Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại từ thực tiễn huyện vĩnh bảo, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 85 trang )

TRẦN MINH ĐỨC

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT KINH TẾ

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH BẢO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRẦN MINH ĐỨC

2015 - 2017
HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH BẢO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

TRẦN MINH ĐỨC


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN XUÂN THU

HÀ NỘI – 2017
2


LỜI CAM ĐOAN

Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em. Các kết quả nêu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Em
đã hoàn tất cả các môn học và đã hoàn thành các nghĩa vụ về tài chính theo quy
định của Viện Đại học Mở Hà Nội.
Vậy em viết lời cam đoan này đề nghị Viện Đại học Mở Hà Nội xem xét để em
có thể bảo vệ luận văn .
Em xin trân thành cảm ơn.

HỌC VIÊN

Trần Minh Đức

3


LỜI CẢM ƠN


Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Viện Đại học Mở Hà Nội
đã tận tình dậy dỗ em trong thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Xuân Thu đã hướng dẫn tận tình
để em hoàn thành luận văn đề tài “Pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh
doanh thương mại từ thực tiễn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng”
Em xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp số liệu, giúp
đỡ em để em phản ánh chính xác thực tiễn thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án kinh doanh thương mại tại huyện Vĩnh Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

HỌC VIÊN

Trần Minh Đức

4


MỤC LỤC
Trang

LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc cưỡng chế thi hành án kinh doanh

7

thương mại

1.1.1. Khái niệm

7

1.1.2. Ý nghĩa của việc cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại

9

1.2. Pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án kinh doanh

10

thương mại
1.2.1. Điều kiện áp dụng cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại

10

1.2.2. Nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương

12

mại
1.2.3. Căn cứ cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại

16

1.2.4.Các biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại

16


1.2.5. Trình tự, thủ tục áp dụng cưỡng chế thi hành án kinh doanh

24

thương mại
Kết luận Chương 1

34

Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA
BÀN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1. Những kết quả đạt được

35

2.2. Những tồn tại, hạn chế, khó khăn, vưỡng mắc và nguyên nhân

39

2.2.1 Tồn tại, hạn chế, khó khăn, vướng mắc

40

2.2.2. Nguyên nhân

48

2.2.2.1. Nguyên nhân khách quan


48

2.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

63

5


2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tế cưỡng chế thi hành án

66

kinh doanh thương mại trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố
Hải Phòng
Kết luận Chương 2

70

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH ÁN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
3.1. Hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh

71

thương mại
3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án


71

kinh doanh thương mại
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh

74

doanh thương mại
3.2. Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật pháp luật về cưỡng chế

82

thi hành án kinh doanh thương mại trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng
Kết luận Chương 3

85

KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

6


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công tác thi hành án dân sự là một trong những hoạt động quan trọng của
Nhà nước trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi
hành, có vai trò rất lớn trong hoạt động tư pháp nói chung và quá trình giải quyết
các vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được
thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho
bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Mặt khác, nó còn là công cụ hữu
hiệu để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm, tác
động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, do điều kiện
kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực nào
của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách thuận lợi.
Nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được sử dụng khá thường
xuyên trên thực tế.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động thường xuyên được thực hiện
trong công tác thi hành án dân sự. Được áp dụng khi các bản án, quyết định không
được tự nguyện thi hành do đó hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả công tác thi hành án. Nhà nước đã xây dựng khung pháp lý
cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong các văn bản pháp luật về thi hành án
dân sự. Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã
dành riêng Chương IV, từ Điều 66 đến Điều 121 để quy định về biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự và việc cưỡng chế thi hành án còn được quy định cụ thể hơn
trong Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự; Thông
tư liên tịch số 03/2012/TTTLT-BTP-BCA ngày 30 tháng 3 năm 2012 của Bộ Tư
pháp và Bộ Công an quy định cụ thể phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án
dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự
cho thấy các quy định về vấn đề này đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Những

vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn áp dụng đã là một trong những nguyên nhân dẫn

