Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên từ thực tiễn huyện tân sơn, tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HÀ SƠN BÌNH

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI
HỌC SINH,SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TÂN SƠN,TỈNH PHÚ THỌ

HÀ SƠN BÌNH

2015 - 2017

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI
HỌC SINH,SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN TÂN SƠN,TỈNH PHÚ THỌ
HÀ SƠN BÌNH
Chuyên ngành : Luật kinh tế


Mã số

: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS VŨ THỊ DUYÊN THỦY

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ, trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy, trung thực.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Sơn Bình


LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Khoa Sau đại học, Viện Đại học Mở Hà Nội và sự
đồng ý của giáo viên hướng dẫn PGS.TS Vũ Thị Duyên Thủy về đề tài luận văn:
"Pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên từ thực tiễn huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ". Để hoàn thành được luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự quan
tâm, động viên, giúp đỡ của quý thầy, cô giáo trong trường.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy, cô giáo của Viện Đại
học Mở Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình tôi học tập,
nghiên cứu tại Viện.
Chân thành cảm ơn giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS Vũ Thị Duyên Thủy
đã tận tình hướng dẫn tôi nghiên cứu, thực hiện luận văn của mình.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, Khoa đào tạo sau đại học Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập. Mặc

dù đã có nhiều nỗ lực, cố gắng để thực hiện luận văn một cách hoàn chỉnh nhất,
nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà tự bản thân không thể tự
nhận thấy được. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của Quý thầy, cô giáo để luận
văn được hoàn chỉnh hơn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên tôi, động
viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện luận văn, công trình nghiên cứu
của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hà Sơn Bình


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC SINH, SINH

7

VIÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC
SINH, SINH VIÊN

1.1.

Khái quát về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên


7

1.1.1. Bảo hiểm y tế và vai trò của bảo hiểm y tế đối với đời sống xã hội

7

1.1.2. Khái niệm, bản chất của bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên

9

1.2.

11

Khái quát về pháp luật bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên

1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật bảo hiểm y tế đối với học

11

sinh, sinh viên
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên
1.3.

Pháp luật về bảo hiểm y tế của một số nước trên thế giới và bài học

13
14

kinh nghiệm cho Việt Nam

1.3.1. Pháp luật bảo hiểm y tế tại Liên bang Nga

14

1.3.2. Pháp luật bảo hiểm y tế ở Trung Quốc

15

1.3.3. Pháp luật bảo hiểm y tế tại Thái Lan

16

1.3.4. Bài học kinh nghiệm về thực thi pháp luật bảo hiểm y tế đối với

17

học sinh, sinh viên cho Việt Nam
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC

20

SINH, SINH VIÊN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI HUYỆN
TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

2.1.

Khái quát đặc điểm địa bàn và cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Tân Sơn

20


2.1.1. Đặc điểm địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ

20

2.1.2. Khái quát chung về cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện Tân Sơn, tỉnh

23

Phú Thọ
2.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác triển khai pháp luật bảo hiểm y
tế học sinh sinh viên

24


2.2.

Các quy định pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm y

25

tế đối với học sinh, sinh viên tại huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ
2.2.1. Đối tượng tham gia bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên

25

2.2.2. Quỹ bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên

31


2.2.3. Thẻ bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên

37

2.2.4. Thủ tục, chất lượng khám chữa bệnh

40

2.2.5. Cơ sở y tế khám, chữa bệnh

46

2.3.

48

Đánh giá, nhận xét về thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế
đối với học sinh, sinh viên từ thực tiễn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ

2.3.1. Những kết quả đã đạt được trong quá trình thi hành pháp luật về

48

bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên từ thực tiễn huyện Tân
Sơn, tỉnh Phú Thọ
2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại cần khắc phục

53

2.3.3


55

Nguyên nhân dẫn đến sự bất cập trong việc áp dụng pháp luật bảo
hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên từ thực tiễn huyện Tân Sơn,
tỉnh Phú Thọ

Chương 3:

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ BIỆN PHÁP NÂNG

59

CAO HIỆU QUẢ PHÁP VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC
SINH, SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN
TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

3.1.

Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học

59

sinh, sinh viên
3.2.

Các biện pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật bảo hiểm y tế

64


đối với học sinh, sinh viên trong thực tiễn
KẾT LUẬN

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BHYT

: Bảo hiểm y tế

HSSV

: Học sinh, sinh viên


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Trang

2.1

Tổng hợp số liệu học sinh tham gia BHYT HSSV 2015-2016

27

2.2

Tổng số đối tượng tham gia BHYT trên địa bàn huyện

29

2.3

Bảng số liệu HSSV huyện Tân Sơn, tỉnh Phú thọ tham gia

50

bảng

BHYT giai đoạn 2010 - 2016

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ


Trang

sơ đồ
2.1

Cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH huyện Tân Sơn

26


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một xã hội phát triển trước hết phải có những con người khỏe mạnh. Có sức
khỏe con người mới có thể thực hiện các hoạt động sống phục vụ cho chính bản
thân mình và cộng đồng. Nhưng không phải lúc nào con người cũng khỏe mạnh và
không phải ai cũng có khả năng chi trả chi phí khám, chữa bệnh khi chẳng may gặp
rủi ro bất ngờ như ốm đau, bệnh tật. Ra đời từ năm 1992, bảo hiểm y tế (BHYT) là
một trong những biện pháp hiệu quả nhất nhằm giúp đỡ mọi người khi gặp rủi ro về
sức khỏe để trang trải phần nào chi phí khám, chữa bệnh, giúp ổn định đời sống góp
phần bảo đảm an toàn xã hội.
Bảo hiểm y tế là sự san sẻ rủi ro của mọi người trong cộng đồng, là giải
pháp hữu hiệu để mọi người vượt qua bệnh tật. Theo đó người khỏe mạnh giúp đỡ
người bị bệnh về mặt tài chính để họ được sử dụng thuốc men, trang thiết bị y tế
sớm bình phục sức khỏe. Trên thế giới, không một quốc gia nào có thể khẳng định
ngân sách nhà nước đủ để chăm lo sức khỏe cho toàn cộng đồng mà không có sự
huy động của các thành viên trong xã hội. Càng ngày BHYT càng khẳng định vai
trò không thể thiếu của mình trong đời sống con người.
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định chính sách BHYT là một trong những
chính sách an sinh xã hội lớn của đất nước, đề ra mục tiêu tiến tới BHYT toàn dân,

