Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 84 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn mang tính mới và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thị Thu Hương


LỜI CẢM ƠN

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế với đề tài “Thẩm quyền theo vụ
việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” là kết quả của quá trình cố gắng
không ngừng nghỉ của bản thân cùng sự nhiệt tình trợ giúp của các thầy/cô, đồng
nghiệp.
Tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới TS. Bùi Thị Huyền đã trực tiếp hướng
dẫn, tận tình cung cấp các thông tin khoa học cần thiết và thực sự quý báu cho luận
văn này.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo trường Viện Đại học Mở Hà Nội, khoa Sau
đào tạo đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt công việc nghiên cứu khoa học của
mình.
Cuối cùng, với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn các anh/chị tại
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân TP. Hà Nội đã giúp đỡ tôi trong
quá trình nghiên cứu khoa học và thực hiện Luận văn.

TÁC GIẢ


Ngô Thị Thu Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮ NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI
VIỆC CỦ A TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI ................................................................................................................... 6
1.1. Khái niệm thẩm quyền thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án trong việc
giải quyết tranh chấp Kinh doanh thương mại ............................................................. 6
1.2.
mại

Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
12

1.3. Đặc điể m thẩ m quyền về dân sự theo loa ̣i viêc̣ của Tòa án nhân dân trong viêc̣
giải quyế t tranh chấ p kinh doanh thương ma ̣i ............................................................ 17
1.4. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án về giải
quyết tranh chấp kinh doanh thương mại ................................................................... 21
1.5. Cơ sở khoa ho ̣c của viêc̣ xây dựng quy đinh
̣ pháp luâ ̣t về thẩ m quyề n dân sự
theo loa ̣i viêc̣ của Tòa án nhân dân trong viêc̣ giải quyế t tranh chấ p kinh doanh
thương mại ...................................................................................................................... 22
1.5.1. Xuất phát từ chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp ................... 23
1.5.2. Xuất phát từ tính chất quan hệ pháp luật nội dung mà Tòa án cần giải quyết ... 24
1.5.3. Xuất phát từ quyền định đoạt của các đương sự ................................................. 25
1.5.4. Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước và xuất phát từ thực
tiễn giải quyết các tranh chấp ...................................................................................... 25
1.6. Lịch sử hin

̀ h thành và phát triể n của hệ thống Tòa án, pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa
án…….............................................................................................................................. 26
1.6.1. Lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Tòa án trên thế giới ................... 26
1.6.2. Lịch sử hình thành và phát triể n của hệ thống Tòa án, pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại của Tòa án... 28
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀ NH VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI
VIỆC CỦ A TÒA ÁN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI ................................................................................................................. 34
2.1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh thương mại giữa cá nhân,
tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận .................. 34
2.2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận............................................................... 37


2.3. Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty .................................. 39
2.4. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng
quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty…… .............................................................................................................................. 40
2.5. Các tranh chấp khác về kinh doanh thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật ............... 43
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN DÂN SỰ
THEO VỤ VIỆC CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. HÀ NỘI VÀ HƯỚNG
HOÀN THIỆN................................................................................................................... 48
3.1. Thư ̣c tiễn áp du ̣ng quy đinh

̣ của pháp luâ ̣t TTDS về thẩm quyền dân sự theo
vụ việc của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại .......................................................................................................... 48
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thụ lý, xét xử tranh chấp kinh doanh thương
mại tại TAND TP Hà Nội.............................................................................................. 50
3.1.2. Những tồn tại, hạn chế trong giải quyết vụ án kinh doanh thương mại tại Tòa án
nhân dân TP Hà Nội ..................................................................................................... 53
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về thẩm quyền dân sự
theo vụ việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại .............. 70
3.2.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật ....................................... 70
3.2.2. Thống nhất nội hàm của khái niệm kinh doanh thương mại trong toàn bộ văn bản
pháp luật của hệ thống pháp luật hiện hành ................................................................ 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 76


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

BPKCTT

:

Biện pháp khẩn cấp tạm thời


GĐT

:

Giám đốc thẩm

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

HĐTP

:

Hội đồng Thẩm phán

HĐTPTANDTC

:

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐTT

:

Hội đồng trọng tài


KDTM

:

Kinh doanh, thương mại

LTM

:

Luật Thương mại

NXB

:

Nhà xuất bản

PT

:

Phúc thẩm

TAND

:

Tòa án nhân dân


TTDS

:

Tố tụng dân sự

TTTM

:

Trọng tài thương mại

VKS

:

Viện Kiểm sát

ST

:

Sơ thẩm

STTĐS

:

Sự thỏa thuận của đương sự



DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 01

Tình hình thụ lý và giải quyết các tranh
chấp KDTM tại TAND TP Hà Nội trong
giai đoạn từ năm 2012-2016

