc biệt là các hàng hóa đƣợc
sản xuất nhằm mục đích bán lại. Vì thế các văn phòng tƣ vấn luật và các luật
chuyên gia pháp lý trong các doanh nghiệp đều có mẫu hợp đồng này của ICC để
tham khảo và tƣ vấn cho doanh nghiệp. Điều này là một yếu tố quan trọng góp phần
thúc đẩy việc áp dụng CISG tại các doanh nghiệp.

1.1.4. Ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập công ƣớc Viên
Theo Trung tâm thƣơng mại trọng tài quốc tế, trong số 500 vụ kiện mà Trung
tâm này thụ lý thì đã có tới 80% số vụ có yếu tố nƣớc ngoài. Bất cập ở chỗ: doanh
nghiệp nƣớc ngoài luôn muốn áp dụng luật nƣớc ngoài trong hợp đồng giao dịch,
còn doanh nghiệp Việt Nam dù không muốn vẫn phải chấp thuận các điều khoản
của đối tác đƣa ra.
Sự khác biệt này có thể giải quyết đƣợc khi cả hai bên đều tham gia CISG.
Năm 2009, một trong những bạn hàng lớn nhất của Việt Nam là Nhật Bản đã
tham gia Công ƣớc Vienna. Không chỉ Nhật Bản, các đối tác khác nhƣ Singapore,
Trung Quốc, nhiều nƣớc EU, Mỹ… đều đã tham gia công ƣớc Vienna. Đây là lý do
Luật sƣ Trần Hữu Huỳnh, Trƣởng ban Pháp chế, Phòng thƣơng mại và công nghiệp
Việt Nam (VCCI), cho rằng việc gia nhập Công ƣớc Viên càng cần thiết hơn nữa
với Việt Nam, để có đƣợc tiếng nói chung trong các hợp đồng xuất nhập khẩu quốc
tế.
Một số chuyên gia đánh giá, áp dụng CISG còn giúp doanh nghiệp tiết kiệm
đáng kể khoản chi phí quản lý hợp đồng. Bởi không ít doanh nghiệp Việt Nam có
nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa nhỏ với những đối tác khác nhau. Điển hình nhƣ
đối với DN ngành gỗ, doanh nghiệp có hợp đồng nhỏ nhƣng cùng lúc bán đi khoảng
10 thị trƣờng và việc quản lý thực hiện hợp đồng mỗi cái một kiểu rất khó khăn.

15


Với việc áp dụng CISG, những điều khoản hợp đồng sẽ tƣơng tự nhau giúp đơn
giản hóa khâu quản lý.
Việc tham gia CISG sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Theo đó, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm chi phí, tránh đƣợc các tranh chấp trong
hợp đồng mua bán quốc tế. Bởi CISG xây dựng khung pháp lý thống nhất, đƣợc áp
dụng tự động cho các thành viên tham gia nhƣ thời gian giao hàng, thời điểm hợp
đồng có hiệu lực. "Điều này sẽ hạn chế đƣợc gần nhƣ mọi rủi ro cho các doanh

nghiệp Việt Nam vốn không hiểu nhiều về luật của thị trƣờng xuất khẩu và luôn phụ
thuộc trong hợp đồng". Đặc biệt, CISG là điều kiện giúp giải quyết tranh chấp trong
các hợp đồng mua bán quốc tế thuận lợi hơn. Khung pháp lý hiện đại, công bằng
cũng là chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp đƣợc cạnh tranh công bằng hơn trên
trƣờng quốc tế.
Tuy nhiên trên thực tế, CISG chính thức có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày
01/01/2017, nhƣng các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam biết rất ít về CISG.
Nhƣ chia sẻ của ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản
Việt Nam, các doanh nghiệp gỗ không hề biết về CISG. Dù xuất khẩu sang 120
nƣớc nhƣng các hợp đồng xuất khẩu của doanh nghiệp thuộc Hiệp hội đều theo
ngƣời mua, đồng nghĩa với việc doanh nghiệp vẫn phải chịu lép vế trong giao dịch.
Vì vậy tham gia CISG không chỉ giúp thống nhất hệ thống pháp luật về mua
bán hàng hóa quốc tế giữa Việt Nam với nhiều nƣớc trên thế giới, mà còn đánh dấu
mốc mới trong quá trình tham gia các điều ƣớc quốc tế đa phƣơng về thƣơng mại,
tăng cƣờng mức độ hội nhập của Việt Nam.
1.1.5. Lợi ích của việc gia nhập CISG đối với các doanh nghiệp Việt Nam
1.1.5.1. Những khó khăn mà doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi Việt Nam chưa
phải thành viên của CISG
Thứ nhất, với việc chọn luật áp dụng. Khi Việt Nam chƣa phải là thành viên
chính thức của CISG, thì doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thể cùng đối tác nƣớc
ngoài lựa chọn CISG làm luật điều chỉnh hợp đồng. Tuy nhiên, phần lớn doanh