phấn đấu đến năm 2020 có trên 100% dân số tham gia BHYT. Muốn đạt được mục
tiêu này, phải từng bước tăng nhanh đối tượng tham gia, trong đó đặc biệt chú trọng
đến BHYT học sinh, sinh viên (HSSV).
Bảo hiểm y tế HSSV là một giải pháp cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho
HSSV. Đây là đối tượng gắn liền với trường học nên công tác chăm sóc sức khỏe
cho các em cũng gắn liền với công tác y tế học đường. Hiện nay ở nhiều nước trên
thế giới, công tác chăm sóc sức khỏe học sinh tại các trường học rất được chú trọng.
Một số nước như: Anh, Mỹ, Nhật, Philippin… hệ thống y tế học đường phát triển

1


mạnh và hoạt động rất có hiệu quả trong việc chăm sóc sức khỏe cũng như giáo dục
kiến thức sức khỏe cho học sinh.
Bảo hiểm y tế HSSV là chăm lo cho thế hệ trẻ một cách toàn diện, không
những chăm lo về mặt sức khỏe mà còn giáo dục nhân cách và lối sống nhân ái. Tham
gia BHYT các em sẽ thấy được trách nhiệm đối với mọi người xung quanh, với bạn bè
mình và chính bản thân mình. Thông qua BHYT các em sẽ học được cách chia sẻ khó
khăn, đồng cảm với người không may gặp rủi ro. Nhân cách sống tốt đẹp ấy sẽ hình
thành trong các em, theo các em đi hết cuộc đời và truyền từ đời này sang đời khác.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, BHYT đều có sự điều chỉnh, sửa đổi,
bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, bao gồm những nội
dung về phạm vi đối tượng tham gia; loại hình BHYT; nội dung các chế độ; việc tổ
chức quản lý quá trình thực hiện cũng như khung pháp lý cho việc ban hành và thực
hiện chính sách BHYT.
Việc Quốc hội khóa XII thông qua Luật BHYT ngày 14/11/2008 (Luật
BHYT số 25/2008/QH12, có hiệu lực từ ngày 01/01/2009) đã góp phần quan trọng
vào việc hoàn thiện chính sách BHYT. Luật BHYT số 25/2008/QH12 đã được triển
khai thực hiện hơn 8 năm và từng bước đi vào đời sống xã hội, trở thành một công
cụ pháp luật có hiệu quả, góp phần điều tiết xã hội, phục vụ công cuộc xây dựng

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Bên cạnh những kết
quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện chính sách BHYT đã bộc lộ những tồn
tại, hạn chế cần được bổ sung, sửa đổi cả về mặt nội dung luật và việc tổ chức thực
hiện. Ngày 13/6/2014, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII,
kỳ họp thứ 7 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT (gọi
tắt là Luật BHYT sửa đổi, bổ sung) và có hiệu lực từ 01/01/2015, tạo cơ sở pháp lý
để BHYT khẳng định vị trí trụ cột của chính sách an sinh xã hội.
Trong thực tiễn, việc thực hiện pháp luật về BHYT, nhất là BHYT đối với
HSSV còn nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người tham gia
BHYT và mục tiêu chăm sóc sức khỏe của HSSV. Trong giai đoạn phát triển mới
của đất nước với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn

2


minh", lấy con người làm trung tâm, tất cả vì con người thì việc nghiên cứu đánh
giá thực hiện Luật BHYT có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển
bền vững xã hội, góp phần bảo đảm an sinh cho đất nước.
Thiết nghĩ đề tài nghiên cứu pháp luật về BHYT đối với HSSV từ thực tiễn
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ có giá trị góp phần triển khai và hoàn thiện chính sách
BHYT trên địa bàn. Để thực hiện tốt BHYT toàn dân thì việc phát triển pháp luật về
BHYT đối với HSSV là việc làm cần thiết và được xem là một trong những nhóm
giải pháp để thực hiện BHYT toàn dân. Thông qua hình thức BHYT đối với HSSV
sẽ tạo điều kiện cho các em được chăm sóc sức khỏe một cách tốt nhất... Sau khi
nghiên cứu, xem xét, tổng hợp, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật BHYT đối
với HSSV trong thực tiễn, chúng ta có thể chỉ ra được những ưu điểm và nhược
điểm của loại hình bảo hiểm này đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm quý
báu, để từ đó góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của pháp luật BHYT đối với
HSSV trong lộ trình tiến tới BHYT toàn dân ở tương lai. Với những lý do trên, tác
giả xin chọn đề tài: "Pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên từ thực

