Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện gia viễn, tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 111 trang )

ĐINH THIẾT DŨNG

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH

ĐINH THIẾT DŨNG

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG KHI
NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH
ĐINH THIẾT DŨNG
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số



: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đinh Thiết Dũng


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khoá học,trong suốt hai năm qua (2015-2017), tôi đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy giáo, cô giáo tham gia giảng dạy,
công tác tại Viện Đại học Mở Hà Nội; đặc biệt, trong quá trình làm luận văn tốt
nghiệp, tôi đã nhận được sự chỉ bảo, góp ý tận tình của PGS.TS Trần Hữu Tráng,
Trưởng khoa Luật - Viện Đại học Mở Hà Nội.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Trần Hữu Tráng
cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo của Viện Đại học Mở Hà Nội; xin chân thành
cảm ơn các Thày, Cô giáo đã quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành
khóa học.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Đinh Thiết Dũng


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG

9

KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

1.1.

Một số khái niệm cơ bản về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

9

1.1.1. Khái niệm thu hồi đất

9

1.1.2. Khái niệm bồi thường

11

1.1.3. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất


14

1.2.

15

Các nguyên tắc trong pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất

1.3.

Nội dung pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

15

1.3.1. Các văn bản pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu

17

hồi đất
1.3.2. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

18

1.3.3. Điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

21

1.3.4. Trình tự, thủ tục khi thu hồi đất


29

1.3.5. Khiếu nại và cơ chế giải quyết khiếu nại trong bồi thường khi Nhà

33

nước thu hồi đất
1.4.

Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực thi pháp luật về bồi

36

thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.4.1. Yếu tố chính trị

36

1.4.2. Yếu tố pháp luật

38

1.4.3. Yếu tố kinh tế, văn hóa - xã hội

39

1.4.4. Yếu tố tổ chức quản lý

39


Chương 2: THỰC TIỄN BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

41

TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN GIA VIỄN, TỈNH NINH BÌNH

2.1.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

41
41


2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội

42

2.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội

45

2.2.

46

Các văn bản của tỉnh Ninh Bình về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất

2.3.

Thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên địa

55

bàn huyện Gia Viễn
2.3.1. Bộ máy thực hiện công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

55

trên địa bàn huyện Gia Viễn
2.3.2. Kết quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

56

trên địa bàn huyện Gia Viễntừ năm 2013 đến nay
2.3.3. Thực tiễn thực thi quy định pháp luật về bồi thường khi Nhà nước

60

đất qua một số trường hợp cụ thể
2.3.4. Những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật về bồi

66

thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tế huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình

Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VÀ NÂNG

78

CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BỒI
THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT

3.1.

Quan điểm hoàn thiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà

78

nước thu hồi đất
3.2.

Các giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật về bồi thường khi

79

nhà nước thu hồi đất
3.2.1. Nhóm giải pháp chung

79

3.2.2. Nhóm giải pháp cụ thể đối với huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình

86

KẾT LUẬN


95

TÀI LIỆU THAM KHẢO

97


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không gì
thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của
môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, nhân dân ta
đã tốn bao công sức và máu xương để khai thác, bồi bổ, cải tạo, bảo vệ từng tấc đất
cho Tổ quốc, mỗi "tấc đất" của dân tộc ta được ví như một "tấc vàng". Đối với văn
hóa chung của người Việt Nam, đất đai còn là nơi hương hỏa, nơi thờ tự của tổ tiên
và dòng họ. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là trong

quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, nhu cầu sử dụng quỹ đất
cho để xây dựng các dự án, công trình ngày càng nhiều dẫn đến quỹ đất chưa sử
dụng ngày càng ít, do đó Nhà nước ta phải thu hồi đất ở, đất sản xuất của dân cư để
phục vụ cho công cuộc phát triển chung đó. Nhằm bù đắp thiệt thòi của người dân,
Nhà nước ta đã ban hành chính sách không chỉ nhằm bồi thường, hỗ trợ về đất, về
những thiệt hại về tài sản trên đất mà còn có cả chính sách tái định cư dành cho các
hộ dân bị thu hồi đất. Chính sách này đã giúp cho người dân bị thu hồi đất bước đầu
ổn định trở lại cuộc sống. Nhờ đó, trong những năm qua, hàng ngàn dự án với nhiều
quy mô lớn, nhỏ đã được triển khai trên cả nước, quá trình thu hồi đất đã tạo sự đồng
thuận trong xã hội, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được nâng lên.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn gặp
phải không ít khó khăn vướng mắc do giá đất bồi thường của Nhà nước chưa sát với
giá thị trường ở điều kiện bình thường;chính sách bồi thường chưa hợp lý, việc tái định
cư và hỗ trợ người dân đến nơi ở mới chưa thật sự hiệu quả Bên cạnh đó, quá trình tổ
chức thực hiện chủ trương của Nhà nước về thu hồi đất, về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất cũng còn những sai sót, chưa tạo được quỹ "đất sạch" để triển khai khi
có dự án đầu tư, chủ yếu khi có nhà đầu tư vào thì phối hợp lập phương án bồi thường,