50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
thế giới, các quan hệ KDTM ngày càng đa dạng, phong phú và tương ứng với đó là
các tranh chấp KDTM ngày càng muôn hình muôn vẻ và với số lượng lớn hơn.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như
tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần được
giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi tranh chấp trong KDTM xảy ra, để
đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các
bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa
thuận được với nhau, đáp ứng yêu cầu giải quyết các tranh chấp KDTM của cá nhân,
tổ chức trong nền kinh tế đã hình thành nhiều phương thức giải quyết như: Thương

lượng, hòa giải, giải quyết theo thủ tục Trọng tại, giải quyết theo thủ tục tư pháp. Ở
Việt Nam, các đương sự thường lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp KDTM
bằng Tòa án như một giải pháp cuối cùng để bảo vệ các quyền và lợi ích của mình
khi thất bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng, hòa giải. Một thực tế tại Việt
Nam là hơn 95% các tranh chấp về KDTM được tòa án các cấp xét xử.
Thực tế giải quyết các vụ án KDTM của các Tòa án cho thấy các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự hiện hành còn nhiều bất cập, các tranh chấp KDTM có nhiều
điểm khác với tranh chấp dân sự nhưng được giải quyết theo các quy định chung về
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự nói chung mà không có các quy định riêng là chưa
phù hợp.
Trước những yêu cầu của thực tiễn, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của
pháp luật về thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM nhằm
góp phần làm sáng tỏ thêm về lý luận cung như thực tiễn, tìm ra những hạn chế,
vướng mắc trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, từ đó đề xuất các giải pháp

1


hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ án kinh tế
theo tinh thần cải cách tư pháp là hết sức cần thiết và rất được quan tâm trong khoa
học pháp lý ở Việt Nam hiện này.
Do vậy, tác giả đã chọn đề tài “Thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân
trong việc giải quyết tranh chấp KDTM từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội” để làm luận văn thạc sĩ Luật kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước và sau khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã có rất nhiều khóa
luận tốt nghiệp, luận văn, luận án, bài viết về các vấn đề liên quan đến giải quyết
tranh chấp KDTM. Các công trình nghiên cứu khoa học của các học giả đề cập các
vấn đề liên quan đến thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của Trọng tài; vấn đề tranh
chấp kinh tế, tranh chấp kinh doanh thương mại dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy

nhiên, kể từ thời điểm một số văn bản pháp luật đã có hiệu lực như: Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015; Bộ luật dân sự năm 2015 (có hiệu lực từ 01/01/2017) đến nay chưa
có văn bản hướng đẫn thực hiện cũng như chưa có nhiều nghiên cứu toàn diện về
thẩm quyền dân sự của tòa án theo vụ việc về giải quyết tranh chấp KDTM.
Trong khi đó, vấn đề xác định thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án về
giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại trong tố tụng dân sự còn nhiều vướng
mắc và có nhiều ý kiến khác nhau đòi hỏi cần phải có sự nghiên cứu một cách công
phu và nghiêm túc nhằm đề ra những giải pháp cho việc hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này. Trước bối cảnh này, bản luận văn “Thẩm
quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” là công trình được nghiên
cứu một cách chuyên sâu, toàn diện cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn về vấn đề này.

2


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
- Làm rõ những vấn đề lý luận về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân
dân trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Đánh giá đúng thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền theo
vụ việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Nhận diện được những vướng mắc, bất cập của pháp luật Việt Nam hiện
hành về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh
chấp KDTM và thực tiễn thực hiện. Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm hiệu
quả việc giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, nhiệm vụ của việc nhiên cứu đề tài bao
gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền theo vụ việc của tòa

án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền
theo vụ việc của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Khảo sát, thu thập và tổng hợp thực tiễn thực hiện các quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong việc
giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài gồm các vấn đề sau:
-

Những vấn đề lý luận về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong

việc giải quyết tranh chấp KDTM;

3


- Các quy định của pháp luật về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân
trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Thực tiễn thực hiện giải quyết tranh chấp KDTM tại tòa án nhân dân.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài gồm những vấn đề cơ bản sau:
- Những vấn đề lý luận về thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân trong
việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp ở Việt Nam trong
những năm gần đây;
- Các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thẩm quyền theo vụ việc
của tòa án nhân dân trong việc giải quyết tranh chấp KDTM;
- Thực tiễn thực hiện thẩm quyền theo vụ việc của tòa án nhân dân thành phố

Hà Nội trong việc giải quyết tranh chấp KDTM trong những năm gần đây;
- Các giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn cũng sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp lịch sử, phân tích thống kê, tổng
hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn logic và thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề
nghiên cứu.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và thực tiễn vấn đề, xác định
những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền dân sự theo vụ việc
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM. Tác giải mong muốn đây là công
4


trình nghiên cứu có giá trị về mặt lý luận cũng như thực tiễn để làm tài liệu tham
khảo cũng như tạo những gợi ý có giá trị cho các nhà lập pháp hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm: Lời nói đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung của Luận văn gồm… chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa
án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại.
Chương 2: Pháp luật hiện hành về thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án
về tranh chấp kinh doanh thương mại.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án nhân dân TP Hà Nội trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại.


5


Chương 1:
NHỮ NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN DÂN
SỰ THEO VỤ VIỆC CỦA TÒA ÁN TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH
THƯƠNG MẠI
1.1.