tiễn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài pháp luật về BHYT đối với HSSV vốn đã được nghiên cứu khá
nhiều, đặc biệt là giai đoạn khi Luật BHYT 2008 bắt đầu có hiệu lực. Có thể kể đến
các công trình nghiên cứu đi trước như: Luận án tiến sĩ, khóa luận tốt nghiệp, luận
văn thạc sĩ, đề tài khoa học cấp trường, những nghiên cứu cấp nhà nước, báo cáo số
liệu hàng năm…phân tích, nghiên cứu về mặt lý luận cũng như thực tiễn, chẳng hạn:
Dưới góc độ Luận án tiến sĩ như: Luận văn tiến sĩ Dược học Nghiên cứu
một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến thu chi quỹ khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, giai
đoạn 2002-2006, (2012); Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng: Thanh toán chi phí khám
chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất tại một số trạm y tế xã thuộc huyện Đăk Tô
tỉnh Kon Tum, tác giả Lê Trí Khải; Luận án tiến sĩ kinh tế: Những nhân tố tác động
đến nguồn thu của quỹ bảo hiểm y tế ở Việt Nam, tác giả Trần Quang Lâm, Trường
Đại họch Kinh tế Quốc dân (2016)...

3


Một số luận văn, đề tài tốt nghiệp như: Luận văn thạc sĩ Y học: Thực trạng
tham gia Bảo hiểm y tế của sinh viên một số trường Đại học, Cao đẳng tại tỉnh Thái
Nguyên 2006-2008, của Mai Thị Thu Nga - Đại học Y dược Thái Nguyên, (2009);
Chuyên đề tốt nghiệp: Thực trạng Bảo hiểm y tế học sinh, sinh viên tại Bảo hiểm xã
hội huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, của Nguyễn Thị Hiền Lương, Lớp Bảo hiểm
45A; Luận văn thạc sĩ Luật học: Thực trạng thi hành pháp luật bảo hiểm y tế tự
nguyện ở Việt Nam, của Doanh Thị Ngọc Tú, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
(2014); Luận văn thạc sĩ Luật học: Thực trạng thi hành Bảo hiểm y tế bắt buộc ở
Việt Nam, của Bùi Thị Phương Dung, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, (2015);
Luận văn thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về bảo hiểm y tế ở Việt Nam hiện
nay, của Hoàng Mạnh Tường, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, (2016)...
Tuy pháp luật về BHYT đối với HSSV chỉ là một phần nhỏ trong hệ thống

pháp luật về BHYT. Một số công trình cũng đã đề cập đến trong phạm vi nào đó,
Tuy nhiên, tác giả vẫn mạnh dạn nghiên cứu vấn đề về pháp luật về BHYT đối với
HSSV từ thực tiễn huyện nhà và cơ quan đang công tác nhằm góp một cái nhìn tổng
hợp, khái quát và chi tiết hơn về ưu, nhược điểm trong quá trình triển khai, áp dụng
thi hành luật BHYT đối với HSSV tại địa phương, từ đó đưa ra những kiến nghị,
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về BHYT đối với HSSV trên
địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về BHYT HSSV và pháp luật BHYT
đối với HSSV đồng thời nắm được quá trình thay đổi của luật quy định về BHYT
đối với HSSV qua các thời kỳ để phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội.
Tìm hiểu thực trạng thi hành pháp luật BHYT đối với HSSV của người dân
hiện nay thông qua một số công trình khoa học, báo cáo, nghiên cứu số liệu trong
thực tế ở một số địa phương trên cả nước. Từ những con số cụ thể đó đưa ra được
đánh giá về tình hình áp dụng pháp luật BHYT đối với HSSV trên địa bàn nghiên
cứu còn những thiếu sót, bất cập gì.

4


Rút ra những bài học kinh nghiệm từ việc áp dụng trong thực tiễn để từ đó
đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành của pháp luật ngày một tốt hơn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Như đã nêu ở trên, trong giới hạn mục tiêu nghiên cứu, đề tài tập trung nghiên
cứu các vấn đề về triển khai pháp luật BHYT đối với HSSV. Thực tiễn thực hiện tại
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ trong thời gian qua đồng thời chỉ ra được những sai
sót để khắc phục, những bài học kinh nghiệm trong quá trình lập pháp và quản lý.
* Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: phạm vi trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, trong

đó có tham khảo một số vùng, địa phương cụ thể để so sánh.
Về thời gian: Nghiên cứu trong vòng 3 năm từ 2014 đến 2016, là khoảng
thời gian bắt đầu Luật BHYT sửa đổi năm 2014 có hiệu lực thi hành. Việc luận văn
giới hạn thời điểm nghiên cứu từ 1/1/2014 là bởi đây là mốc đánh dấu việc BHYT
HSSV chuyển từ hình thức BHYT tự nguyện sang hình thức BHYT bắt buộc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh.
Ngoài ra còn kế thừa và phân tích các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và
ngoài nước; các bài viết trên báo, tạp chí chuyên ngành có liên quan đến đề tài
nghiên cứu; các báo cáo, thống kê số liệu hàng năm của Bảo hiểm xã hội (BHXH)
huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên và pháp
luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh
viên và thực tiễn thực hiện tại huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ

5


Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và biện pháp nâng cao hiệu quả
pháp luật về bảo hiểm y tế đối với học sinh sinh viên từ thực tiễn thi hành tại huyện
Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