7


đến tình trạng án tồn đọng, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ một cách kịp thời và
có hiệu quả quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức khác trong thi hành án dân sự trong quá trình áp
dụng cưỡng chế thi hành án dân sự (trong đó có cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại), người có thẩm quyền thi hành án vẫn gặp không tít khó khăn, vướng
mắc. Mặt khác, hoạt động cưỡng chế thi hành án tác động sâu rộng đến các mối
quan hệ xã hội của người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền
và nghĩa vụ liên quan trong bản án, quyết định. Nên vấn đề cưỡng chế tài sản của
người phải thi hành án khi họ không tự nguyện thi hành án phải nghiên cứu kỹ
lưỡng để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của đương sự. Trong những năm gần đây, tỉ lệ thi hành các bản án, quyết
định kinh doanh thương mại trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
tăng lên nhanh chóng. Trong khi đó, hiệu quả thi hành các bản án, quyết định kinh
doanh thương mại của huyện không cao do các nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau. Một trong những nguyên nhân xuất phát từ quy định của pháp luật,
đặc biệt là pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về cưỡng chế thi
hành án kinh doanh thương mại từ thực tiễn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng” làm luận văn tốt nghiệp. Đây là vấn đề cấp thiết có ý nghĩa thực tiễn sâu
sắc đối với lĩnh vực thi hành án dân sự của một địa phương nhất định, dựa trên điều
kiện kinh tế, xã hội của địa phương để có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Việc nghiên cứu kỹ công tác cưỡng chế thi
hành án dân sự, cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại giúp đem lại quyền
và lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp phần hoàn hiện và xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua công tác thi hành án dân sự đã từng bước được
xây dựng và trưởng thành cả về cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng, với các văn bản
pháp luật về thi hành án dân sự như Luật thi hành án dân sự năm 2008 và các văn
bản hướng dẫn thi hành; Luật thi hành án dân sự (được sửa đổi bổ sung năm 2014);
các văn bản hướng dẫn thi hành ngày càng được hoàn thiện và phù hợp với thực
tiễn. Văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Luật Ngân hàng Nhà nước năm

8


2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Bộ luật dân sự, Luật đất đai năm 2015,
Luật doanh nghiệp năm 2014… và các văn bản dưới luật với những điểm mới, hoàn
thiện và tiến bộ đã giúp cho việc tổ chức thi hành án được thực hiện một cách có
hiệu quả trong thực tiễn.
Trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có một
số công trình khoa học nghiên về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể như: Đề tài
nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số 9698-027/ĐT do Cục thi hành án dân sự - Bộ tư pháp (nay là Tổng cục thi hành án dân
sự) chủ trì thực hiện; Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: “Luận cứ khoa học của
việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do
Bộ tư pháp trủ trì; Đề tài: “Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của
Dự án VIE/98/001” do Bộ tư pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận văn và công
trình nghiên cứu khác như: Luận văn thạc sĩ luật học: “Các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện”, của Nguyễn Công Long;
Luận văn thạc sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự”, của Nguyễn
Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam”, của Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học: “ Đổi mới
thủ tục thi hành án dân sự ở Việt nam”, của Lê Anh Tuấn … Bên cạnh đó là giáo
trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội do TS
Nguyễn Công Bình làm chủ biên năm 2011; Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự

của Học viện Tư pháp do TS. Lê Thu Hà chủ biên năm 2012; Tài liệu tập huấn triển
khai các nội dung mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án
dân sự, các văn bản hướng dẫn thi hành và kỹ năng rà soát chỉ đạo, giải quyết các
vụ việc khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự” của Tổng cục Thi hành án dân sự Bộ tư pháp, Hà Nội tháng 12/2015; “Thi hành án kinh doanh, thương mại – Thực
trạng và những giải pháp nâng cao kết quả trong thời gian tới” của tác giả Nguyễn
Thị Nhàn, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 8 (293) năm 2016; “Một số vướng
mắc khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn
Doãn Phương, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số tháng 8 (293) năm 2016…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Nhiều công trình cũng đã đề cập
đến vấn đề pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự, nhưng chủ yếu đi sâu tìm