1


có khi vừa làm vừa "chạy thủ tục"; công tác tuyên truyền vận động thuyết phục, huy
động sự tham gia của các đoàn thể chưa được thường xuyên;đội ngũ làm công tác
giải phóng mặt bằng chưa được quan tâm... Những vấn đề trên dẫn đến hiện tượng
quy hoạch treo, khiếu nại, khiến kiện kéo dài, vượt cấp, không chỉ làm ảnh hưởng
đến triển khai dự án mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, đặc biệt trong vùng triển khai dự án, có nơi đã tạo thành "điểm nóng".
Nằm trong bối cảnh chung đó, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình với những
tiềm năng về tài nguyên, khoáng sản (đá vôi, đất sét..) để phát triển ngành công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, nhiều hang động, danh lam thắng cảnh, di tích

lịch sử văn hóa, suối nước khoáng nóng là điều kiện để phát triển ngành du lịch
(sinh thái, tâm linh, nghỉ dưỡng) đã có sự chuyển mình nhanh chóng về mọi mặt
hướng tới mục đích trở thành trung tâm công nghiệp - dịch vụ lớn nhất của tỉnh.
Trong quá trình thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội đó, nhu cầu về quỹ
đất phục vụ cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện ngày càng
lớn, nên việc thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng diễn ra khá mạnh mẽ. Tuy
nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, công tác bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
vẫn những tồn tại, hạn chế, vướng mắc dẫn đến vừa làm chậm tiến độ giải phóng
mặt bằng, chậm tiến độ thực hiện dự án đầu tư, vừa ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn, hiệu quả của nền kinh tế.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài: "Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình" để làm luận văn tốt nghiệp khóa
học Thạc sĩ Luật của mình. Với kỳ vọng trên cương vị công tác, kết quả nghiên cứu
sẽ góp phần nhỏ bé kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan và nhất là
tuyên truyền, giúp người dân hiểu rõ hơn về vấn đề này một cách tổng quan, toàn
diện, đầy đủ từ lý luận đến thực tiễn về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những khâu hết sức quan
trọng trong việc triển khai các dự án, công trình phục vụ cho quốc phòng, an ninh,

2


lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do đó thu hút được sự quan tâm của nhiều người,
trong đó có giới nghiên cứu và cả các cơ quan lập pháp, hành pháp. Nhiều đề tài,
luận án, công trình nghiên cứu, bài viết chuyên sâu về vấn đề này đã được thực hiện
ở nhiều cấp độ khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu:

* Nhóm các công trình nghiên cứu là các đề tài, báo cáo nghiên cứu
khoa học

Thuộc nhóm này có các công trình tiêu biểu sau:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng công

tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và đề xuất các giải pháp đẩy nhanh tiến độ thu
hồi đất đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng chỉnh trang đô thị, Chủ nhiệm đề
tài: Đặng Thái Sơn, Viện Nghiên cứu Địa chính, năm 2004;
-Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: Nghiên cứu, đánh giá thực trạng

công tác bồi thường, hỗ trợ đối với các khu vực thu hồi đất để phát triển công
nghiệp trên địa bàn huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương nhằm đề xuất một số giải
pháp góp phần hoàn thiện chính sách bồi thường, hỗ trợ cho người có đất bị thu
hồi, Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Văn Chiến - Viện Nghiên cứu quản lý đất đai
năm 2009;