6


Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC SINH, SINH VIÊN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM Y TẾ ĐỐI VỚI HỌC SINH, SINH VIÊN
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên
1.1.1. Bảo hiểm y tế và vai trò của bảo hiểm y tế đối với đời sống xã hội
Bảo hiểm y tế trước hết là một bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã
hội Cùng với các hệ thống an sinh xã hội và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động
BHYT nói riêng và hoạt động của BHXH nói chung đã thực sự trở thành nền móng
vững chắc cho sự bình ổn xã hội. Chính vì vai trò quan trọng của BHXH, cho nên
mọi quốc gia trên thế giới hoạt động BHXH luôn do Nhà nước đứng ra tổ chức thực
hiện theo hệ thống pháp luật về BHXH. BHYT là một trong chín nội dung của
BHXH được quy định tại Công ước 102 ngày 28/6/1952 của Tổ chức Lao động
Quốc tế (ILO) về các tiêu chuẩn tối thiểu cho các loại trợ cấp BHXH. Theo Luật
BHYT 2008, BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối
tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật [27, Điều 2, Khoản 1]. Về cơ
bản, đó là một cách dành dụm một khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi cá
nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng vào quỹ do Nhà nước đứng ra quản lý, nhằm
giúp mọi thành viên tham gia quỹ có ngay một khoản tiền trả trước cho các cơ sở
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi người tham gia không may ốm đau phải sử
dụng các dịch vụ đó mà không phải trực tiếp trả chi phí khám chữa bệnh. Cơ quan
BHXH sẽ thanh toán khoản chi phí này theo quy định của Luật BHYT.
Bảo hiểm y tế là một phạm trù kinh tế tất yếu của xã hội phát triển, đóng vai
trò quan trọng không những đối với người tham gia bảo hiểm, các cơ sở y tế mà còn
là thành tố quan trọng trong việc thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác y tế
nhằm huy động nguồn tài chính ổn định, phát triển đa dạng các thành phần tham gia
khám chưa bệnh cho nhân dân. Chính sách BHYT của Việt Nam được bắt đầu thực

7



hiện từ năm 1992 và trong suốt hơn 20 năm qua, BHYT đã khẳng định tính đúng đắn
của một chính sách xã hội của Nhà nước, phù hợp với tiến trình đổi mới đất nước.
Thứ nhất, BHYT chính là biện pháp để xóa đi sự bất công giữa người giàu
và người nghèo, để mọi người có bệnh đều được điều trị với điều kiện họ có tham
gia BHYT, mọi người sẽ được bình đẳng hơn, được điều trị theo bệnh. BHYT mang
tính nhân đạo cao cả và được xã hội hóa theo nguyên tắc "số đông bù số ít". Số
đông người tham gia để hình thành quỹ và quỹ này được dùng để chi trả chi phí
khám chữa bệnh cho một số ít người không may gặp rủi ro bệnh tật, điều này vừa có
lợi cho mình, vừa có lợi cho xã hội.
Thứ hai, BHYT giúp cho người tham gia khắc phục khó khăn cũng như ổn
định về mặt tài chính khi không may gặp phải rủi ro ốm đau. Nhờ có BHYT, người
dân sẽ yên tâm phần nào về sức khỏe cũng như kinh tế, bởi vì họ đã có một phần
như là quỹ dự phòng của mình giành riêng cho vấn đề chăm sóc sức khỏe, đặc biệt
với những người nghèo chẳng may mắc bệnh. Do đó, BHYT có tác dụng khắc phục
hậu quả và kịp thời ổn định được cuộc sống cho người dân khi họ bị ốm đau, tạo
cho họ một niềm lạc quan trong cuộc sống, yên tâm lao động sản xuất tạo ra của cải
vật chất cho chính bản thân và cho xã hội, góp phần đẩy mạnh sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, BHYT ra đời còn góp phần giáo dục cho người dân trong xã hội về
tính nhân đạo theo phương châm "lá lành đùm lá rách", đặc biệt là với trẻ em.
Thứ tư, BHYT tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông qua
hoạt động quỹ BHYT đầu tư. Lúc đó trang thiết bị sẽ hiện đại hơn, có kinh phí để
sản xuất các loại thuốc đặc trị chữa bệnh hiểm nghèo, có điều kiện nâng cấp các cơ
sở khám chữa bệnh một cách có hệ thống và hoàn thiện hơn, giúp người dân đi
khám chữa bệnh được thuận lợi. Đồng thời đội ngũ cán bộ y tế sẽ được đào tạo tốt
hơn, các y, bác sĩ sẽ có điều kiện nâng cao tay nghề, tích lũy kinh nghiệm, có trách
nhiệm với công việc, dẫn đến sự quản lý dễ dáng và chặt chẽ hơn.
Thứ năm, BHYT còn góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà
nước. Hiện nay kinh phí cho y tế được cấu thành chủ yếu từ bốn nguồn: ngân sách

8



nhà nước, quỹ BHYT, thu một phần viện phí và dịch vụ y tế, tiền đóng góp của các
tổ chức quần chúng, các tổ chức từ thiện và viện trợ quốc tế. Trước khi có BHYT
thì ngân sách nhà nước là nguồn cung chủ yếu, sau khi có quỹ BHYT thì ngân sách
nhà nước đã được giảm bớt gánh nặng.
Thứ sáu, chỉ tiêu phúc lợi xã hội trong mỗi nước cũng biểu hiện trình độ
phát triển của nước đó. Do vậy, BHYT là một công cụ vĩ mô của Nhà nước để thực
hiện tốt phúc lợi xã hội, đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt
động chăm sóc sức khỏe của người dân.
Thứ bảy, BHYT còn góp phần đề phòng và hạn chế những bệnh hiểm nghèo
theo phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh". Với việc kết hợp với các cơ sở
khám chữa bệnh BHYT kiểm tra sức khỏe, chăm sóc sức khỏe cho đại đa số những
người tham gia BHYT từ đó phát hiện kịp thời những căn bệnh hiểm nghèo và có
phương pháp chữa trị kịp thời tránh những hậu quả xấu mà nếu không tham gia
BHYT tâm lý người dân thường sợ tốn kém khi đi bệnh viện, coi thường hoặc bỏ
qua những căn bệnh có thể dẫn đến tử vong.
1.1.2. Khái niệm, bản chất của bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên
Bảo hiểm y tế nói chung và BHYT đối với HSSV nói riêng là sự san sẻ rủi ro
của mọi người trong cộng đồng, là giải pháp hữu hiệu để mọi người vượt qua bệnh tật.
Theo đó người khỏe mạnh giúp đỡ người bị bệnh về mặt tài chính để họ được sử dụng
thuốc men, trang thiết bị y tế sớm bình phục sức khỏe. Trên thế giới, không một
quốc gia nào có thể khẳng định ngân sách nhà nước đủ để chăm lo sức khỏe cho toàn
cộng đồng mà không có sự huy động của các thành viên trong xã hội. Càng ngày
BHYT càng khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong đời sống con người.
Bảo hiểm y tế là cần thiết với tất cả mọi người do nó có tác dụng rất thiết
thực. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đã triển khai BHYT dưới nhiều hình
thức tổ chức khác nhau; BHYT, Khái niệm BHYT, theo Từ điển bách khoa Việt
Nam: Là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp
của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa


9


bệnh cho nhân dân. Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam thừa nhận
quan điểm của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) với
cách tiếp cận BHYT là một nội dung thuộc an sinh xã hội và là loại hình bảo hiểm
phi lợi nhuận, nhằm đảm bảo chi phí y tế cho người tham gia khi gặp rủi ro, ốm đau,
bệnh tật.
Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc
sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối
tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật, BHYT là một trong những
chính sách an sinh xã hội quan trọng.
Theo Khoản 2 Điều 1 Luật BHYT số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014, BHYT
là hình thức bảo hiểm bắt buộc để chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận.
Về cơ bản, đó là một cách dành dụm một khoản tiền trong số tiền thu nhập của mỗi
cá nhân hay mỗi hộ gia đình để đóng vào quỹ do Nhà nước đứng ra quản lý, nhằm
giúp mọi thành viên tham gia quỹ có ngay một khoản tiền trả trước cho các cơ sở
cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe, khi người tham gia không may ốm đau phải
sử dụng các dịch vụ đó, mà không phải trực tiếp trả chi phí khám chữa bệnh. Cơ
quan BHXH sẽ thanh toán khoản chi phí này theo quy định của Luật BHYT.
Xét về bản chất xã hội, BHYT là tập hợp có tổ chức của các thành viên xã
hội nhằm chống lại những biến cố, rủi ro, bất hạnh của mỗi cá nhân. Nhờ sự hợp
sức, đoàn kết trên tinh thần tương thân tương trợ này mà những rủi ro, biến cố khó
khăn của các cá nhân sẽ được dàn trải trên phạm vi rộng, giúp họ giảm gánh nặng
tài chính, nhanh chóng khắc phục khó khăn. BHYT mang trong mình bản chất xã
hội sâu sắc nhưng cũng cần hiểu rõ rằng BHYT không phải là sự ban ơn, sự chiếu
cố của xã hội mà đó là cộng đồng trách nhiệm của xã hội đối với thành viên của
mình. Điều đó vừa thể hiện trình độ văn minh, tính tổ chức xã hội, vừa thể hiện bản
chất nhân văn, tính người của mỗi cá nhân.

Về bản chất kinh tế, có thể khẳng định ngay BHYT không nhằm mục đích
kinh doanh, lợi nhuận nhưng lại là công cụ thực hiện phân phối lại thu nhập xã hội.

10


tuy nhiên sự phân phối này không có nghĩa lấy của người giàu chia cho người
nghèo mang tính cực đoan hay bình quân mà còn dựa theo nguyên tắc phân phối
theo lao động, đảm bảo công bằng mà ở đó có người được giúp nhiều, có người
được giúp ít. Phần hưởng của người hưởng thụ còn phải được tính toán trên cơ sở
đóng góp và mức độ của các rủi ro, biến cố.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên
1.2.1. Sự hình thành và phát triển của pháp luật bảo hiểm y tế đối với học
sinh, sinh viên
Nhìn lại bối cảnh đất nước giai đoạn từ năm 1986, công cuộc đổi mới cơ
chế kinh tế đã tạo những tác động tới tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Mặc dù đầu tư của Nhà nước
cho y tế tăng nhanh, song trước nhu cầu sử dụng thuốc và các dịch vụ y tế của người
dân không ngừng gia tăng, số chi từ ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 50%. Thực
tế đó đòi hỏi cơ chế tài chính y tế phải có những thay đổi nhằm tạo thêm nguồn kinh
phí hoạt động ngoài nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động y tế.
Trước yêu cầu khách quan đó, ngày 24/04/1989, Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 45/HĐBT cho phép các cơ sở khám, chữa
bệnh được thu một phần viện phí để cải thiện điều kiện phục vụ cho bệnh nhân. Tuy
nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, việc thực hiện chính sách này cũng đã ảnh
hưởng tới khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của một bộ phận không nhỏ những
người không có khả năng chi trả, nhất là người dân ở khu vực nông thôn, người
nghèo, người sống ở những vùng kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn…
Đây chính là bối cảnh ra đời chính sách BHYT - chính sách nhằm huy động sự
đóng góp tài chính từ cộng đồng để tăng cường và nâng cao chất lượng công tác

chăm sóc sức khỏe cho nhân dân theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng
làm", dựa trên nguyên tắc "lấy số đông bù số ít". Ngày 26/10/1990, Hội đồng Bộ
trưởng đã có Công văn số 3504/KG đồng ý để một số địa phương thực hiện thí
điểm BHYT.