Khái niệm thẩm quyền thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án trong

việc giải quyết tranh chấp Kinh doanh thương mại
Thẩm quyền của Tòa án được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức Toà án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự,
Luật tố tụng hành chính và các văn bản pháp luật khác. Qua đó, nội hàm của khái
niệm thẩm quyền của Tòa án được hiểu với những cấp độ và nội dung khác nhau. Cụ
thể: Thẩm quyền được hiểu là quyền chính thức được xem xét để kết luận và định
đoạt, quyết định một bấn đề. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa nhán
nhân dân (Tòa án) là quyền thụ lý, xem xét và ban hành các quyết định khi giải quyết
vụ việc dân sự theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, để xác định đúng thẩm quyền của Tòa
án khi thụ lý giải quyết vụ việc dân sự thì Tòa án và đương sự phải xem xét trên các
phương diện: thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, thẩm quyền của Tòa án theo cấp
quản lý hành chính, lãnh thổ và thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên
đơn, người yêu cầu.
Việc xác định thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án có ý nghĩa quan
trọng trong việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án với các cơ quan Nhà nước
khác. Đồng thời, đây cũng là căn cứ để Tòa án áp dụng thủ tục giải quyết vụ án dân

sự hay thủ tục giải quyết việc dân sự để giải quyết. Phân định thẩm quyền góp phần
làm cho Toà án giải quyết đúng đắn, có hiệu quả các vụ việc dân sự; giảm chồng

6


chéo khi thực hiện nhiệm vụ; giúp các bên đương sự lựa chọn chính xác Tòa án có
chức năng, thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tiết kiệm thời
gian, công sức, chi phí… Tòa án có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự được
quy định từ Điều 26 đến Điều 33 BLTTDS năm 2015.
Để phân biệt thẩm quyền của Tòa án với thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức
khác trong việc giải quyết các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội; phân định thẩm
quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự với
thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng hình sự
và tố tụng hành chính; pháp luật tố tụng dân sự đã quy định thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo vụ việc. Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo vụ việc là thẩ m quyề n của
Tòa án trong viê ̣c thu ̣ lý, giải quyế t các vu ̣ việc theo thủ tu ̣c tố tu ̣ng dân sự.
Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 1 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định: "Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, KDTM, lao động,
hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật"; "Tòa án nhân
dân (sau đây gọi là Tòa án) giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và
gia đình, KDTM, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) và trình tự, thủ tục
yêu cầu để Tòa án giải quyết các việc về yêu cầu dân sự, hôn nhân và gia đình,
KDTM, lao động (sau đây gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ
án dân sự, việc dân sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Tòa án".
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam chưa có quy định cụ thể về
khái niệm tranh chấp KDTM. Thuật ngữ KDTM còn được hiểu nhầm lẫn với các
thuật ngữ khác như thương mại, kinh tế… dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về vụ
án KDTM. Vì vậy, việc xây dựng hoàn chỉnh khái niệm tranh chấp KDTM là điều

cần thiết để làm cơ sở pháp lý cho việc xác định ranh giới thẩm quyền cung như trình
tự thủ tục trong quá trình giải quyết các vụ án KDTM.
Thuật ngữ “tranh chấp” nói chung được hiểu là những bất đồng, mâu thuẫn về
quyền lợi và nghĩa vụ phát sinh giữa các bên liên quan. Những bất đồng, mâu thuẫn

7


này phát sinh từ những quan hệ xã hội do nhiều ngành luật điều chỉnh. Tranh chấp
dân sự được quy định tại Điều 26 BLTTDS năm 2015 là những bất đồng, mâu thuẫn,
xung đột lợi ích pháp lý giữa ít nhất hai bên trong lĩnh vực dân sự theo nghĩa hẹp
(phân biệt với tranh chấp trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, KDTM, lao động) được
điều chỉnh bởi pháp luật dân sự.
Trong khi đó, tranh chấp trong kinh doanh hay tranh chấp thương mại là thuật
ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Khái niệm này
mới được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở Việt Nam trong mấy năm gần đây cùng với
sự nhường bước của khái niệm tranh chấp kinh tế - một khái niệm quen thuộc trong
cơ chế kế hoạch hóa tập trung. Ở giai đoạn này, nền kinh tế được quản lý bằng mệnh
lệnh hành chính là chủ yếu, với hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch do nhà nước giao. Hợp
đồng kinh tế thời kỳ này không chỉ là một hình thức pháp lý để triển khai các hoạt
động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế, mà còn được sử dụng như một
công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước. Do vậy, việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế là một kỷ luật bắt buộc chứ không hoàn toàn từ lợi ích kinh tế của các bên
tham gia hợp đồng. Vì vậy, trách nhiệm thực hiện hợp đồng giữa các bên tham gia
quan hệ với nhau bị coi nhẹ hơn so với trách nhiệm của các bên đối với cơ quan chủ
quản. Trách nhiệm phát sinh do vi phạm hợp đồng kinh tế nhẹ về yếu tố vật chất mà
nặng về tính chất hành chính. Có thể nói, các tranh chấp kinh tế trong giai đoạn nà
không thể hiện rõ bản chất của tranh chấp KDTM, tranh chấp phát sinh do xung đột
lợi ích của các bên và việc giải quyết tranh chấp cũng không xuất phát từ quyền lợi
thiết thực của các bên mà còn chủ yếu vì sự ổn định, hài hòa chung cho cả nền kinh