* Nhóm các công trình nghiên cứu là các luận án tiến sỹ, các luận văn
thạc sĩ
Thuộc nhóm này có các công trình sau đây:
- Luận án Tiến sĩ Luật học: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam, của Phạm Thu Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014.
- Luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật kinh tế, đề tài: Pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh, của Nguyễn Minh Tuấn, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Ninh, của Lê Thị Thùy Dương, Viện Đại
học Mở Hà Nội, 2015;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật bồi thường về đất khi nhà

3



nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại huyện Mường La, tỉnh Sơn La, của Đỗ
Xuân Cảnh, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật về bồi thường đất khi nhà
nước thu hồi đất, của Nguyễn Thị Chinh, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật về bồi thường khi nhà nước
thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hải Dương, của Hoàng Anh Đức, Viện
Đại học Mở Hà Nội, 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất, của Trần Thị Hiền, Viện Đại học Mở Hà Nội, 2015;
- Luận văn thạc sĩ Luật học, đề tài: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực hiện tại huyện Hoài Đức, thành
phố Hà Nội, của Tạ Văn Thắng; Viện Đại học Mở Hà Nội 2015;
* Nhóm các bài viết nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất đăng trên các tạp chí khoa học
Thuộc nhóm này có các bài viết, như bài viết "Đánh giá việc thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi đất để triển khai một số dự án tại huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh", của nhóm tác giả Đặng Tiến Sỹ, Phạm Thị Tuyền,
Đặng Hùng Võ, Đỗ Thị Tâm, đăng trên Tạp chí Khoa học và Phát triển, tập 13, số 1,
tr. 82-89. Bài viết "Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất" của Trần Quang
Huy, Tạp chí Luật học, số 10/2010, tr. 29-36. Bài viết "Những tồn tại, vướng mắc phát
sinh trong quá trình áp dụng các phươngthức bồi thường khi nhà nước thu hồi đất",
của Nguyễn Thị Nga, Tạp chí Luật học, số 5/2011, tr. 14-20. Bài viết "Quyền khiếu
kiện khi nhà nước thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư", của
Phan Trung Hiền, Tạp chí Luật học, số 7/2011, tr. 15-23. Bài viết "Công khai, minh
bạch để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất", của Nguyễn Quang Tuyến, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, số 3/2012, tr. 26-33. Bài viết "Pháp luật về hỗ trợ khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp", của Lê Ngọc Thạnh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
số 4/2013, tr. 22-27...

4



* Đánh giá chung
Những công trình nghiên cứu trên dưới những góc độ tiếp cận khác nhau đã
có những phân tích, đánh giá chính sách, pháp luật về bồi thường của Việt Nam qua
các thời kỳ; phản ánh tương đối rõ nét vấn đề bồi thường từ góc độ lý luận và thực
tiễn từ đó đề xuất được các giải pháp góp phần hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trên cả bình diện cả nước cũng
như tại một số tỉnh, thành phố, thậm chí trên địa bàn của một quận, huyện. Những
công trình nghiên cứu này cung cấp cho tác giả không chỉ phương pháp luận để tiếp
cận nghiên cứu về pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình mà kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên
cứu trên tác giả có thể kế thừa một cách có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề
tài của mình.
Tuy nhiên, tác giả luận văn nhận thấy: Đất đai là một vấn đề nhạy cảm, ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền lợi của Nhà nước và công dân do đó mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn, mỗi năm cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ Trung ương đến địa
phương đã ban hành nhiều văn bản luật, như nghị định, thông tư… để hướng dẫn
thực hiện về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất dẫn đến nội dung mà các công
trình nghiên cứu trước như đã công bố ở trên có nhiều thay đổi khác so với thời
điểm tác giả nghiên cứu hiện nay. Hơn nữa, mỗi địa phương lại có những chính
sách khác nhau về vấn đề bồi thường khi thu hồi đất, vừa bảo đảm mục tiêu phát
triển kinh tế, vừa bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên. Mặt khác, tác giả chưa tìm
thấy công trình nghiên cứu nào về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Với lý do đó, học viên đã chọn đề tài "Pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình"
làm luận văn tốt nghiệp đáp ứng yêu cầu cấp thiết cả về góc độ lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực


5


tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình để hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng như giải pháp
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở
huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, khảo cứu các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài để kế
thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đó cả về phương pháp
luận cả về lý luận làm cơ sở triển khai nghiên cứu đề tài Pháp luật về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
Thứ hai, nghiên cứu tổng kết và làm rõ một số vấn đề lý luận và pháp luật
về pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình, từ đó rút ra
những hạn chế, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của nó.
Thứ tư, kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận và pháp luật về
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng như thực tiễn áp dụng pháp
luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình giai đoạn từ năm 2003 đến tháng 6/2007.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật Kinh tế. Luận văn tập

trung đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn từ 2003 đến

6


tháng 6/2017, trong đó có nêu một số dự án điển hình đã triển khai trên địa bàn để
làm rõ hơn các vấn đề tính cấp thiết đã đặt ra tại phần mở đầu
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của triết học Mácxít (phương pháp
duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý đất
đai, đặc biệt là vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp xã hội học, thống kê, tổng hợp, so sánh,
phân tích, bình luận, quy nạp, diễn dịch, kế thừa, khai thác các tài liệu sẵn có tại địa
phương như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ; Kế hoạch và chương
trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện; Quy hoạch, kế hoạch
tổng thể phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm; báo cáo của Ủy ban nhân
dân (UBND) huyện Gia Viễn về kết quả thực hiện kế hoạch sử dụng đất, thu hồi
đất, giao đất, đấu giá quyền sử dụng đất (QSDĐ)… từ năm 2013 đến 2017. Bên cạnh
đó, nghiên cứu và sử dụng các tư liệu nghiên cứu trước đây về lĩnh vực bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư thông qua các đề tài, công trình nghiên cứu, bài viết….ở các
địa phương có điều kiện kinh tế-xã hội tương đồng, của các tác giả có uy tín để áp
dụng phù hợp vào các đối tượng nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu và xử lý các thông tin, phân tích
số liệu thu thập được. Phương pháp này thể hiện bởi hoạt động khảo sát, thu thập
thông tin, số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; số liệu về hiện trạng sử
dụng đất; số liệu về thu hồi đất, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trong phạm vi

nghiên cứu đã đề ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình nghiên cứu về pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất và thực tiễn thi hành pháp luật tại huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Do đó,

7


luận văn có ý nghĩa không chỉ về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn:
- Về lý luận: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất cũng như lí luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất. Đồng thời, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách, pháp
luật bồi thường đối với người dân bị thu hồi đất, kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu
quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở huyện Gia Viễn,
tỉnh Ninh Bình.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu tham khảo hữu ích
phần nào giúp các nhà quản lý, nhân dân quan tâm có được cái nhìn đầy đủ, toàn
diện về công tác bồi thường trong thời gian qua để từ đó có thể đánh giá, phân tích,
điều chỉnh về chính sách, thực hiện tốt hơn cải cách hành chính trong lĩnh vực này;
góp phần giúp nhân dân nhận thức đầy đủ hơn về quy định của pháp luật qua hệ
thống hóa ở phần lý luận. Công trình nghiên cứu cũng là tài liệu tham khảo hữu ích
cho các cơ sở đào tạo luật trong cả nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất.
Chương 2: Thực tiễn thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu

hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất trên địa bàn huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.

8


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƯỜNG KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Một số khái niệm cơ bản về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.1.1 Khái niệm thu hồi đất
Thuật ngữ "thu hồi đất" đã trở nên quen thuộc trong đời sống hàng ngày
và phổ biến trong các văn bản pháp luật về đất đai. Theo Từ điển Tiếng Việt "Thu
hồi là lấy lại cái đưa ra, đã cấp phát hoặc bị người khác lấy" [50]. Theo Từ điển
Luật học:
Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của
người vi phạm quy định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người
khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm.
Trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của
người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng [45].
Các khái niệm này cũng đã đề cập được một phần nội hàm của thu hồi đất
nhưng chưa bao quát hết được các trường hợp thu hồi đất.
Luật Đất đai năm 2003 quy định: "Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết
định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức,
UBND xã, phường thị trấn quản lý theo quy định của Luật này" (khoản 5, Điều 4).
Quy định này, có thể dẫn đến cách hiểu là đối tượng bị thu hồi đất ở đây chỉ là tổ
chức, trong khi chủ thể được Nhà nước giao đất không chỉ có tổ chức mà còn có hộ
gia đình, cá nhân. Mặt khác, việc Nhà nước trao QSDĐ cho người sử dụng đất
không chỉ thông qua hình thức giao đất mà còn thông qua việc cho thuê đất, công

nhận QSDĐ.
Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước
quyết định thu lại quyền sử dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng

9


đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về đất đai" (khoản 11,
Điều 3). Từ khái niệm trên cho thấy, bản chất của việc thu hồi đất được thể hiện ở
các khía cạnh sau:
Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền thu hồi đất là Nhà nước, thông qua hệ
thống cơ quan nhà nước được phân quyền, phân cấp cụ thể. Với vai trò là đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý đất đai, về nguyên tắc, Nhà nước có đầy đủ các
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và định đoạt đối với đất. Nhà nước có quyền giao
đất, cho thuê đất để các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng; đồng thời Nhà nước
cũng có quyền thu hồi đất mà mình đã trao cho người sử dụng đất theo mục đích
của quy hoạch, kế hoạch. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết diện tích đất Nhà nước đã
giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đã được đầu tư trên đất ở các
mức độ khác nhau. Các chủ sử dụng đất cũng tạo lập đời sống sinh hoạt, sản xuất
kinh doanh trên mảnh đất thuộc quyền sử dụng của họ, nên khi thu hồi đất sẽ gây ra
những xáo trộn lớn về đời sống, hoạt động, cùng với những thiệt hại về vật chất và
tinh thần cho người sử dụng đất. Hơn nữa, Nhà nước ta là Nhà nước nước do nhân
dân lao động thiết lập, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà
nước theo đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và chăm lo
cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân. Đặt trong bối cảnh đó, thì khi Nhà nước
thu hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kỳ mục đích chung của đất nước, vì
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế mà gây thiệt hại cho người
sử dụng đất thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ bồi thường nhằm làm cho
người sử dụng đất sớm ổn định cuộc sống. Với cách tiếp cận như vậy, ngoại trừ các
trường hợp vi phạm quy định về sử dụng đất thì việc thu hồi đất vì mục đích quốc

phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đều được Nhà
nước bồi thường các thiệt hại và sắp xếp ổn định đời sống người dân bị thu hồi đất.
Thứ hai, việc thu hồi đất được thể hiện bằng quyết định hành chính thể hiện
quyền lực Nhà nước làm chấm dứt QSDĐ của người có đất bị thu hồi và người sử
dụng đất có trách nhiệm phải chấp hành quyết định đó, nếu không sẽ bị cưỡng chế

10


thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, người sử dụng đất cũng có
quyền khiếu nại hoặc khởi kiện đối với quyết định thu hồi đất hoặc hành vi cưỡng
chế đó nếu thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Thứ ba, chủ thể bị thu hồi đất rất đa dạng gồm hộ gia đình, cá nhân, tổ chức
kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, cơ sở tôn
giáo, cộng đồng dân cư được Nhà nước trao QSDĐ theo quy định của pháp luật đất đai.
Từ đó có thể định nghĩa thu hồi đất như sau: "Thu hồi đất là việc Nhà nước
ra quyết định hành chính để thu lại đất và quyền sử dụng đất đang có người sử dụng
trong những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật đất đai" [46]. Luật
Đất đai năm 2013 quy định rõ 4 trường hợp thu hồi đất, gồm thu hồi đất vì mục đích
quốc phòng, an ninh (Điều 61), thu hồi đất để phát triển kinh tế-xã hội vì lợi ích
quốc gia, công cộng (Điều 62), thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai (Điều
64) và thu hồi đất do chấm dứt việc sử dụng đất theo pháp luật, tự nguyện trả lại
đất, có nguy cơ đe dọa tính mạng con người (Điều 65). Thẩm quyền thu hồi đất
được quy định cụ thể tại Điều 66 của Luật Đất đai 2013.
1.1.2. Khái niệm bồi thường
Trong cuộc sống hàng ngày, "bồi thường" là thuật ngữ được sử dụng trong
trường hợp một người gây thiệt hại cho người khác và họ phải có trách nhiệm bồi
thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì "Bồi thường nghĩa là đền bù bằng tiền những
thiệt hại về vật chất và tinh thần mà mình phải chịu trách nhiệm" [50]. Theo Từ điển

Luật học: "Bồi thường là bù đắp những thiệt hại về vật chất, tinh thần do mình gây
ra cho người khác do thực hiện nghĩa vụ, thực hiện chậm, thực hiện không đầy đủ
một nghĩa vụ dân sự hoặc do vi phạm pháp luật" [45]. Hai khái niệm trên cho thấy,
việc bồi thường chỉ đặt ra khi có hành vi trái pháp luật, có lỗi, có thiệt hại xảy ra, có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một chủ
thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trong

