Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai và thực tiễn thực thi tại quận dương kinh, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC ĐẤT
ĐAI VÀ THỰC TỄN THỰC THI TẠI QUẬN DƯƠNG KINH,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LƯƠNG THỊ DUYÊN
CHUYÊN NGÀNH

: LUẬT KINH TẾ

MÃ SỐ

: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi được
thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết và khảo sát tình hình thực tiễn dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS Nguyễn Minh Hằng. Các thông tin, số liệu,
các luận điểm kế thừa được trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận
văn hoàn toàn trung thực.
XÁC NHẬN CỦA
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


HỌC VIÊN

TS Nguyễn Minh Hằng

Lương Thị Duyên


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô giáo Khoa Luật,
Khoa sau đại học, Viện Đại học Mở đã tận tình giúp đỡ, truyền đạt cho tôi
những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc nhất tới TS Nguyễn Minh
Hằng, người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn, giúp đỡ tôi
hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã
tạo điều kiện giúp đỡ để tôi có thể hành thành luận văn.
Mặc dù đã cố gắng để hoàn thiện luận văn, tuy nhiên vì trình độ lý luận
và khả năng lĩnh hội còn nhiều hạn chế mà luận văn không thể tránh khỏi
những thiết sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn.
Hải Phòng, ngày 06 tháng 9 năm 2017
Học viên

Lương Thị Duyên


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................... 2

3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 4
6. Nội dung của luận văn ................................................................................... 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC
ĐẤT ĐAI ................................................................................................................ 6
1.1. Khái quát chung về quyền của phụ nữ ...................................................... 6
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ ............................................................... 6
1.1.2. Vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội ....................................... 7
1.1.3. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo
quyền bình đẳng của phụ nữ ......................................................................... 9
1.2.Khái quát chung về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai .............. 122
1.2.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai ....................... 122
1.2.2. Các loại quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai .......................... 133

1.2.3. Các yếu tố bảo đảm việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực đất đai………………………………………………………………… 14
1.3.Sơ lược về việc ghi nhận quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai qua
các thời kỳ lịch sử .......................................................................................... 188
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 ........................... 18
1.3.1.1. Thời kỳ phong kiến ..................................................................... 18
1.3.1.2. Thời kỳ Pháp thuộc .................................................................... 21
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980............................................... 22
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến nay....................................................... 255

Kết luận chương 1……………………………………………………..30


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC THI
QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TẠI QUẬN DƯƠNG

KINH, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ................................................................... 31
2.1. Các quyền chung của phụ nữ với vai trò là người sử dụng đất .............. 31
2.1.1. Quyền được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất .............................................................................. 31
2.1.2. Quyền được hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất ...... 34
2.1.3. Quyền được hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ
việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp ............................................................. 36
2.1.4. Quyền được nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ
đất nông nghiệp ............................................................................................ 37
2.1.5. Quyền được nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp về đất đai của mình ................................................................ 39
2.1.6. Quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ............................ 40
2.1.7. Quyền được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm
quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp
luật về đất đai ................................................................................................ 42
2.2. Các quyền riêng của phụ nữ với vai trò là người sử dụng đất tương ứng
với các hình thức sử dụng đất ......................................................................... 44
2.2.1. Quyền của phụ nữ với vai trò là người sử dụng đất không phải là đất
thuê trả tiền thuê đất hàng năm ................................................................... 44
2.2.1.1. Quyền chuyển đổi quyền sử dụng đất............................................ 46
2.2.1.2. Quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất..................................... 47
2.2.1.3. Quyền cho thuê quyền sử dụng đất ............................................... 49
2.2.1.4. Quyền thừa kế quyền sử dụng đất ................................................. 50
2.2.1.5. Quyền tặng cho quyền sử dụng đất ............................................... 55
2.2.1.6. Quyền thế chấp quyền sử dụng đất ............................................... 56
2.2.1.7. Quyền góp vốn quyền sử dụng đất ................................................ 58


2.2.2. Quyền của phụ nữ được Nhà nước cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng
năm ............................................................................................................... 60

2.3. Thực tiễn thực thi pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
tại quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng ................................................. 62
2.3.1. Đôi nét về quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng ......................... 62
2.3.2. Tình hình thực thi pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất
đai tại quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng ........................................ 62
2.3.2.1 Kết quả đạt được ........................................................................... 62
2.3.2.2. Tồn tại, hạn chế ............................................................................ 68
2.3.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ...................................... 73