11


Giai đoạn từ năm 1992 đến 1998: Trong giai đoạn này, Nhằm tăng cường
công tác bảo vệ, chăm sóc giáo dục sức khỏe cho học sinh và để thực hiện Nghị
định 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), ban
hành Điều lệ BHYT, Quyết định 241/TTg ngày 24/5/1993 của Thủ tướng Chính
phủ "Về việc thu và sử dụng học phí" trong đó cho phép thu BHYT học sinh. Liên
Bộ Giáo dục, Đào tạo - Y tế đã có Thông tư 14/TTLB-BGD&ĐT-BYT ngày
19/9/1994 về hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện cho học sinh (gọi tắt là BHYT
học sinh) trên phạm vi cả nước.
Giai đoạn từ 1998 đến năm 2007: Giai đoạn chính sách BHYT được thực
hiện theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 của Chính phủ, Thông tư
40/1998/TTLT-BGD&ĐT-BYT và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác quy
định về pháp luật BHYT đối với học sinh sinh viên.
Giai đoạn từ 2008 đến 2013: Luật BHYT số 25/2008/QH12 ngày 14/11/2008
ra đời cùng các nghị định, thông tư hướng dẫn quy định chi tiết về đối tượng, mức đóng,
quyền lợi và chế độ chính sách về BHYT đối với HSSV. Nghị quyết số 21-NQ/TW
ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020"; đây là giai đoạn tiền
đề triển khai thực hiện BHYT toàn dân và chuyển dần hình thức BHYT đối với
HSSV từ tự nguyện sang bắt buộc.
Giai đoạn từ 2014 đến nay: Luật BHYT số 46/2014/QH13 ngày 13/6/2014
Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHYT; Nghị định 105/2014/NĐ-CP
ngày 15/11/2014 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT

có hiệu từ 01/01/2015; Thông tư số 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24/11/2014 Về
hướng dẫn thực hiện BHYT có hiệu lực từ ngày 01/02/2015; Ngoài ra các cấp
ngành từ Trung ương đến địa phương cũng đó có các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn việc thực hiện pháp luật BHYT đối với HSSV tạo nên khung pháp lý đủ
mạnh để triển khai thực hiện có hiệu quả pháp luật BHYT đối với HSSV.

12


1.2.2. Đặc điểm của pháp luật bảo hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên
Thứ nhất, đối tượng của Pháp luật BHYT đối với HSSV là tất cả các HSSV
từ bậc tiểu học đến đại học và trên đại học, các trường công lập, tư thục, bán công...
trên cả nước thuộc phạm vi của pháp luật BHYT điều chỉnh. Với mục tiêu tham gia
BHYT để chăm sóc toàn diện sức khỏe cho HSSV, theo quy luật số đông bù số ít.
Là hình thức BHYT bắt buộc trên cơ sở tự nguyện tham gia một phần để tạo lập, ổn
định quỹ BHYT cũng như hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân.
Thứ hai, BHYT và BHYT đối với HSSV nói chung đều mang tính nhân đạo
nhất trong số tất cả các loại hình bảo hiểm. BHYT đối với HSSV đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khỏe với chất lượng ngày càng cao của đại bộ phận HSSV. Tham gia
BHYT HSSV vừa có lợi cho mình, vừa có lợi cho xã hội bởi thông qua sự đóng góp
vào quỹ, quỹ sẽ thanh toán những khoản chi phí đã thỏa thuận khi không may người
có thẻ BHYT gặp phải rủi ro ốm đau, bệnh tật. Có một số trường hợp mắc bệnh
hiểm nghèo, sự đóng góp cả cuộc đời họ không đủ chi phí cho một lần, do đó thông
qua quỹ, cộng đồng xã hội sẽ giúp họ. Đóng BHYT là sự chi trả cho chính mình, khi
khỏe thì người ốm chi dùng, còn ốm đau thì được cả cộng đồng chăm sóc. BHYT
nhằm mục đích san sẻ rủi ro, gánh nặng chi phí cho người bệnh, thể hiện sự đùm
bọc lẫn nhau khi khó khăn xảy đến, thể hiện sự văn minh của nền kinh tế - xã hội.
Thứ ba, triển khai pháp luật BHYT đối với HSSV có liên quan chặt chẽ đến
toàn bộ các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương nhất là ngành Tài chính ngành Giáo dục - ngành Y tế - ngành BHXH. Từ đó đòi hỏi sự đồng nhất cao giữa
các ngành trong việc triển khai thực hiện nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật và

đạt hiệu quả cao nhất.
Thứ tư, pháp luật BHYT đối với HSSV góp phần cùng với các loại hình bảo
hiểm con người khác nhằm khắc phục nhanh chóng những hậu quả xảy ra với con
người. Đó cũng là lý do mà Chính phủ các nước luôn quan tâm đến pháp luật BHYT
HSSV hay các chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng nói chung.
Thứ năm, pháp luật BHYT đối với HSSV cũng góp phần nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh và điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế, từ đó làm chất lượng