11


lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù) được quy định ngay từ
ngày đầu thành lập nước tại nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng
Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất. Tại Chương II của
Nghị định đã đề cập việc "Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng". Sau
này, trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt là vào thời kỳ đổi mới, đất
nước ta bước vào xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quá trình đô thị
hóa diễn ra trên diện rộng, công tác quản lý đất đai, trong đó có bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư ngày càng được quan tâm từ chủ trương, chính sách đến các văn bản
pháp quy điều chỉnh. Tuy mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm, quy định
khác nhau cho phù hợp thực tiễn nhưng chung nhất, việc bồi thường hay đền bù
hoặc đền bù thiệt hại, xét cho cùng đó là việc Nhà nước, chủ đầu tư phải thực hiện
trách nhiệm của mình đối với tổ chức, cá nhân đang sử dụng đất khi tiến hành thu
hồi đất, nhằm bù đắp tổn thất về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra.
Điều 74, Luật đất đai 2013 quy định "Người sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất nếu có đủ điều kiện… thì được bồi thường" và "Việc bồi thường được thực
hiện bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi, nếu không có
đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất…". Từ những nội dung
trên, có thể suy ra những đặc trưng của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như sau:

- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là trách nhiệm của Nhà nước nhằm
bù đắp thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất do hành vi thu
hồi đất của Nhà nước gây ra. Trách nhiệm này được quy định trong Luật Đất đai.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là hậu quả pháp lý trực tiếp do hành
vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Điều này có nghĩa là bồi thường chỉ phát sinh sau
khi có quyết định hành chính về thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trước hết được thực hiện bằng việc
giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất thu hồi. Quy định này nhằm bảo
đảm sự ổn định trong sản xuất, kinh doanh, sinh sống của người bị thu hồi đất.

12


Trong trường hợp không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng tiền theo
giá đất cụ thể của loại đất thu hồi do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết
định thu hồi đất. UBND cấp tỉnh căn cứ vào Quy định về khung giá đất quy định tại
Nghị định số 104/2014/NĐ-CP ngày 14/11/2014 của Chính phủ và Nghị định số
44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ để ban hành Bảng giá đất trên địa
bàn làm căn cứ tính giá bồi thường.
- Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được thực hiện trong mối quan hệ
song phương giữa một bên là Nhà nước (chủ thể thực hiện hành vi thu hồi đất) với
một bên là người chịu bị thiệt hại về quyền và lợi ích hợp pháp do hành vi thu hồi
đất của Nhà nước gây ra (bên có đất bị thu hồi).Trong trường hợp người được Nhà
nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc không thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất
theo quy định của pháp luật về đất đai tự nguyện ứng trước kinh phí bồi thường, hỗ
trợ tái định cư thì được ngân sách nhà nước hoàn trả bằng hình thức trừ vào tiền sử
dụng đất, tiền thuê đất phải nộp hoặc được tính vào vốn đầu tư của dự án (Điều 30,
Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ).
- Căn cứ để xác định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là diện tích đất
thực tế bị thu hồi; thiệt hại thực tế về tài sản, cây trồng, vật nuôi, thiệt hại về nhà,

công trình xây dựng trên đất, thiệt hại về tài sản, ngừng sản xuất, kinh doanh khi
Nhà nước thu hồi đất; khung giá đất do Nhà nước quy định và Bảng giá đất theo
quyết định của UBND cấp tỉnh tại thời điểm thu hồi đất, chi phí di chuyển khi Nhà
nước thu hồi đất.
- Người bị Nhà nước thu hồi đất không chỉ được bồi thường về đất và tài
sản gắn liền với đất mà còn được hưởng các chính sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà
nước nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất.
- Người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất muốn được bồi thường về
đất phải thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định theo quy định của Luật Đất đai.
Theo pháp luật đất đai của Việt Nam hiện nay, quy định về "hỗ trợ", "tái
định cư" khi Nhà nước thu hồi đất gắn bó mật thiết với quy định về "bồi thường"