16


nghiệp Việt Nam chƣa biết đến CISG để cân nhắc việc chọn CISG làm luật điều
chỉnh cho hợp đồng của mình do đó chỉ đàm phán sử dụng luật quốc gia, trên thực
tế, gần nhƣ chƣa có trƣờng hợp nào đƣợc ghi nhận về việc áp dụng CISG làm luật
điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trong đó có một bên là doanh
nghiệp Việt Nam. Trong quá trình đàm phán, các bên tham gia hợp đồng thƣờng lựa

chọn nguồn luật có lợi nhất, và quen thuộc nhất đối với mình nên thƣờng khó chọn
ra luật quốc gia đƣợc áp dụng và thƣờng chọn luật của một quốc gia thứ ba.
Thứ hai, sự bị động khi các bên trong hợp đồng không lựa chọn luật áp dụng.
Các số liệu thực tiễn cho thấy, không nhiều doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến
việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng khi ký kết chúng, dẫn tới trƣờng hợp khi
có tranh chấp xảy ra, các doanh nghiệp lúng túng không biết sử dụng luật nào để
giải quyết. Mặt khác do trƣớc đây Việt Nam chƣa tham gia CISG dẫn tới hệ quả là
cơ quan tài phán sẽ lựa chọn một nguồn luật áp dụng theo kinh nghiệm xét xử của
họ. Khi đó, doanh nghiệp Việt Nam sẽ rơi vào thế bị động khi phải ứng phó với
nguồn luật mình không dự đoán đƣợc trƣớc.
Thứ ba, sự bị động khi cơ quan tài phán lựa chọn áp dụng CISG. Khi chƣa là
thành viên CISG, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều không biết đến nguồn
luật này. Trong khi đó, CISG cho phép cơ quan tài phán sử dụng làm nguồn luật áp
dụng khi tranh chấp xảy ra với một bên là thành viên CISG. Do đó, nếu cơ quan tài
phán sử dụng CISG, mà doanh nghiệp Việt Nam lại chƣa có ý thức tìm hiểu về
CISG thì sẽ bị động trong quá trình tham gia giải quyết tranh chấp.
1.1.5.2. Những lợi ích mà doanh nghiệp Việt Nam nhận được sau khi Việt Nam
là thành viên chính thức của CISG
Hiện tại, Việt Nam đã là thành viên chính thức của Công ƣớc Viên 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, do đó theo nguyên tắc của CISG, thì CISG sẽ
đƣợc tự động đối với các hợp đồng giữa doanh nghiệp Việt Nam với đối tác nƣớc
ngoài thuộc các quốc gia thành viên của CISG. Từ đó, tạo nên những lợi ích không
nhỏ cho doanh nghiệp Việt Nam nhƣ:

17


Thứ nhất, giúp cho doanh nghiệp Việt Nam tiết kiệm đƣợc chi phí và tránh
đƣợc các tranh chấp trong việc lựa chọn luật áp dụng hợp đồng. Nhƣ đã phân tích ở
trên, Công ƣớc này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có