tế.
Khái niệm tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập trong Luật Thương
mại năm 1997. Theo Luật Thương mại, tranh chấp thương mại là tranh chấp phát
sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động
thương mại. Ngoài ra, khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật
Thương mại lại có nội hàm rất hẹp so với quan niệm phổ biến của các nước trên thế
giới về thương mại. Quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại
8


theo Luật Thương mại đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp
thương mại, mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi các tranh chấp đó là tranh
chấp thương mại trong ngữ cảnh đương đại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp
luật, giữa luật quốc gia với luật quốc tế, trong đó có cả những công ước quốc tế quan
trọng mà Việt Nam đã là thành viên, gây không ít những trở ngại, rắc rối trong thực
tiễn áp dụng và chính sách hội nhập.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 không trực tiếp đưa ra định nghĩa về
tranh chấp thương mại, song với sự hiện diện của khái niệm “hoạt động thương mại”
theo nghĩa rộng đã tạo ra sự tương đồng trong quan niệm về “thương mại” và “tranh
chấp thương mại” của pháp luật Việt Nam với chuẩn mực chung của pháp luật và
thông lệ quốc tế. Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại, hoạt động thương mại là việc
thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại;
ký gửi; thuê, cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li xăng; đầu tư; tài
chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách
bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương
mại khác theo quy định của pháp luật.
Với quy định này, khái niệm thương mại theo pháp luật Việt Nam đã được mở
rộng, phù hợp với khái niệm thương mại trong Luật mẫu của Liên Hợp Quốc về trọng
tài (UNCITRAL Model Law)1, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và WTO.

Vấn đề này vừa có ý nghĩa trong việc bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể hoạt
động thương mại tham gia vào việc giải quyết tranh chấp, vừa mở rộng khả năng
được công nhận và thi hành tại Việt Nam các phán quyết của trọng tài nước ngoài.
Sự đột phá của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 trong việc đưa khái niệm

1

UNCITRAL (1985), Model Law on International Commercial Arbitration, with

amendments as adopted in 2006.

9


“hoạt động thương mại” tiếp cận với chuẩn mực chung của thông lệ và pháp luật
quốc tế đã mở màn cho việc xem xét tiếp theo của các văn bản pháp luật khi đề cập
đến lĩnh vực thương mại (hay kinh doanh) - một lĩnh vực đầy sôi động và phức tạp
trong thực tiễn.
Luật Thương mại năm 2005 đưa ra khái niệm khá đơn giản về hoạt động thương
mại nhưng cũng khắc họa đủ nội hàm của khái niệm. Theo khoản 1 Điều 3 Luật này,
hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác. Cũng theo khái niệm này, quan niệm về hoạt động thương mại cũng
đã được mở rộng, bao gồm mọi hoạt động có mục đích sinh lợi. Hướng tiếp cận này
của Luật Thương mại năm 2005 cho thấy, khái niệm về hoạt động thương mại đã
được mở rộng tương đồng với khái niệm kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp năm
1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005 và nay là Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Theo khoản 6 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014, kinh doanh là việc thực
hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất
đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh

lợi.
Điều 30 Bộ Luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 (BLTTDS 2015) cũng đã
liệt kê các tranh chấp về KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bao gồm:
(i) Tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (ii) Tranh chấp về quyền sở hữu
trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; (iii) Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao
dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; (iv) Tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người
quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám
đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn

10


giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (v) Các tranh
chấp khác về KDTM, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ
chức khác theo quy định của pháp luật.
Luật Trọng tài thương mại năm 2010 cũng liệt kê các tranh chấp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài, bao gồm: (i) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ
hoạt động thương mại; (ii) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại; (iii) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy
định được giải quyết bằng trọng tài.
Như vậy, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không sử dụng thuật ngữ
“tranh chấp thương mại” hay “tranh chấp trong kinh doanh” mà sử dụng thuật ngữ
“tranh chấp về KDTM”, nhưng nội dung của các tranh chấp về KDTM được liệt kê
tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thực chất là các tranh chấp thương mại
theo hướng tiếp cận của Luật Thương mại năm 2005 và Luật Trọng tài thương mại
năm 2010.

Từ nội dung xem xét nêu trên, có thể hiểu: “Tranh chấp trong kinh doanh (hay
tranh chấp thương mại) là những bất đồng, mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ phát
sinh giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh doanh hoặc có liên
quan đến hoạt động kinh doanh”.
Các tranh chấp KDTM có đặc điểm sau: (i) Tranh chấp về KDTM nảy sinh trực
tiếp từ các quan hệ kinh doanh và luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Đó là hệ
quả phát sinh từ quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các bên
liên quan với chủ thể kinh doanh trong quá trình tiến hành các hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi; (ii) Vấn đề giải quyết tranh chấp trong KDTM do các bên tranh chấp
tự định đoạt (có thể giải quyết bằng nhiều cách khác nhau như thương lượng, hòa
giải, trọng tài và tòa án); (iii) Các bên tranh chấp thương mại thường là chủ thể kinh
doanh có tư cách tương nhân; (iv) Tranh chấp KDTM là những tranh chấp mang yếu
tố vật chất và thường có giá trị lớn.