13


tạo thành ba bộ phận cấu thành chính sách của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư nhằm đảm bảo quyền lợi của người có đất bị thu hồi. Theo đó, "hỗ trợ khi
Nhà nước thu hồi đất" được hiểu là việc Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi
để ổn định đời sống, sản xuất và phát triển; "Tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất" là
quá trình di chuyển người dân đến nơi ở mới bằng cách bồi thường bằng nhà ở hay bồi
thường bằng giao đất mới hoặc bồi thường bằng tiền để người dân tự lo về chỗ ở.
Có thể nói, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là các chế định của Nhà nước ta
không những bù đắp cho người sử dụng đất quyền lợi về kinh tế họ mất đi khi Nhà
nước thu hồi đất mà còn hỗ trợ (hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và
việc làm…) cho người bị thu hồi đất để họ ổn định đời sống và sản xuất.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa: Bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là trách nhiệm của Nhà nước trả lại giá trị QSDĐ cho người sử dụng đất,
đối với diện tích đất bị Nhà nước thu hồi nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của người sử dụng đất.
1.1.3. Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Chính sách, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu là
một chính sách công không chỉ liên quan đến đất đai, tài chính mà còn là an ninh,
chính trị, là an sinh xã hội. Cho đến nay, chính sách, pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất vẫn còn nhiều quan niệm, cách hiểu khác nhau, cách vận dụng
khác nhau. Có những quan niệm cho rằng đất đai là một thứ hàng hóa và khi Nhà
nước thu hồi đất thì trả cho người đang có QSDĐ một số tiền tương ứng. Cũng có
quan niệm cho rằng đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý
nên khi Nhà nước thu hồi đất chỉ trả một phần kinh phí gọi là bồi thường. Mỗi quan
điểm đều có mặt tích cực và hạn chế của nó, bởi lẽ đất đai là tư liệu sản xuất đặc
biệt, không phải là hàng hóa để trao đổi mà đất đai trước hết là thành quả của cách
mạng bao nhiêu năm xây dựng và bảo vệ của nhiều thế hệ trong một quốc gia. Với
ý nghĩa đó, đất đai thuộc sở hữu của toàn thể nhân dân mà Nhà nước là đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý nên không thể thu hồi, sử dụng tùy tiện mà phải làm
sao để hài hòa các lợi ích giữa Nhà nước - chủ đầu tư và người sử dụng đất.

14


Quan điểm của tác giả luận văn đồng ý với quan điểm: Chính sách về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất là "các quan điểm, chủ trương và biện pháp tổ
chức thực hiện của các cơ quan nhà nước đối với những người có đất bị thu hồi
nhằm bảo đảm sự hài hòa, hiệu quả về lợi ích một cách bền vững nhất" [46].
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được hiểu là hệ thống các
văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của người có đất
bị thu hồi nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước, lợi ích của chủ đầu tư và
của người bị thu hồi đất [46].
Luật Đất đai là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan đến việc sở hữu, quản lý, bảo vệ và sử dụng đất. Đối tượng điều chỉnh
của luật đất đai là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình chiếm hữu, sử dụng

và định đoạt đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu không hề thay đổi, nhưng
tạo điều kiện để các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thụ hưởng các quyền của người
sử dụng đất và chịu trách nhiệm pháp lý theo quy định [46]. Phương pháp điều
chỉnh của Luật Đất đai là phương pháp mệnh lệnh hành chính, mang tính quyền uy
và phương pháp bình đẳng, thỏa thuận. Thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất là một trong những hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đất đai.
1.2. Các nguyên tắc trong pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
Thứ nhất, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp; ổn định cuộc sống cho người có đất bị thu hồi.
Về nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở
hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền cho người sử dụng đất sử dụng đất
thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận chuyển QSDĐ, nhận chuyển
QSDĐ theo quy định của pháp luật đất đai [3].
Như vậy, về mặt pháp lý, người sử dụng đất sẽ được khai thác, sử dụng và
hưởng thành quả trên đất đã được Nhà nước trao quyền theo mục đích sử dụng của