trụ sở thƣơng mại tại các quốc gia khác nhau là thành viên của Công ƣớc hoặc khi
theo quy tắc tƣ pháp quốc tế thì luật đƣợc áp dụng là luật của nƣớc thành viên Công
ƣớc này (theo khoản 1 điều 1 CISG). Có nghĩa là, hiện tại với tƣ cách là thƣơng
nhân Việt Nam – một quốc gia thành viên của CISG, thƣơng nhân Việt Nam và đối
tác của họ thuộc 84 quốc gia thành viên còn lại sẽ có một khung pháp lý thống nhất,
đƣợc áp dụng tự động cho hợp đồng của mình. Nhờ vậy, trong quá trình thực hiện
hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ giảm bớt đƣợc
vấn đề lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng – một vấn đề vô cùng nan giải và gây
tranh cãi trong quá trình đàm phán hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Từ đó, các
doanh nghiệp Việt Nam sẽ thu đƣợc những lợi ích sau: Một là, giảm bớt chi phí và
thời gian đàm phán, mà tự động thống nhất áp dụng CISG cho hợp đồng. Đây là lợi
ích lớn nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên thực hiện hợp đồng, nếu không có
thỏa thuận gì về luật áp dụng thì CISG sẽ đƣợc áp dụng tự động. Hai là, giảm bớt
các chi phí phát sinh hoặc những vấn đền khó khăn có thể xảy ra nếu áp dụng luật
nƣớc ngoài. Nếu không có CISG, doanh nghiệp có thể sẽ phải tìm hiểu luật pháp
của rất nhiều quốc gia khác, các chi phí để tìm hiểu, thuê luật sƣ tƣ vấn cũng tăng
theo số quốc gia của đối tác nƣớc ngoài. Trong khi đó, Công ƣớc Viên 1980 là
nguồn luật áp dụng chung cho hơn 85 quốc gia thành viên, mức ảnh hƣởng rộng
khắp trên toàn thế giới, đặc biệt là các quốc gia tiên tiến có nền kinh tế phát triển,
khi tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa với những đối tác thuộc các quốc gia này,
các doanh nghiệp sẽ chỉ phải tìm hiểu CISG. Ba là, quy phạm xung đột thƣờng khác
nhau ở các quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, do đó nếu buộc cơ quan tài phán
chọn nguồn luật dẫn chiếu đến quy phạm pháp luật xung đột nhằm giải quyết vụ
việc tranh chấp, thì có thể tạo ra những tình huống khó lƣờng trƣớc cho doanh
nghiệp. Việc tham gia Công ƣớc Viên 1980 giúp các doanh nghiệp tránh phải sử

18


dụng đến quy phạm xung đột trong tƣ pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho

hợp đồng.
Một điểm đặc biệt ở CISG là, CISG có tính “mở” đối với các doanh nghiệp
thuộc các quốc gia thành viên. Nghĩa là các doanh nghiệp thuộc các quốc gia thành
viên không bị bắt buộc sử dụng CISG làm nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế của mình, mà có thể dùng nguồn luật khác. Vì vậy có thể nói việc
gia nhập CISG sẽ tạo một “bệ đỡ pháp lý” an toàn, thuận tiện cho các doanh nghiệp
Việt Nam khi tham gia vào các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế ngay cả khi họ
không chọn luật áp dụng khi ký kết hợp đồng.
Ngoài ra, những lợi ích trên có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh quốc tế. Những
doanh nghiệp này ít có điều kiện tiếp cận các dịch vụ tƣ vấn pháp lý cũng nhƣ ít có
thế và lực trong vấn đề đàm phán lựa chọn luật áp dụng, vì thế thƣờng gặp nhiều rủi
ro pháp lý liên quan đến vấn đề này[3]. Nhất là đối với một quốc gia có tới hơn
90% doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ nhƣ Việt Nam thì ý nghĩa này càng thêm
quan trọng.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có đƣợc một khung pháp lý hiện đại, công
bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có căn cứ hợp
lý để giải quyết tranh chấp nếu phát sinh, từ đó có điều kiện cạnh tranh công bằng
hơn trên trƣờng quốc tế. Nhƣ những phân tích ở những phần trƣớc về nội dung cơ
bản của Công ƣớc Viên 1980 thì công ƣớc Viên bao hàm hầu hết mọi vấn đề pháp
lý có thể phát sinh trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế, nhƣ: giá trị pháp lý, phƣơng thức, hiệu lực, thời hạn chào hàng và chấp
nhận chào hàng; quyền và nghĩa vụ của ngƣời bán, ngƣời mua; các biện pháp chế
tài, các biện pháp giảm thiểu rủi ro,...
Nếu có một cơ sở pháp lý chung, các bên sẽ dễ có những nhận thức chung tạo
nên cách đánh giá các điều kiện, đánh giá hàng hóa, xác định rủi ro và mức độ chặt
chẽ nghiêm ngặt của hợp đồng hơn. Điều này làm tăng khả năng cạnh tranh của các