11


Qua đó, thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp KDTM được
hiểu là: Quyền của một Tòa án hoặc các Tòa án trong hệ thống Tòa án nhân dân được
tiến hành những thủ tục giải quyết một tranh chấp KDTM cụ thể theo quy định của
pháp luật tố tụng. Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết tranh chấp KDTM xác
định những tranh chấp nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, tranh chấp nào
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan nhà nước khác. Một tranh chấp thuộc thẩm
quyền của Tòa án thì tranh chấp đó do Tòa án nào giải quyết. Thẩm quyền của Tòa
án trong giải quyết tranh chấp KDTM dựa trên quy định của pháp luật. Pháp luật quy
định những TCKDTM nào thuộc thẩm quyền của Tòa án. Những tranh chấp KDTM
thuộc thẩm quyền của Tòa án được xác định căn cứ vào các yếu tố: tính chất riêng
biệt của các quan hệ pháp luật về KDTM; thành phần chủ thể của quan hệ pháp luật
về KDTM; mục đích của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật về KDTM.
1.2.


Vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương

mại
Giải quyết tranh chấp KDTM có thể hiểu là cách thức, phương pháp cũng như
các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh chấp phát sinh, nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh doanh. Xuất phát từ quyền tự do kinh doanh,
bao hàm cả quyền tự do lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp cho phù hợp
nhất. Thực tiễn đã hình thành 04 phương thức giải quyết tranh chấp đó là: (i) Thương
lượng, (ii) Hòa giải, (iii) Trọng tài, và (iv) Tòa án. Trong đó:
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp KDTM được tiến hành giữa
các bên (hoặc đại diện của các bên) tranh chấp để cùng tìm ra và đi đến những thỏa
thuận thống nhất bằng những giải pháp phù hợp với tất cả các bên nhằm chấm dứt
những tranh chấp trong hoạt động kinh doanh.
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp KDTM có sự tham gia của bên
thứ ba giữ vai trò trung gian hòa giải nhằm giúp cho các bên tranh chấp thu hẹp
những bất đồng và đi đến giải pháp giải quyết vụ tranh chấp.

12


Trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của Trọng tài
viên (hoặc Hội đồng Trọng tài), với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt
xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
Tòa án là phương thức giải quyết tranh chấp tại cơ quan xét xử nhân danh quyền
lực nhà nước, được tiến hành theo trình tự, thủ tục nghiêm ngặt, chặt chẽ và bản án
hay quyết định của Tòa án về vụ tranh chấp nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ
được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
Khi có tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM, các bên thường lựa chọn
phương thức giải quyết bằng thương lượng đầu tiên. Tuy nhiên thương lượng lại phụ

thuộc vào khả năng cũng như kỹ năng đàm phán thương lượng, ý chí của các bên
tranh chấp. Đối với phương thức giải quyết bằng hòa giải cũng có hạn chế bởi nền
tảng của hòa giải vẫn được quyết định trên cơ sở tự nguyện thi hành của các bên. Bởi
vậy, nếu một bên không trung thực, thiếu thiện chí hợp tác trong quá trình đàm phán
thì hòa giải cũng khó đạt được kết quả cao.
Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới hiện nay chủ yếu sử dụng
hai phương thức giải quyết tranh chấp KDTM là Trọng tài và Tòa án. Có thể thấy
phương thức Trọng tài có nhiều ưu điểm như thể thức giải quyết tranh chấp nhanh,
gọn, mềm dẻo, linh hoạt và đặc biệt có đội ngũ Trọng tài viên là những chuyên gia
trong các lĩnh vực KDTM. Ưu điểm này không thể tìm thấy ở phương thức giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án với những trình tự thủ tục kéo dài. Tuy nhiên, ưu điểm nổi
bật của phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là tính quyền lực nhà nước.
Trên thực tế, phương thức Trọng tài được ưu chuộng hơn đặc biệt ở các nước có nền
kinh tế thị trường phát triển. Tuy nhiên, ở các nước đang phát triển và chậm phát
triển thì Tòa án vẫn là cơ quan giải quyết tranh chấp KDTM chủ yếu. Tòa án là cơ
quan tư pháp có quyền nhân danh ý chí quyền lực của nhà nước khi xét xử các vụ
tranh chấp. Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang
nhân dân và mọi công dân tôn trọng, chấp hành. Trong trường hợp bản án không
được tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế bởi quyền lực nhà nước. Có thể lấy ví
13


dụ ở Việt Nam, “trong khi mỗi Thẩm phán ở Toà kinh tế Thành phố Hà Nội phải xử
trên 50 vụ một năm, ở Toà kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh xử trên 70 vụ một năm,
thì mỗi Trọng tài viên của VIAC chỉ xử 4 vụ một năm”. 2 Giải thích cho việc các
doanh nghiệp Việt Nam chưa thật sự “mặn mà” với việc đem tranh chấp của mình ra
giải quyết tại Trọng tài. Rõ ràng các nhà kinh doanh của ta chưa đặt trọn niềm tin
vào các Trọng tài viên, cũng như chưa hoàn toàn coi trọng hiệu quả của việc giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hiệu lực thi hành của các quyết định Trọng tài.