9


hiểu những vấn đề có liên quan đến pháp luật, chưa có công trình nào nghiên cứu
vấn đề pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại từ thực tiễn của
một địa phương nhất định, dựa trên điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương để có
những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh
doanh thương mại.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu, phân tích quy
định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại, tác giả mong muốn có thể
làm rõ hơn cơ sở lý luận và chỉ ra những bất cập trong thực tiễn khi áp dụng, từ đó
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác cưỡng chế thi hành án dân sự
nói chung và hoạt động cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại nói riêng.
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về cưỡng chế thi hành án dân sự
nói chung, đặc biệt các quy định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại;
- Đánh giá một cách toàn diện thực tiễn áp dụng các quy định về cưỡng

chế thi hành án kinh doanh thương mại trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố
Hải Phòng;
- Phân tích tồn tại, hạn chế, khó khăn và vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng các quy định về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại trên địa bàn
huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, từ đó đề xuất hướng hoàn thiện và giải
pháp tăng cường hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh
doanh thương mại.
4. Phạm vi nghiên cứu
Cưỡng chế thi hành án dân sự là chế định rộng bao gồm nhiều quy định về
các biện pháp cưỡng chế cụ thể, đã có không ít tác giả nghiên cứu về vấn đề này,
tuy nhiên từng tác giả hoặc chỉ tập trung nghiên cứu chuyên sâu về một biện pháp
cưỡng chế nhất định như biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người phải
thi hành án hoặc biện pháp cưỡng chế buộc thực hiện công việc nhất định,... hoặc là
nghiên cứu một cách tổng thể về các biện pháp cưỡng chế nói chung trên địa bàn cả
nước. Trong phạm vi của đề tài này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại

10


trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 2012 đến năm 2016. Từ
đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại nói riêng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra, tác giả đã sử
dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép
biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật.
Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả đã sử dụng một số phương

pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích,
phương pháp chứng minh, phương pháp so sánh...

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề chung về pháp luật cưỡng chế thi hành án kinh
doanh thương mại.
Chương 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
kinh doanh thương mại và nâng cao hiệu quả thi hành trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng.

11


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm
Bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
có hiệu lực pháp luật có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ
cương pháp luật có được tôn trọng; lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, của
các tổ chức xã hội và mọi công dân có được bảo đảm hay không phụ thuộc nhiều
vào kết quả của việc thi hành án. Với tính chất dân sự của mình, thi hành án dân sự
là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ (chủ yếu là các quyền, nghĩa vụ về tài
sản) của các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan tài phán
khác ghi nhận. Trong thi hành án dân sự, các bên đương sự có quyền tự định đoạt,

thỏa thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết
định của Tòa án. Tự nguyện, thỏa thuận thi hành án đã trở thành một nguyên tắc,
biện pháp quan trọng trong hoạt động thi hành án dân sự. Thuyết phục các bên tự
nguyện thi hành án là nhiệm vụ của Chấp hành viên, của cơ quan thi hành án trong
quá trình tổ chức thi hành án. Thuyết phục trong thi hành án dân sự bắt nguồn từ
việc các bên đương sự có quyền tự nguyện thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự đã
được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi
hành bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, khi người phải thi hành án đã được

12


giải thích, thuyết phục, đôn đốc, vận động, mặc dù có điều kiện thi hành án mà tìm
mọi cách trì hoãn, trốn tránh, kéo dài việc thi hành án để không tự nguyện thi hành
án thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Cưỡng chế thi hành án thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án, bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực
được thi hành kịp thời, nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Cưỡng chế thi hành án ở đây
là dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực hiện hoặc không thực
hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng chế gắn liền với hoạt
động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường xuyên được áp dụng trong quản
lý Nhà nước. Cưỡng chế nhà nước có nhiều lĩnh vực đó là cưỡng chế hành chính,
hình sự, dân sự, thi hành án dân sự… Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được bổ
sung sửa đổi năm 2014) không định nghĩa thế nào là cưỡng chế thi hành án dân sự
nhưng theo Khoản 2 Điều 9 Luật thi hành án dân sự (được bổ sung sửa đổi năm
2014) quy định: “người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Do đó,
nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án khi có điều kiện thì người
có thẩm quyền thi hành án tiến hành cưỡng chế thi hành án. Theo pháp luật hiện
hành thì người có thẩm quyền trực tiếp thi hành án và áp dụng biện pháp cưỡng chế

thi hành án bao gồm Chấp hành viên và Thừa phát lại.
Hiện tại trong Luật thi hành án dân sự yếu tố “kinh doanh thương mại” chưa
được thể hiện rõ (ngoài đối tượng là quyết định trọng tài thương mại). Nhưng bản
án, quyết định dân sự được đề cập trong Luật thi hành án dân sự là bao hàm cả bản
án, quyết định về kinh doanh thương mại, do tính chất tương đồng giữa vụ án và
việc dân sự với vụ việc kinh doanh thương mại nên pháp luật thi hành án dân sự
không tách bạch giữa pháp luật thi hành án dân sự với pháp luật thi hành án kinh
doanh thương mại và giữa cưỡng chế thi hành án dân sự với cưỡng chế thi hành án
kinh doanh thương mại.
Như vậy, cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc
của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên hoặc Thừa phát lại quyết định theo
thẩm quyền quy định nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án) phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được
áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà

13


không tự nguyện thi hành án trong thời hạn do Chấp hành viên hoặc Thừa phát lại
ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi
tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Từ khái niệm này có thể khẳng định cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại là một bộ phận của cưỡng chế thi hành án dân sự.
1.1.2. Ý nghĩa của việc cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành án kinh doanh
thương mại nói riêng có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và
quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có
giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng,
bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước, do vậy khi điều kiện
thi hành đã có đủ mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án.
Cưỡng chế thi hành án có ý nghĩa hết sức to lớn, đóng vai trò quan trọng đối
với kết quả tổ chức thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; góp phần
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan;
góp phần đẩy nhanh quá trình thi hành án, làm giảm thiểu các chi phí không đáng
có; góp phần nâng cao ý thức của đương sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến
việc thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thi hành án là giải pháp có hiệu quả
nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án, đảm bảo được
hiệu lực của bản án, quyết định và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trước
thái độ không chấp hành án của người phải thi hành án. Trong thực tiễn cho thấy
trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nếu không áp dụng
biện pháp cưỡng chế thì sẽ không thể thi hành án được. Mặt khác, đây cũng là công
cụ quan trọng để bảo vệ triệt để lợi ích hợp pháp của người phải thi hành án. Bên
cạnh đó, biện pháp cưỡng chế còn có ý nghĩa trong việc răn đe, giáo dục ý thức
pháp luật của công dân, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật trong thi hành án.

14


Thông qua hoạt động thi hành án, những phán quyết của Tòa án nhân danh
Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành hiện thực, công lý và công
bằng xã hội được thực hiện trên thực tế; quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết
thúc khi bản án, quyết định của Tòa án được thi hành kịp thời và đầy đủ; phán
quyết của Tòa án có trở thành hiện thực hay không tùy thuộc vào quá trình thực
thi nó trong cuộc sống. Thông qua giai đoạn thi hành án, các bản án quyết định
của Tòa án mới có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Như vậy thi
hành án dân sự là một hoạt động không thể thiếu được của quá trình bảo vệ quyền

và lợi ích của đương sự. Từ đó công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các bản án,
quyết định của Tòa án được bảo đảm thực thi, góp phần củng cố, tăng cường uy
tín của cơ quan xét xử trước xã hội.
Cưỡng chế thi hành án có ý nghĩa quan trọng, vừa góp phần bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự vừa góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp
luật của họ và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong công tác thi hành án
dân sự. Cưỡng chế thi hành án góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương an toàn xã hội,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật của nhân dân.
1.2. Pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
1.2.1. Điều kiện áp dụng cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Theo quy định tại Điều 45, Điều 46 Luật Thi hành án dân sự thì điều kiện áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án được quy định cụ thể như sau:
“Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”.
“Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, hủy
hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên
áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV của Luật này”.

1

.Lê Dương Hưng (2015), Pháp luật thi hành án kinh doanh, thương mại từ thực tiễn thực hiện tại địa bàn
thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Đại học Mở Hà Nội. Tr 13-14

Như vậy, để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương
mại, Chấp hành viên cần xem xét các điều kiện. Điều kiện để áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại, đó là:

15



Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo bản
án, quyết định được đưa ra thi hành của Tòa án, quyết định của trọng tài, quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp phí
thi hành án.
Thứ hai, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Người phải có thể
được hiểu là người phải thi hành án có tài sản, có thu nhập khi phải thực hiện nghĩa
vụ thanh toán tiền hoặc tài sản trong bản án, quyết định tuyên kê biên xử lý để đảm
bảo nghĩa vụ thi hành án không tự nguyện thi hành án. Để khẳng định khi nào người
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án, cần căn cứ vào thời hạn tự nguyện thi
hành án được quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự là 10 ngày, kể từ ngày
người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp
lệ quyết định thi hành án.
Thứ ba, hết thời gian tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không
tự nguyện thi hành hoặc chưa hết thời gian tự nguyện nhưng để ngăn chặn việc tẩu
tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án (quy định tại Khoản 2
Điều 45 Luật thi hành án dân sự).
Với những điều kiện trên, thì cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
chỉ được áp dụng khi người phải thi hành án có nghĩa vụ phải thực hiện theo quyết
định của cơ quan có thẩm quyền và có thái độ, hành vi không tự nguyện thi hành án
mặc dù có điều kiện thi hành án (có điều kiện thi hành án được hiểu là trường hợp
người phải thi hành án có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản, tự mình
hoặc thông qua người khác thực hiện nghĩa vụ thi hành án). Nhưng quá trình tác
nghiệp, người có thẩm quyền thi hành án cần chú ý về việc áp dụng thời hạn tự
nguyện thi hành án là 10 ngày kể từ ngày nhận quyết định thi hành án, thông báo
hợp lệ.
1.2.2. Nguyên tắc áp dụng cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại là biện pháp cưỡng bức bắt
buộc của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên quyết định theo thẩm quyền quy
định nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những nghĩa vụ về tài chính

theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời gian do

16


Chấp hành viên ấn định, hoặc trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu
tán, hủy hoại tài sản. Như vậy, cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại là việc
Chấp hành viên trong thực thi công vụ đã sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc
người phải thi hành án thi hành nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên. Do đó,
Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế khi người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án và đã hết thời gian tự nguyện thi hành án hoặc trong trường
hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản. Vì vậy, về
nguyên tắc Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với tài sản
của người phải thi hành án để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án của họ mà không được
kê biên tài sản của người không có nghĩa vụ thi hành án (trừ trường hợp theo luật
định). Cưỡng chế thi hành án là một biện pháp nghiêm khắc nhất trong các biện
pháp thi hành án, do đó Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án không
được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định.
Xuất phát từ đặc trưng của thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành bản án,
phần quyết định của Tòa án về tài chính hoặc quyết định của trọng tài, quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc phải nộp phí
thi hành án nên đối tượng của cưỡng chế thi hành án là tài sản. Điều này hoàn toàn
khác biệt so với đặc trưng của thi hành án hình sự là nhằm hạn chế hoặc tước đoạt
quyền và lợi ích của người bị kết án. Chính vì vậy, cưỡng chế thi hành án hình sự
mang tính cứng rắn và tuyệt đối còn thi hành án dân sự mang tính nềm dẻo hơn.
Điều này thể hiện ở các nguyên tắc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thì cần phải đảm bảo
các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chỉ người có thẩm quyền thi hành án mới có quyền áp dụng biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự và chỉ được áp dụng một trong các biện pháp
cưỡng chế trong Luật thi hành án dân sự quy định.
Theo pháp luật hiện hành thì chỉ có cơ quan thi hành án và văn phòng thừa
phát lại mới được Nhà nước trao cho quyền tổ chức thi hành các bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền và trong các cơ quan này, chỉ
Chấp hành viên, Thừa phát lại mới có quyền quyết định áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự. Nếu các chủ thể khác, bằng sức mạnh của mình, bắt buộc
người khác phải thi hành án đều trái pháp luật. Để tránh sự lạm quyền của các chủ

17


thể trong việc cưỡng chế thi hành án dân sự, pháp luật đã quy định cụ thể các biện
pháp cưỡng chế, trình tự, thủ tục cưỡng chế mà người có thẩm quyền phải tuân thủ.
Điều 71 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định:
“1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án.
2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ.
4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không thực hiện công việc
nhất định”.
Như vậy, người có thẩm quyền thi hành án chỉ có thể áp dụng sáu biện pháp
cưỡng chế quy định tại Điều 71 Luật thi hành án dân sự.
Thứ hai, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự khi hết
thời gian tự nguyện thi hành, trừ trường hợp được áp dụng cưỡng chế ngay.
Hết thời hạn quy định tại Khoản 1 Điều 45 của Luật thi hành án dân sự năm
2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014), người phải thi hành án có điều kiện mà

không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác thi
hành án thật sự hiệu quả, với mục đích ngăn chặn những hành vi tẩu tán tài sản, hủy
hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án của đương sự trong thời gian tự
nguyện thi hành án thì chủ thể có thẩm quyền vẫn được áp dụng quy định tại
Chương IV Luật thi hành án dân sự.
Thứ ba, không được cưỡng chế thi hành án trong thời gian mà pháp luật quy
định không được cưỡng chế thi hành án.
Pháp luật quy định không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ
22 giờ đến 06 giờ sáng hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật
và các trường hợp đặc biệt như 15 ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày
truyền thống của các đối tượng chính sách. Quy định này xuất phát từ mục đích
nhân đạo đối với người phải thi hành án.