19



doanh nghiệp, tăng hiệu quả hoạt động và sự tin cậy giữa các bên trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, theo đánh giá của các chuyên gia, các điều khoản của
Công ƣớc Viên 1980 đã tạo đƣợc vị thế cân bằng trong mối quan hệ giữa ngƣời bán
và ngƣời mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, giúp các bên bảo vệ tối đa
quyền và lợi ích hợp pháp, hợp lý của mình khi giao kết, thực hiện hợp đồng. Mặt
khác, Công ƣớc Viên 1980 cũng không phân biệt các quốc gia về chế độ phát triển
kinh tế, truyền thống,.... trở thành một khung kháp lý hữu hiệu, an toàn để giải
quyết các tranh chấp phát sinh nếu có.
Thứ ba, bởi sự gia nhập Công ƣớc Viên 1980, Việt Nam sẽ có nguồn luật
thống nhất với các nƣớc đối tác khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Từ
đó giúp các doanh nghiệp VIệt Nam tránh đƣợc những tranh chấp phát sinh trong
kinh doanh quốc tế. Khi có một khung pháp lý chung, các doanh nghiệp Việt Nam
và các doanh nghiệp nƣớc ngoài sẽ có cùng chung “tiếng nói” và các mối quan hệ
mua bán hàng hóa sẽ ngày càng đƣợc thắt chặt, gắn bó, và mở rộng hơn nữa.
1.2. HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA
CÔNG ƢỚC VIÊN 1980
1.2.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Mua bán hàng hoá là hoạt động thƣơng mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa
thuận. Bên cạnh đó, về mặt pháp lý nhìn chung hợp đồng là một hành vi pháp lý thể
hiện ý chí của các bên từ đó làm phát sinh hệ quả pháp lý, trong đó các bên xác lập
hợp đồng dựa theo ý chí tự do thỏa thuận của mình thống nhất các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong hợp đồng.
Theo công ƣớc La Haye 1964 về mua bán quốc tế những bất động sản hữu
hình thì: hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là tất cả các hợp đồng mua bán trong
đó các bên ký kết có trụ sở thƣơng mại ở các nƣớc khác nhau và hàng hóa đƣợc

20



chuyển từ nƣớc này sang nƣớc khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết hợp đồng giữa
các bên ký kết đƣợc lập ở những nƣớc khác nhau.
Luật Thƣơng mại 2005 đã định nghĩa về mua bán hàng hóa quốc tế nhƣ sau:
1. Mua bán hàng hoá quốc tế đƣợc thực hiện dƣới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.
2. Mua bán hàng hoá quốc tế phải đƣợc thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng
văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng.
Theo Công ƣớc Viên 1980, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thƣơng mại đặt ở các nƣớc khác nhau.
Việc trao đổi hàng hóa là nhằm mục đích sinh lợi nhuận.
So với hợp đồng mua bán trong nƣớc, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có
những đặc điểm sau đây:
Về chủ thể: Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên, ngƣời
bán và ngƣời mua, có trụ sở thƣơng mại đặt ở các nƣớc khác nhau. Trong đó, theo
Luật thƣơng mại 2005, để trở thành thƣơng nhân các cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, pháp nhân tổ hợp tác, hộ gia đình có đủ điều
kiện để kinh doanh thƣơng mại theo quy định của pháp luật nếu có yêu cầu hoạt
động thƣơng mại thì cơ quan nhà nƣớc có toàn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và trở thành thƣơng nhân (Điều 20)
Về đối tƣợng của hợp đồng: Hàng hoá là đối tƣợng của hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của một nƣớc,
hoặc giai đoạn chào hàng và chấp nhận chào hàng có thể đƣợc thiết lập ở các nƣớc
khác nhau.
Về đồng tiền thanh toán: Tiền tệ dùng để thanh toán thƣờng là nội tệ hoặc có
thể là ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng đƣợc giao kết giữa ngƣời bán Việt
Nam và ngƣời mua Pháp, hai bên thoả thuận sử dụng đồng euro làm đồng tiền thanh
toán. Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía ngƣời bán Việt Nam nhƣng lại là