Qua sự phân tích trên có thể thấy, giải quyết tranh chấp KDTM bằng Tòa án
vẫn chiếm ưu thế chủ đạo trong việc lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp
KDTM ở nước ta. Theo thống kê có đến hơn 95% tranh chấp hợp đồng thương mại
trong nước được đưa ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo
quy định của BLTTDS. Bằng các quyết định và bản án của Tòa án, các bên có tranh
chấp buộc phải thực hiện để khắc phục và chấm dứt tranh chấp, đảm bảo cho hoạt
động KDTM trong nền kinh tế diễn ra trong trật tự lập pháp. Ưu thế này không có ở
các phương thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải ngoài tố
tụng, hoặc nếu có như Trọng tài thì cũng không được đảm bảo một cách triệt để.
Mặc dù vậy, giữa Tòa án và Trọng tài thương mại vẫn có mối quan hệ tương
hỗ trong giải quyết tranh chấp KDTM. Theo đó, Luật Trọng tài thương mại năm
2010 (Luật TTTM) đã ra đời và có nhiều quy định mang tính “hỗ trợ” của Tòa án đối
với hoạt động của trọng tài thương mại.
Thứ nhất, xuất phát từ bản chất của trọng tài: Trọng tài thương mại là cơ quan
tài phán phi chính phủ có quyền lực bắt nguồn từ “quyền lực hợp đồng” do các bên
tranh chấp giao phó, ủy nhiệm, do đó, trọng tài không mang trong mình quyền lực
nhà nước khi giải quyết tranh chấp, phán quyết của trọng tài không mang tính quyền
lực nhà nước, không đại diện cho ý chí của Nhà nước, chỉ đại diện cho ý chí của các
bên tranh chấp. Điều này đã đặt ra cho TTTM những khó khăn khi không có sự đồng
thuận, hợp tác, thiện chí của cả hai bên tranh chấp trong quá trình tố tụng cũng như
1

Báo cáo thống kê năm 2010 của Trung tâm Trọng tài quốc tế (VIAC).

14


việc thi hành phán quyết trọng tài. Khi những khó khăn này vượt ra khỏi sự kiểm
soát của trọng tài và cần đến sự giúp đỡ của Tòa án và các cơ quan tư pháp khác. Vì
vậy, sự hỗ trợ của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tránh bế tắc cho hoạt động

trọng tài, để trọng tài có thể giải quyết tốt các tranh chấp mà các bên đã tin tưởng
giao phó. Ví dụ, trong quá trình thành lập Hội đồng trọng tài (HĐTT), có trường hợp
bị đơn không chọn được Trọng tài viên cho mình, hay các bên không chọn được
Trọng tài viên duy nhất; nếu có một bên tranh chấp tẩu tán tài sản, làm thất thoát
khối tài sản của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với bên kia thì trọng tài
cũng không thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với các hành vi đó,...
Từ đó đặt ra vấn đề cần phải có sự “hỗ trợ” của Tòa án cho hoạt động của trọng tài
để “lấp” khoảng trống này của trọng tài.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp
phát sinh trong thực tiễn kinh doanh ở nước ta ngày càng nhiều hơn và đa dạng hơn
về chủng loại, phức tạp về tính chất. Điều này đòi hỏi phải có nhiều phương thức giải
quyết tranh chấp hiệu quả để đáp ứng các yêu cầu khác nhau của chủ thể kinh doanh.
Ở nước ta, TTTM đã có lịch sử tồn tại khá lâu dài, tuy nhiên, chưa phải là hình thức
được các nhà kinh doanh ưa chuộng, căn bản là do thiếu sự hỗ trợ từ phía các cơ
quan nhà nước nói chung và cơ quan Tòa án nói riêng. Chính sự hỗ trợ đó sẽ làm cho
hoạt động trọng tài được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, đồng
thời không làm mất đi ưu thế của hình thức giải quyết tranh chấp tôn trọng tối đa
quyền tự định đoạt của các đương sự.
Thứ ba, từ tình trạng quá nhiều án tồn đọng tại các Tòa án, cùng với sự phát
triển sôi động của các quan hệ kinh tế, các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực KDTM
buộc phải đưa đến Tòa kinh tế ngày càng nhiều, đã tạo ra áp lực tăng, gây ra tình
trạng “quá tải”, án tồn đọng với số lượng khá lớn, đặc biệt là ở một số thành phố lớn
như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
Thứ tư, xuất phát từ yêu cầu quản lý nhà nước đối với hoạt động trọng tài
Nhà nước nói chung và các cơ quan nhà nước nói riêng có thẩm quyền quản lý hoạt