15


mình. Tuy nhiên, với vai trò là chủ sở hữu, Nhà nước phải sử dụng đất cho cho mục
đích quốc phòng an ninh, phát triển kinh tế, cải thiện nâng cao chất lượng sống của
dân cư do đó đất đai được sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch chung của Nhà nước.
Trong quá trình thực hiện các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chung, nhiều trường
hợp Nhà nước phải thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đối với đất mà Nhà nước đã giao quyền sử
dụng hợp pháp cho người sử dụng đất và trên thực tế, người sử dụng đất đã đầu tư
sản xuất, kinh doanh, sinh sống ổn định trên mảnh đất đó. Để bù đắp thiệt thòi này
của người sử dụng đất, Nhà nước thực hiện chính sách bồi thường cho người sử
dụng đất nhằm tạo điều kiện cho người mất đất có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn
trước khi mất đất; điều tiết phần lợi ích gia tăng không do các cá nhân tạo ra về

ngân sách Nhà nước; tạo điều kiện để người sử dụng đất sau này hoàn thành mục
tiêu đã được chấp thuận; bảo tồn được quỹ đất và môi trường.
Thứ hai, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm khuyến
khích người có đất bị thu hồi tự nguyện giao đất cho Nhà nước.
Để thực hiện được nguyên tắc này, Nhà nước cần tăng cường công tác tuyên
truyền, vận động, thuyết phục để người dân hiểu mục đích chính đáng của việc thu hồi
đất, đồng thời phải có mức bồi thường, hỗ trợ hợp lý, phải tổ chức tốt nơi tái định
cư…Nếu chính sách, quy định của pháp luật về bồi thường không đáp ứng được
mục tiêu này thì quá trình thu hồi đất sẽ gặp nhiều khó khăn như việc chây ỳ, chống
đối không bàn giao đất, khiếu kiện… làm chậm tiến độ giải phóng mặt bằng…
Thứ ba, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm góp phần
thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo trong quá trình tính toán bồi thường cho
người có đất bị thu hồi để phục vụ cho quốc phòng an ninh hay phát triển kinh tế xã
hội, các cơ quan có liên quan phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để
xem xét tính hợp lý của các khu tái định cư cũng như để điều hòa lợi ích phát sinh
theo quy hoạch.

16


1.3. Nội dung pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Các văn bản pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
Văn bản luật quan trọng nhất và là nền tảng của hệ thống pháp luật Việt
Nam đó là Hiến pháp 2013. Tại điều Điều 53 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định
đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời,
tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản
công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý;
Khoản 3, Điều 54 quy định: Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng

trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai,
minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp với tư cách là đạo luật gốc có ý nghĩa
nền tảng chung, để điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực đất đai, ngày 29
tháng 11 năm 2013, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua Luật Đất đai và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Trong nội dung của Luật Đất đai hiện hành có
chế định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Để cụ thể hóa một số điều trong Luật Đất đai về vấn đề trên, Chính phủ, các
Bộ có liên quan đã ban hành các nghị định, thông tư…, quy định chi tiết thi hành
Luật, nhằm hoàn thiện dần các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất, cụ thể là:
- Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai;
- Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về
giá đất
- Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;

17


- Thông tư số 36/2014/TT-BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ Tài nguyên và
Môi trường quy định chi tiết phương pháp định giá đất; xây dựng điều chỉnh Bảng
giá đất, định giá đất cụ thể và tư vấn xác định giá đất;
- Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 06/01/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15

tháng 5 năm 2014 quy định về giá đất và Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất (gọi tắt là NĐ 01/2017/NĐ-CP), có hiệu lực thi hành từ ngày 03/3/2017. Có
thể nêu ra một số nội dung chủ yếu của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất sau đây.
1.3.2. Nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất qua các thời kỳ phát triển của đất nước nêu trên đều thể hiện các nguyên tắc
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật
ban hành trước Luật Đất đai năm 2013 đều quy định về bồi thường (bồi thường đất
và bồi thường thiệt hại về tài sản) và quy định về hỗ trợ, tái định cư trong cùng điều
luật dẫn đến trong nhiều trường hợp không xác định được đâu là trường hợp bồi
thường, đâu là trường hợp hỗ trợ; thậm chí có những trường hợp hỗ trợ lại cao hơn
bồi thường. Khắc phục hạn chế đó, Luật Đất đai năm 2013, đã tách riêng các quy
định về bồi thường và quy định về hỗ trợ, tái định cư được quy định riêng tại các
điều luật khác nhau. Đối với quy định về bồi thường cũng được tách thành hai phần
riêng biệt: Phần quy định về bồi thường về đất (từ Điều 74 đến Điều 82) và phần
quy định về bồi thường thiệt hại về tài sản, về sản xuất, kinh doanh (từ Điều 88 đến
Điều 94) với các nguyên tắc khác nhau.
1.3.2.1. Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, đối với trường hợp thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh;
phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất nếu

18


×