21


nội tệ đối với ngƣời mua Pháp. Tuy nhiên, cũng có trƣờng hợp đồng tiền thanh toán
đều là nội tệ của cả hai bên, nhƣ trƣờng hợp các doanh nghiệp thuộc các nƣớc trong
cộng đồng châu Âu sử dụng đồng Euro làm đồng tiền chung.
Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thƣờng đƣợc
ký kết bằng tiếng nƣớc ngoài, trong đó phần lớn là đƣợc ký bằng tiếng Anh. Điều
này đòi hỏi các bên phải giỏi ngoại ngữ.
Về luật điều chỉnh hợp đồng: Các bên chủ thể thuộc các quốc gia khác nhau
có thể tự thỏa thuận sử dụng luật quốc gia của một trong các bên chủ thể, hoặc luật
quốc tế, công ƣớc quốc tế,... với các điều khoản và bảo lƣu theo thỏa thuận.
1.2.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng là vấn đề mà các
doanh nghiệp Việt Nam cần đặc biệt chú ý.
Khi nói đến hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thƣờng có hai
quan điểm:
Quan điểm thứ nhất: hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể đƣợc ký kết
bằng lời nói, bằng văn bản, bằng hành vi hay bằng bất kỳ hình thức nào khác do các
bên tự do thoả thuận. Các nƣớc theo quan điểm này hầu hết là các nƣớc có nền kinh
tế thị trƣờng phát triển, nhƣ Anh, Pháp, Mỹ...
Quan điểm thứ hai: Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải đƣợc ký kết
dƣới hình thức văn bản. Những nƣớc nêu ra quan điểm này là một số nƣớc có nền
kinh tế đang chuyển đổi nhƣ Việt Nam. Điều 27 khoản 2 Luật Thƣơng mại Việt
Nam năm 2005 quy định: “Mua bán hàng hoá quốc tế phải đƣợc thực hiện trên cơ
sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng các hình thức có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng”.
Các hình thức có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng ở đây bao gồm điện báo, telex, fax,
thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật (điều 3 khoản
15 Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005).


22


Sự bất đồng quan điểm này làm cho Công ƣớc Viên năm 1980 về Hợp đồng
mua bán quốc tế hàng hoá phải lựa chọn sự dung hòa bằng cách đƣa vào Công ƣớc
những quy định theo hƣớng công nhận cả hai điều khoản liên quan đến hình thức
của hợp đồng. Điều 11 của Công ƣớc quy định rằng hợp đồng mua bán quốc tế hàng
hoá có thể đƣợc ký kết bằng lời nói và không cần thiết phải tuân thủ bất kỳ yêu cầu
nào khác về mặt hình thức của hợp đồng. Còn điều 96 thì lại cho phép các quốc gia
bảo lƣu, không áp dụng điều 11 trên nếu luật pháp của quốc gia đó quy định hình
thức văn bản là bắt buộc đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Vì vậy, doanh
nghiệp Việt Nam có quyền bảo lƣu không áp dụng điều 11 của Công ƣớc vì pháp
luật Việt Nam quy định hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải đƣợc ký kết bằng
văn bản.
Mặt khác, việc hợp đồng đƣợc ký kết bằng văn bản sẽ giúp các bên có đƣợc
bằng chứng đầy đủ khi phải ra tranh tụng trong trƣờng hợp có tranh chấp phát sinh.
Ký bằng văn bản sẽ tạo điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng
có hiệu quả hơn. Ngoài ra, ký hợp đồng bằng văn bản cũng tỏ rõ nhiều ƣu thế hơn
so với hình thức phi văn bản. Hợp đồng bằng văn bản sẽ là chứng cứ cụ thể, hợp
pháp, rõ ràng nhất khi các bên xảy ra tranh chấp.
1.2.3. Áp dụng Công ƣớc viên 1980 trong ký kết và thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế
1.2.3.1. Phạm vi áp dụng Công ước Viên 1980
Theo quy định tại khoản 1 điều 1 CISG thì, công ƣớc này áp dụng cho các hợp
đồng mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác
nhau, khi các quốc gia này là thành viên của công ƣớc; hoặc quy tắc tƣ pháp quốc tế
dẫn đến việc áp dụng luật của một nƣớc thành viên Công ƣớc này.
Với quy định này, việc áp dụng CISG căn cứ vào 2 trƣờng hợp:
- Trƣờng hợp thứ nhất, căn cứ vào trụ sở kinh doanh của các chủ thể