13


ngành y tế không ngừng được nâng cao. Trong khi nguồn ngân sách nhà nước đầu
tư cho ngành y tế còn eo hẹp thì việc huy động các nguồn vốn khác cho chi tiêu của
ngành còn chậm và thiếu đồng bộ. Thu viện phí khối lượng rất ít song lại tạo rất
nhiều khe hở cho các tiêu cực phát triển dẫn tới một thực tế bệnh nhân phải tăng phí
tổn khám chữa bệnh, đầu tư cho ngân sách không hề bị giảm bớt mà bệnh viện vẫn
bị xuống cấp. Bên cạnh đó các nguồn khai thác của dân, các tổ chức kinh tế, các
nguồn viện trợ trực tiếp chậm được thể chế hóa và chưa dung hòa chung vào ngân
sách y tế, làm hạn chế phát huy các nguồn vốn quan trọng này. Do đó, khi thực hiện
pháp luật BHYT sẽ tạo ra nguồn kinh phí hỗ trợ cho ngành y tế nhằm góp phần
nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và điều trị, nâng cấp các cơ sở y tế ngày càng
tốt hơn, đáp ứng nhu cầu về chăm sóc sức khỏe nhân dân.
1.3. Pháp luật về bảo hiểm y tế của một số nước trên thế giới và bài học
kinh nghiệm cho Việt Nam
Các mô hình BHYT xuất hiện trước hàng thế kỷ nay là vào thế kỷ 18, 19 tại
Cộng hòa Liên bang Đức, Pháp, Mỹ… và đến nay tại các nước trong khu vực Châu Á
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… cũng đang phát triển BHYT theo nhiều
hướng. Tuy nhiên, mô hình tổ chức BHYT và tác dụng của mô hình đó với mỗi nước là
rất khác nhau. Trên thế giới, phần lớn các nước thực hiện hình thức BHYT nhằm bổ
sung thêm quyền lợi cho người tham gia ngoài gói quyền lợi cơ bản khi tham gia

BHYT bắt buộc. Theo tổng kết 178 chương trình BHYT của các nước trên thế giới cho
thấy: BHYT chỉ là loại hình BHYT bổ sung và người tham gia được bổ sung thêm
quyền lợi vào gói quyền lợi cơ bản của mình; điều này nhằm mục đích: thu hút thêm
các đối tượng khác nhau nhằm mở rộng diện tham gia, bổ sung thêm các quyền lợi mà
BHYT bắt buộc chưa có điều kiện đáp ứng và tạo thêm sức cạnh tranh của các loại
hình BHYT. Tất cả đều nhằm thúc đẩy các dịch vụ phục vụ cho các đối tượng tham gia
BHYT ngày càng tốt hơn, đẩy nhanh tiến độ của lộ trình BHYT toàn dân nhanh hơn.
1.3.1. Pháp luật bảo hiểm y tế tại Liên bang Nga
Ngoài BHYT bắt buộc, ở Nga còn hiện hữu hệ thống BHYT (VHI). Bảo
hiểm VHI này do bệnh nhân tự mua, mức giá từ 500 đến 1.500 dollar/năm. Dùng

14


loại bảo hiểm này, người mua có thể tự mình lập chương trình BHYT cho bản thân
(ví dụ bảo hiểm phòng chống bệnh nghề nghiệp có thể mắc phải), tùy ý chọn cơ sở
y tế muốn đến điều trị, tiến độ chữa bệnh diễn ra dưới sự theo dõi của công ty bảo
hiểm mà người ấy đã đăng ký. Ngày càng có nhiều người Nga sử dụng bảo hiểm VHI
cũng bởi hình thức y tế miễn phí trên thực tế không phải luôn luôn là hưởng dụng
không mất tiền, bệnh nhân thường phải đối mặt với sự vòi vĩnh gây phiền hà từ phía
cơ sở y tế. Cuộc cải cách trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe công dân hiện tại được
hoạch định để giải quyết vấn nạn này.
Mới đây, Nga đã đưa ra dự luật từ năm 2015 lao động nhập cư sẽ nộp phí
vào Quỹ BHXH (FSS), và họ sẽ không được tham gia vào BHYT bắt buộc (OMS).
Chính phủ Nga vừa soạn thảo xong các dự luật, quy định việc đóng phí bảo hiểm
vào FSS trong mục nghỉ ốm, áp dụng tiêu chuẩn, theo đó lao động nhập cư sẽ không
được tham gia vào OMS, và chủ tuyển dụng sẽ phải mua cho họ DMS (BHYT tự
nguyện) theo mức giá do Chính phủ quy định. Bộ Lao động Nga cũng cho biết,
trong trường hợp các sửa đổi về luật được thông qua, khoảng 3 triệu người nước
ngoài đến làm việc tại Nga sẽ được chăm sóc y tế. Công dân nước ngoài giờ đây có

thể mua BHYT tại các chi nhánh của "Bưu chính Nga", dự án này hiện được triển
khai tại một số tỉnh thành lớn của Liên bang Nga như thành phố Matxcơva và tỉnh
Matxcơva, tỉnh Novosibirsk, tỉnh Rostov, tỉnh Chelyabinsk, vùng Perm, Cộng hòa
Tatarstan. Bất kỳ người nước ngoài nào ở độ tuổi từ 18 đến 65 đều có thể sử dụng
dịch vụ mới này. Người mua BHYT được chi trả các chi phí về nghiên cứu chuẩn
đoán, phẫu thuật và tiền thuốc, các chi phí liên quan đến chữa trị khi bị chấn thương
các loại, bị bỏng, khi mô bị lạnh hỏng, bị ngộ độc và khi bị hồi hương. Mức bồi
thường tối đa của bảo hiểm này là 100 nghìn rúp, giá bán bảo hiểm là 599 rúp với
thời hạn hiệu lực là 3 tháng. Để mua BHYT nói trên tại các chi nhánh của "Bưu
chính Nga", người nước ngoài chỉ cần xuất trình thẻ nhập cảnh.
1.3.2. Pháp luật bảo hiểm y tế ở Trung Quốc
Trung Quốc là đất nước có số dân cư đứng hàng đầu thế giới song nhiều
năm qua BHYT của Trung Quốc chưa tìm được những hướng đi phù hợp để thu hút