15


động của cá nhân, tổ chức trong xã hội, trong đó có trọng tài. Nhà nước thông qua

việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về trọng tài đã thể hiện sự quản lý của
mình đối với hoạt động của trọng tài, đồng thời tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt
động của trọng tài.
Có thể nói, mối quan hệ đặc trưng giữa Toà án và TTTM là mối quan hệ hỗ trợ
và giám sát. Nhờ có mối quan hệ này, mà TTTM tuy là tổ chức tài phán phi chính
phủ nhưng vẫn hoạt động một cách có hiệu quả. Việc thừa nhận vai trò, trách nhiệm
của Toà án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt động tố tụng giải quyết tranh chấp
của TTTM là một sự tiếp sức cho TTTM, thể hiện quan điểm của Nhà nước trong
việc đa dạng hoá phương thức giải quyết tranh chấp và tạo điều kiện thuận lợi tối đa
cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ của Nhà nước về mặt pháp lý trong quá
trình thực hiện giao dịch thương mại.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 39 Luật TTTM năm 2010, việc thành lập HĐTT
để giải quyết tranh chấp hoàn toàn là quyền của các bên tranh chấp. Các bên tranh
chấp có quyền lựa chọn thành lập HĐTT có thể bao gồm một hay nhiều Trọng tài
viên tùy theo sự thỏa thuận của các bên, trường hợp các bên không có sự thỏa thuận
về số lượng Trọng tài viên thì HĐTT bao gồm ba Trọng tài viên. Tuy nhiên, theo
quy định tại khoản 4 Điều 41 Luật TTTM năm 2010, đối với việc thành lập HĐTT
vụ việc, nếu bị đơn hoặc các bị đơn không chọn được Trọng tài viên, hoặc các Trọng
tài viên không bầu được một Trọng tài viên khác làm Chủ tịch HĐTT, hoặc các bên
không chọn được Trọng tài viên duy nhất (trường hợp các bên thỏa thuận vụ tranh
chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết) thì Tòa án nơi bị đơn cư trú hoặc nơi
có trụ sở theo yêu cầu của một hoặc các bên có quyền đưa ra quyết định chỉ định
Trọng tài viên, chỉ định Chủ tịch HĐTT trong các trường hợp trên.
Tại khoản 4 Điều 42 Luật TTTM năm 2010, quy định: “Đối với vụ tranh chấp
do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc thay đổi Trọng tài viên sẽ do các thành
viên còn lại của Hội đồng trọng tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn
lại của Hội đồng trọng tài không quyết định được hoặc nếu các Trọng tài viên hay

16



Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày nhận được yêu cầu của một hoặc các Trọng tài viên nói trên, của một hoặc
các bên tranh chấp, Chánh án Toà án có thẩm quyền phân công một Thẩm phán quyết
định về việc thay đổi Trọng tài viên”. Như vậy, đối với trường hợp cần phải thay đổi
Trọng tài viên theo quy định của pháp luật (trong vụ tranh chấp do HĐTT vụ việc
giải quyết), nếu các thành viên còn lại của HĐTT không quyết định được hoặc nếu
các Trọng tài viên hay Trọng tài viên duy nhất từ chối giải quyết tranh chấp, thì Tòa
án có thẩm quyền (Tòa án nơi HĐTT giải quyết tranh chấp) có thể hỗ trợ việc quyết
định thay đổi Trọng tài viên này. Cụ thể là Chánh án Tòa án có thẩm quyền sẽ phân
công một Thẩm phán quyết định về việc thay đổi Trọng tài viên.
Bên cạnh đó, tại khoản 4 Điều 43 Luật TTTM năm 2010 còn quy định: “Trường
hợp các bên đã có thỏa thuận cụ thể về việc lựa chọn Trọng tài viên trọng tài vụ việc,
nhưng tại thời điểm xảy ra tranh chấp, vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách
quan mà Trọng tài viên không thể tham gia giải quyết tranh chấp, thì các bên có thể
thỏa thuận lựa chọn Trọng tài viên khác để thay thế; nếu không thỏa thuận được, thì
có quyền khởi kiện ra Tòa án để giải quyết”. Theo đó, Tòa án cũng có thể “hỗ
trợ” trong trường hợp Trọng tài viên được lựa chọn không thể tiếp tục tham gia giải
quyết tranh chấp vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan.
1.3.

Đặc điể m thẩ m quyề n về dân sự theo vụ viêc̣ của Tòa án nhân dân trong

viêc̣ giải quyế t tranh chấ p kinh doanh thương ma ̣i
Thẩm quyền của Tòa án về giải quyết tranh chấp trong KDTM được pháp luật
quy định phân theo vụ việc, theo cấp tòa xét xử, theo lãnh thổ và theo sự lựa chọn
của nguyên đơn. Việc phân định thẩm quyền như trên làm cho hoạt động xét xử của
Tòa án đạt hiệu quả, không “dẫm chân” lên nhau. Xác định thẩm quyền một cách
chính xác, khoa học sẽ tránh được sự chồng chéo của Tòa án trong việc thực hiện
nhiệm vụ, góp phần làm cho Tòa án giải quyết vụ án đúng đắn và bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp cho đương sự. Thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án trong giải