18


Thứ tư, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải tương ứng
với nghĩa vụ của người phải thi hành án và chi phí hợp lý về thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết. Trường hợp người phải
thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành
án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể
giá trị của tài sản thì người có thẩm quyền thi hành án vẫn có quyền áp dụng biện
pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
Không được kê biên những tài sản mà pháp luật quy định không được kê
biên. Tài sản không được kê biên gồm:
- Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc
phòng, an ninh, lợi ích công cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan,
tổ chức.

- Trường hợp tài sản của người phải thi hành án là cá nhân: Số lương thực
đáp ứng nhu cầu cần thiết của người phải thi hành án và gia đình trong thời gian
chưa có thu nhập, thu hoạch mới; Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của
người phải thi hành án và gia đình; Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng
dùng để chăm sóc người ốm; Đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa
phương; Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn được dùng làm phương
tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải thi hành án và gia đình; Đồ
dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình.
- Trường hợp tài sản của người phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã,
cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; số thuốc phục vụ việc phòng, chữa bệnh cho
người lao động; lương thực, thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho
người lao động; Nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế và thiết bị, phương tiện, tài sản khác
thuộc các cơ sở này, nếu không phải là tài sản để kinh doanh; Trang thiết bị,
phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng,
chống ô nhiễm môi trường.

19


- Nhà ở duy nhất của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế có diện tích tối
thiểu theo quy định của pháp luật về cư trú, tài sản đang được cầm cố, thế chấp hợp
pháp.
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ do người có thẩm quyền thi hành
án thực hiện. Nhưng không phải thực hiện một cách tùy tiện, theo ý kiến chủ quan
của họ mà phải dựa trên những căn cứ, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Trong
những trường hợp khác nhau việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là khác nhau. Do
đó, hiệu quả của việc thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào các biện pháp cưỡng chế
được áp dụng.

2


. Lê Thanh Tình (2016), Kê biên, xử lý tài sản trong thi hành án kinh doanh thương mại qua thực tiễn
tỉnh Thái Bình, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội

Nhưng đối với án kinh doanh thương mại là loại án có nghĩa vụ thanh toán
chính là tiền, nên việc cưỡng chế thi hành án được áp dụng theo các biện pháp đó
là: i) Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải
thi hành án; ii) Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; iii) Kê biên, xử lý tài
sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; iv) Khai thác
tài sản của người phải thi hành án.
1.2.3. Căn cứ cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Theo Điều 70 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm
2014), căn cứ tổ chức cưỡng chế thi hành gồm có: Bản án, quyết định; quyết định
thi hành án; quyết định cưỡng chế thi hành án, trừ trường hợp bản án, quyết định đã
tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Trên cơ sở pháp lý đã có, Chấp hành viên cần phải tuân thủ đúng và đầy đủ
những quy định của pháp luật để áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Nhưng
để có thể tổ chức được việc cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải thực hiện
những trình tự, thủ tục theo quy định.

20


1.2.4. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án kinh doanh thương mại
Thứ nhất, khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả

tiền theo bản án, quyết định mà người phải thi hành đang có tiền trong tài khoản
hoặc đang sở hữu giấy tờ có giá. Nếu người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ
trả tiền, mà họ đang giữ tiền, giấy tờ có giá hoặc gửi tại kho bạc, tổ chức tín dụng
thì biện pháp cưỡng chế này sẽ là biện pháp cưỡng chế hoàn toàn độc lập với các
biện pháp cưỡng chế thi hành án khác. Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế nào do
Chấp hành viên quyết định nhưng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài
khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là những biện
pháp đầu tiên mà Chấp hành viên phải cân nhắc để lựa chọn. Chỉ khi nào không đủ
điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế này thì Chấp hành viên mới lựa chọn các
biện pháp cưỡng chế khác.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án được quy định tại các Điều 71, Điều 76 và từ Điều 79 đến
Điều 83 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi bổ sung năm 2014).
Đối tượng của biện pháp này là tiền và giấy tờ có giá. Tiền bị cưỡng chế có
thể là tiền trong tài khoản Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc tiền mà chính họ đang
giữ, thu nhập từ hoạt động kinh doanh hàng ngày và tiền do người thứ ba đang giữ.
Nhìn chung những quy định này hầu như đã khắc phục được những hạn chế
của pháp lệnh thi hành án dân sự 2004 về vấn đề khấu trừ, thu hồi xử lý tiền giấy tờ
có giá của người phải thi hành án. Tuy nhiên còn một số điểm mà pháp luật quy
định chưa được phù hợp. Ví dụ: Nếu người phải thi hành án có tài khoản tại Ngân
hàng nhưng nguồn lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của họ
và gia đình, ngoài ra họ không có tài sản nào khác mà người có thẩm quyền thi hành