23


Khi trụ sở kinh doanh của các chủ thể đƣợc xác định đặt tại các quốc gia thành
viên của CISG thì công ƣớc sẽ đƣợc áp dụng. Tuy nhiên trên thực tế, có những
trƣờng hợp doanh nghiệp có nhiều trụ sở kinh doanh, hoặc không có trụ sở kinh
doanh. CISG đã dự liệu tới trƣờng hợp này và quy định giải quyết nhƣ sau: Nếu một
bên có hơn một trụ sở thƣơng mại trở lên thì trụ sở thƣơng mại của họ sẽ đƣợc coi
là trụ sở nào đó có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng và đối với việc thực
hiện hợp đồng đó, có tính tới những tình huống mà các bên đều biết hoặc đều dự
đoán đƣợc vào bất kỳ lúc nào trƣớc hoặc vào thời điểm hợp đồng; Nếu một bên
không có trụ sở thƣơng mại thì sẽ lấy nơi cƣ trú thƣờng xuyên của họ (điều 10), nếu
nơi cƣ trú thƣờng xuyên của các chủ thể thuộc quốc gia là thành viên của CISG thì
công ƣớc sẽ đƣợc áp dụng. Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp nếu một bên hoặc cả hai bên
trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế đều không có trụ sở kinh doanh,
mà nơi cƣ trú thƣờng xuyên đều không ở quốc gia là thành viên CISG thì Công ƣớc
sẽ không đƣợc tự động áp dụng. Công ƣớc chỉ có thể đƣợc áp dụng nếu các bên chủ
thể trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thỏa thuận sử dụng CISG
hoặc một trong hai bên chủ thể là thuộc quốc gia thành viên của CISG. Mặt khác, kể
cả hai bên chủ thể đều thuộc các quốc gia là thành viên của CISG nhƣng thỏa thuận
không sử dụng CISG làm nguồn luật điều chỉnh thì CISG sẽ không đƣợc áp dụng.
- Trƣờng hợp thứ hai, căn cứ vào quy tắc của tƣ pháp quốc tế về chọn luật
áp dụng.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 1 CISG thì khi áp dụng nguyên tắc tƣ
pháp quốc tế thì vấn đề dẫn chiếu luật áp dụng sẽ đƣợc đặt ra. Do đó nếu có sự xuất
hiện của một chủ thể thuộc quốc gia là thành viên CISG sẽ là cơ sở để quy phạm
xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng Công ƣớc Viên 1980.
Có thể thấy quy định của điểm b khoản 1 Điều 1 đã tạo ra hành lang pháp lí
khá rộng cho việc áp dụng Công ƣớc Viên 1980. Theo đó nếu có quy phạm xung
đột trong tƣ pháp quốc tế dẫn chiếu đến pháp luật của bất cứ nƣớc thành viên nào

đó của Công ƣớc Viên 1980 thì Công ƣớc sẽ đƣợc áp dụng.

24


Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong mua bán hàng hóa quốc tế còn xảy ra
trƣờng hợp cần xác định có áp dụng Công ƣớc Viên 1980 hay không khi các bên
hợp đồng đến từ các nƣớc thành viên Công ƣớc Viên 1980 nhƣng đã viện dẫn tới
việc áp dụng luật của nƣớc khác là thành viên Công ƣớc Viên 1980.
Ví dụ, trƣờng hợp tranh chấp đến từ một công ty của Canada và một công ty
của Italia năm 1991, trong hợp đồng, các bên thỏa thuận áp dụng luật Pháp đối với
các điều kiện bán hàng. Trong khi đó: CISG có hiệu lực ở Pháp và Italia từ ngày
01/01/1988; và có hiệu lực tại Canada vào ngày 01/05/1992. Trong vụ việc này, Hội
đồng trọng tài xét xử vụ việc này đã quyết định cùng với luật của Pháp, Công ƣớc
Viên 1980 cũng đƣợc áp dụng để xử lí tranh chấp này[7].
1.2.3.2. Phạm vi không áp dụng Công ước Viên 1980
Công ƣớc Viên 1980 đã liệt kê ra một số dấu hiệu cơ bản trong giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà không thuộc phạm vi áp dụng của công ƣớc đó
là:
Theo mục đích của hành vi mua bán hàng hóa
Mục đích của hành vi mua bán hàng hóa quốc tế theo công ƣớc Viên là mục
đích kinh doanh, sinh lời. Những giao dịch mua bán có tính chất quốc tế nhƣng chỉ
mang mục đích thỏa mãn nhu cầu, phục vụ nhu cầu cá nhân, gia đình sẽ không
thuộc phạm vi áp dụng của CISG, bởi đây là những giao dịch mang mục đích sinh
hoạt, không mang mục đích sinh lời.
Theo hình thức mua bán hàng hóa
Trong hoạt động trao đổi hàng hóa, thƣơng mại quốc tế, có rất nhiều hình thức
giao dịch mà các chủ thể có thể thực hiện nhằm đạt đƣợc mục đích của mình. Tuy
nhiên, với một số hình thức đặc biệt nhƣ đấu giá thì không nằm trong phạm vi áp
dụng của Công ƣớc Viên 1980.

Theo bản chất của việc mua bán hàng hóa

25


×