17


quyết tranh chấp KDTM là một loại thẩm quyền dân sự cụ thể của Tòa án. Vì thế,
trước hết nó mang đặc điểm chung của thẩm quyền dân sự của Tòa án, đó là:
Thứ nhất, phạm vi xem xét, giải quyết của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp
KDTM được giới hạn bởi yêu cầu của đương sự. Theo đó, có thể hiểu rằng, giới hạn
hay phạm vi xét xử của Tòa án không phải là vô hạn, thể hiện ý chí chủ quan của cơ
quan tiến hành tố tụng mà nó được luật hóa. Trong TTDS, vì tính chất của dân sự là
việc tư của đương sự, nên bao giờ luật cũng tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Tòa
án trong xét xử vụ việc dân sự chỉ là cơ quan đứng ra giải quyết những mối xung đột,
những sự kiện pháp lý mà đương sự cung cấp. Vì vậy, khác với Tòa án hình sự là
dựa trên cáo trạng của VKS thì trong TTDS, Tòa án xác định phạm vi xét xử của
mình dựa trên cơ sở, yêu cầu của đương sự thể hiện dưới hình thức là đơn kiện, đơn
yêu cầu.
Thứ hai, khác với thẩm quyền hình sự hay thẩm quyền hành chính của Tòa án
được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự hoặc thủ tục tố tụng hành chính thì thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp KDTM của Tòa án được thực hiện theo thủ tục TTDS
mà cụ thể là thủ tục giải quyết các vụ án dân dự.
Thứ ba, Tòa án phải tôn trọng quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt, tự nguyện
không trái pháp luật của đương sự.
Ngoài những đặc điểm chung nêu trên, thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa
án về giải quyết tranh chấp KDTM còn mang những đặc điểm riêng như sau:
Thứ nhất, việc xác định thẩm quyền dân sự theo vụ việc về giải quyết tranh
chấp KDTM của Tòa án phải căn cứ vào thành phần chủ thể của quan hệ pháp luật
về KDTM. Yếu tố chủ thể trong quan hệ pháp luật cũng được các nhà lập pháp quan
tâm khi phân loại các quan hệ xã hội. Tương ứng với từng loại quan hệ xã hội các
chủ thể tham gia có sự khác nhau về thành phần và phạm vi thẩm quyền. Yếu tố này

gắn liền với phạm vi hoạt động, mức độ thể hiện, quyền hạn trong các quan hệ pháp
luật. Vì có sự phân biệt các quan hệ pháp luật nên yếu tố chủ thể có địa vị pháp lý
khác nhau khi tham gia thiết lập các quan hệ pháp lý đó. Vì vậy, chủ thể của tranh
18


chấp KDTM được xác định là các thương nhân. Theo quy định tại Điều 2 Luật
Thương mại 2005 thì đối tượng điều chỉnh của Luật thương mại là thương nhân có
hoạt động thương mại và tổ chức cá nhân khác hoạt động liên quan đến thương mại
(khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng ký kinh doanh”). Như vậy chiếu theo quy định này thì bất kỳ cá
nhân, tổ chức nào tham gia hoạt động thương mại đều được điểu chỉnh bằng Luật
thương mại (Hoạt động thương mại theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương
mại 2005 là “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác”). Việc xác định chính xác và đầy đủ chủ thể của tranh chấp KDTM có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định quan hệ tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải
quyết dân sự theo vụ việc của Tòa án do BLTTDS quy định.
Thứ hai, xác định thẩm quyền dân sự theo vụ việc của Tòa án về giải quyết
tranh chấp KDTM căn cứ vào mục đích lợi nhuận của hoạt động KDTM. Mục đích
là mong muốn của các chủ thể khi tham gia các quan hệ pháp luật. Đó là cái đích mà
một chủ thể nào đó nhắm đến khi thiết lập các quan hệ xã hội. Điều này liên quan
mật thiết đến thẩm quyền xét xử mà cụ thể là sự phân loại án trong hoạt động tố tụng
và cơ quan xét xử. Trong tố tụng dân sự, các loại vụ việc được phân chia thành bốn
loại khác nhau, trong đó các hoạt động kinh doanh tiêu chí mục đích được xác định
là chủ yếu. Đây là căn cứ để phân biệt với các vụ việc khác. Mục đích tìm kiếm lợi
nhuận không chỉ là động lực trực tiếp thúc đẩy quá trình mở rộng các giao lưu trong
KDTM mà còn là lý do tồn tại của các chủ thể trong kinh doanh. Hoạt động kinh
doanh giữa các chủ thể nảy sinh các quan hệ các công ty và các thành viên công ty

trong việc thành lập, giải thể công ty, các quan hệ hợp đồng... Các bên hưởng quyền
và có nghĩa vụ thực hiện đúng và đủ những điều khoản mà mình đã thống nhất ý chí
ghi vào các điều khoản của hợp đồng. Tuy nhiên, không phải lúc nào các chủ thể ký
kết hợp đồng trong KDTM cũng nghiêm chỉnh tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ của
mình. Mục đích đạt được lợi nhuận tối đa đã trở thành động lực trực tiếp của các bên

19


×