21


án khấu trừ hết nghĩa vụ thi hành án và chi phí cưỡng chế thì người phải thi hành án
không đảm bảo được cuộc sống.
Như vậy, để phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta thì pháp luật thi
hành án dân sự phải quy định theo hướng người có thẩm quyền thi hành án không

được khấu trừ hết số tiền trong tài khoản của người phải thi hành án để thực hiện
nghĩa vụ mà nguồn lợi thu được từ việc gửi tài sản đó là nguồn sống duy nhất của
người phải thi hành án và gia đình họ.
Thứ hai, trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
Biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án là một trong các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định. Người phải thi
hành án có thu nhập thực tế và không tự nguyện thi hành.
Biện pháp trừ vào thu nhập được quy định tại Điều 78 Luật thi hành dân sự.
Giống với đối tượng của biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, đối tượng của biện
pháp này cũng là tiền, nhưng thu nhập theo quy định của biện pháp cưỡng chế biện
pháp trừ vào thu nhập khác với thu nhập từ hoạt động kinh doanh của biện pháp
khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá. Theo quy định của
pháp luật, tiền bị cưỡng chế là thu nhập của người phải thi hành án gồm: tiền lương,
tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác.
Việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án được thực hiện theo thỏa
thuận của đương sự; bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của người phải thi
hành; thi hành án cấp dưỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi hành
không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành án.
Mức trừ cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ
cấp mất sức lao động là 30% tổng số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp
đương sự có thỏa thuận khác. Đối với thu nhập khác thì mức khấu trừ căn cứ vào
thu nhập thực tế của người phải thi hành án, nhưng phải đảm bảo điều kiện sinh
hoạt tối thiểu của người đó và người được nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.
Đối với lĩnh vực xử lý vi phạm hành chính thì mức đối với tiền lương, bảo hiểm xã

22


hội tỷ lệ khấu trừ mỗi lần không quá 30% tổng số tiền lương, bảo hiểm xã hội được

hưởng. Đối với những khoản thu nhập khác, tỷ lệ khấu trừ mỗi lần không quá 50%
tổng số thu nhập.
Cơ quan, tổ chức, người sử dụng lao động, Bảo hiểm xã hội nơi người phải
thi hành án nhận tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp và các thu nhập
hợp pháp khác có trách nhiệm thực hiện quyết định trừ vào thu nhập. Nhưng một số
cơ quan, đơn vị không phối hợp để thực hiện việc khấu trừ vì họ cho rằng ngành
cấp trên trực tiếp của họ không quy định buộc phải thực hiện và chưa có quy định
phối hợp bằng văn bản giữa hai cơ quan với nhau.
Thứ ba, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang
do người thứ ba giữ.
Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án là một trong các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, được áp dụng trong trường hợp người phải
thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo bản án, quyết định. Người phải thi
hành án chỉ có tài sản và không tự nguyện thi hành án.
Biện pháp kê biên, xử lý tài sản của người thi hành án được quy định tại các
Điều 74, Điều 75, Điều 84, Điều 89 đến Điều 98 và Điều 111 Luật thi hành án dân
sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014). Theo đó, đối tượng của biện pháp
này là tài sản bao gồm: tài sản là vật, vốn góp, nhà ở, tài sản gắn liền với đất,
phương tiện giao thông, hoa lợi, quyền sở hữu trí tuệ và quyền sử dụng đất.
Theo Điều 163 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Từ đó có thể thấy, hai đối tượng là tiền và giấy
tờ có giá không được pháp luật thi hành án quy định được kê biên, xử lý. Như vậy
có thể hiểu tài sản bị kê biên không bao gồm tiền, giấy tờ có giá.
Những tài sản của người thi hành án không được kê biên: i) Tài sản bị cấm
lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích
công cộng, tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức; ii) Số lương
thực đáp ứng nhu cầu cần thiết yếu của người phải thi hành án và gia đình trong thời
gian chưa có thu nhập, thu hoạch mới; iii) Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh

23



của người phải thi hành án và gia đình; iv) Công cụ lao động cần thiết, có giá trị
không lớn được dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người
phải thi hành án và gia đình; v) Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho người phải thi hành
án và gia đình.
Khi tiến hành kê biên tài sản của người phải thi hành án, người có thẩm
quyền thi hành án phải phân biệt tài sản thuộc sở hữu chung hoặc đang có tranh
chấp hay không.
Theo quy định tại Điều 91 Luật thi hành án dân sự và Điều 23 Nghị định
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, khi Chấp hành viên xác minh tài
sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ, trong trường hợp: Tài sản
của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ đã được xác định bằng bản án,
quyết định của Tòa án, khi Chấp hành viên xác minh điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án mà phát hiện tổ chức, cá nhân đang phải trả tiền, tài sản cho
người phải thi hành án mà khoản tiền, tài sản đó đã được xác định bằng bản án,
quyết định của Tòa án đang có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên áp dụng biện
pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết đối với tổ chức, cá nhân đó để thu tiền, tài sản
thi hành án. Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường hợp này do tổ chức, cá
nhân bị cưỡng chế thi hành án chịu. Tuy nhiên, xử lý tài sản đã được xác định bằng
bản án, quyết định của Tòa án. Nhà nước luôn khuyến khích các đương sự thỏa
thuận tự thi hành án cho nhau hoặc yêu cầu Thừa phát lại tổ chức thi hành án. Do đó
Chấp hành viên cần xác định, làm rõ đối với các trường hợp đã thi hành án không
thông qua cơ quan thi hành án để tránh tình trạng buộc một người phải thi hành án
hai lần cho một nghĩa vụ. Trường hợp tài sản của người phải thi hành án đang do
người thứ ba giữ xác định không bằng bản án, quyết định của Tòa án, thì để có cơ
sở kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ, Chấp
hành viên phải làm rõ tài sản đó là tài sản gì và tài sản đó là của người phải thi hành
án (ví dụ, tài sản đó được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu,
quyền sử dụng hoặc công nhận là của người phải thi hành án); Người thứ ba đang

giữ thông qua thỏa thuận, hợp đồng, ủy quyền hợp pháp của người phải thi hành án
đối với người thứ ba.

24


Đối với trường hợp tài sản là tiền thì Chấp hành viên phải xác định chính xác
số tiền là bao nhiêu để làm cơ sở yêu cầu người thứ ba thực hiện, Chấp hành viên
chỉ được yêu cầu họ giao nộp tài sản có giá trị bằng nghĩa vụ thi hành án cộng với
chi phí cưỡng chế (nếu có). Trường hợp Chấp hành viên đã ra quyết định cưỡng chế
thu tiền của người thứ ba trong đó đã xác định số tiền cụ thể thì chỉ được yêu cầu
người thứ ba chuyển đúng số tiền đã nêu trong quyết định.
- Trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung: tại Điều 74 Luật thi hành án dân sự
quy định trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi
hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, người có thẩm quyền thi hành án
phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế để họ thực hiện quyền
khởi kiện tại Tòa án để xác định phần sở hữu của mình. Trong thời hạn 30 ngày, kể
từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người
được thi hành án hoặc người có thẩm quyền thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án
xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo
đảm thi hành án. Đối với tài sản thuộc sở hữu chung của vợ, chồng thì người có
thẩm quyền thi hành án xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp
luật về hôn nhân gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc
chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung
trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được người có thầm quyền thi hành
án xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì người có thẩm quyền
thi hành án tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người
phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.
- Trường hợp xử lý tài sản đang có tranh chấp: Người có thẩm quyền thi
hành án tiến hành cưỡng chế và yêu cầu đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại

Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Người có thẩm quyền thi
hành án xử lý tài sản đã kê biên theo quyết định của Tòa án, cơ quan có thẩm
quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người có thẩm quyền thi hành án yêu
cầu mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ
quan có thẩm quyền giải quyết thì tài sản được xử lý để thi hành án theo quy định
của luật này.

25


×