15


được cộng đồng tham gia BHYT. Tuy nhiên giai đoạn trước năm 1999 với mô hình
BHYT cho khu vực nông thôn dựa trên cơ sở hệ thống y tế các hợp tác xã làm nòng
cốt, cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và khám chữa bệnh cho đối tượng
tham gia BHYT của Trung Quốc đã đưa tỷ lệ người tham gia BHYT lên đến 90%
dân số, tương ứng với trên 1 tỷ dân vào những năm của thập kỷ 70. Số người tham
gia BHYT bắt buộc tập trung tại các khu vực đô thị trong đó có cả người ăn theo
được chi trả 50% chi phí. Trong quá trình đổi mới các thành phần kinh tế của Trung
Quốc dẫn đến sự tan rã của hệ thống y tế hợp tác xã kèm theo sự yếu kém về mặt
quản lý quỹ BHYT, sự thiếu thống nhất trong các chế độ BHYT dẫn đến khả năng
chia sẻ rủi ro thấp, BHYT cho khu vực nông thôn không thể tồn tại. Mặc dù đã có
sự cải tổ trong chính sách BHYT, đó là năm 1999 thành lập hệ thống BHYT mới
với 4 nguyên tắc hoạt động là: phí thấp, diện bao phủ rộng, hai bên cùng đóng góp,
phối hợp quỹ chung và tài khoản cá nhân, BHYT chỉ được coi như loại hình BHYT

bổ sung cho BHYT bắt buộc của người lao động (mức phí dưới 4% lương) sau khi
đã đóng đủ BHYT bắt buộc (6% lương do chủ sử dụng lao động và 2% lương do
người lao động đóng góp). Cho đến hết 2003, Trung Quốc có khoảng trên dưới 10%
dân số tham gia (86,9 triệu người tham gia tính đến tháng 12/2002).
Năm 2002, Trung Quốc đã đưa ra mô hình hợp tác xã y tế kiểu mới dựa trên
nguyên tắc tương trợ tự nguyện. Thủ đô Bắc Kinh đã thí điểm mô hình này tại một
số điểm, với sự chia sẻ tài chính giữa nông dân, cộng đồng và chính quyền địa
phương nhằm tạo ta một quỹ chia sẻ rủi ro cho những bệnh tật nghiêm trọng. Năm
2003, chính phủ Trung Quốc bắt đầu triển khai thí điểm "Chế độ bảo hiểm y tế hợp
tác nông thôn kiểu mới", khi nông dân tham gia chế độ này, khám chữa bệnh, chi
phí nằm viện có thể do ba bên như cá nhân, tập thể và chính quyền cùng gánh vác.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Chính phủ Trung Quốc đầu tư quy mô lớn nhằm
giải quyết vấn đề điều trị y tế cơ bản của nông dân.
1.3.3. Pháp luật bảo hiểm y tế tại Thái Lan
Thái Lan là một nước nằm trong khu vực Đông Nam Á, có nền kinh tế phát
triển tương đối nhanh so với các nước trong khu vực đặc biệt là phát triển kinh tế du

16


lịch. BHYT bắt đầu hoạt động ở Thái Lan từ năm 1983 với đối tượng là khu vực
nông dân và đã nhanh chóng phát triển trên diện rộng, đến 2001 đạt tỷ lệ cao nhất
trong các loại hình BHYT của Thái Lan. BHYT cho công chức, doanh nghiệp nhà
nước do Bộ Tài chính quản lý chiếm 8,5% dân số; BHYT cho doanh nghiệp tư nhân
do Bộ Lao động quản lý chiếm 7,2% dân số; BHYT thương mại chiếm 2,1% dân số;
BHYT do Bộ Y tế quản lý chiếm 20,8% dân số.
Trên cơ sở hoạt động của BHYT, Chính phủ Thái Lan đã thành lập Văn
phòng BHYT quốc gia là đầu mối quản lý và cấp ngân sách cho người cung ứng
dịch vụ BHYT xây dựng, thí điểm chương trình "Thẻ vàng 30 bạt chữa mọi bệnh"
vào năm 2001 và thực hiện trên toàn quốc vào năm 2002. Tháng 7/2002 Thái Lan

tuyên bố đạt mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân. Nội dung của "Thẻ vàng 30 bạt
chữa mọi bệnh" đó là: trả 30 bạt/1lần khám, đăng ký khám chữa bệnh tại một cơ sở
y tế; đầu mối khám chữa bệnh ở nông thôn là bệnh viện các tuyến huyện và các văn
phòng khám tại khu vực, ở thành thị là các bệnh viện tỉnh, bệnh viện trung ương,
các phòng khám; khi khám chữa bệnh ngoại trú được thanh toán theo khoán định
xuất, khám chữa bệnh nội trú được thanh toán theo nhóm chẩn đoán.
Hệ thống BHYT Thái Lan là một trong những hệ thống BHYT phức tạp
trong khu vực Đông Nam Á. Mặc dù là quốc gia thực hiện BHYT nhanh nhất trong
khi vực nhưng hệ thống BHYT Thái Lan đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức
do chịu ảnh hưởng của sự bất ổn về hệ thống chính trị cũng như trong công tác quản
lý và thực hiện BHYT như tình trạng lạm dụng BHYT, chi phí gia tăng, hệ thống
quản lý bị phân tán.
1.3.4. Bài học kinh nghiệm về thực thi pháp luật bảo hiểm y tế và bảo
hiểm y tế đối với học sinh, sinh viên cho Việt Nam
Từ những kết quả mang lại của mô hình BHYT đối với HSSV tại các nước
khác nhau, có thể thấy muốn đảm bảo thực hiện tốt pháp luật BHYT đối với HSSV,
Việt Nam cần lưu ý những điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, chủ động triển khai Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
BHYT: Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT được thông qua tại kỳ

17


×