Kết luận chương 2………………………………………………....78
CHƯƠNG 3: MỘT VÀI KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TẠI QUẬN
DƯƠNG KINH, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG …………………………………79
3.1. Một số định hướng chủ yếu cho việc hoàn thiện pháp luật về quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực đất đai ......................................................................... 79
3.3. Một vài kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực thi quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực đất đai ......................................................................... 80
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật........................................................... 81
3.2.2. Giải pháp nhằm bảo đảm công tác thực thi quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực đất đai ............................................................................................. 83
3.2.2.1. Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về đảm bảo thực thi
quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai ................................................... 83
3.2.2.2. Nâng cao nhận thức và ý thức của người sử dụng đất.................. 86
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS


Bộ luật dân sự

Luật HN&GĐ

Luật hôn nhân và gia đình

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

QSDĐ

Quyền sử dụng đất


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của pháp luật đất đai, phụ nữ nói riêng và cá nhân nói chung
là một trong những chủ thể sử dụng đất cơ bản, quan trọng và chiếm số lượng đáng
kể trong các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai. Để bảo đảm nguồn tài
nguyên đất đai khi trao cho các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nói chung và phụ
nữ nói riêng được khai thác có hiệu quả, phát huy hết tiềm năng và thế mạnh vốn có
của đất. Pháp luật đất đai quy định các quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể sử dụng
đất trong đó bao gồm cả phụ nữ. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại
diện chủ sở hữu thống nhất quản lý1, thực hiện quyền quản lý của mình Nhà nước
trao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thông qua các hình thức
pháp lý nhất định. Vì vậy tổ chức, hộ gia đình và cá nhân chỉ có quyền tiếp cận đất
đai với vai trò là người sử dụng đất. Dựa trên nguyên tắc công dân nam nữ bình
đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới;

Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy
vai trò của mình trong xã hội2. Theo lẽ đó, phụ nữ được nhà nước trao quyền sử
dụng đất bình đẳng với các chủ thể khác. Do đó khi bàn đến quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực đất đai chính là quyền của phụ nữ với vai trò là người sử dụng đất.
Quyền của người sử dụng đất nói chung và quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
đất đai nói riêng đã được ghi nhận theo hướng ngày càng mở rộng các quyền không
chỉ trong mối quan hệ với Nhà nước mà cơ bản là quyền trong quá trình vận hành
quyền sử dụng đất trong đời sống thực tế. Mặc dù các văn bản pháp ý đều khẳng
định sự bình đẳng về địa vị pháp lý giữa nam và nữ, trong lĩnh vực đất đai cũng vậy,
pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất nói chung cho
người sử dụng đất, không phân biệt nam hay nữ. Tuy nhiên, việc thực thi các quy
định này trên thực tế chưa thực sự đạt hiệu quả. Ở nhiều địa phương, xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau mà vấn đề thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
1
2

Điều 53 Hiến pháp năm 2013
Điều 26 Hiến pháp năm 2013

1


đất đai hay quyền của phụ nữ với vai trò là người sử dụng đất vẫn bị hạn chế hơn so
với nam giới. Chẳng hạn về vấn đề đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỷ lệ nam giới đứng tên trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất lớn hơn nhiều so với phụ nữ…
Do vậy việc nghiên cứu và đánh giá “Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất
đai và tình hình thực thi tại địa bàn Quận Dương Kinh, thành phố Hải phòng” –
nơi tác giả sinh sống, học tập và làm việc là vấn đề hết sức cấp thiết.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về quyền của
phụ nữ đã được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở các góc độ
khác nhau. Có rất nhiều chương trình, dự án cũng như các đề tài khoa học viết
về quyền của phụ nữ, bình đẳng giới. Đặc biệt trước khi xây dựng và ban hành
Luật Bình đẳng giới, các tổ chức, cá nhân của các cơ quan như Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, các trường đào tạo đã có
nhiều bài viết, hội thảo chuyên đề về quyền của phụ nữ và bình đẳng giới. Các
bài viết, tham luận tại các hội thảo chuyên đề cũng đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề
cập đến quyền của phụ nữ ở từng lĩnh vực hoặc đưa ra những giải pháp về khía
cạnh pháp luật để thực thi các quyền này của phụ nữ. Việt Nam cũng đã có nhiều
chương trình, dự án tài trợ cho hoạt động nghiên cứu và phân tích chính sách về
quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai. Chẳng hạn, dự án “Tăng cường quyền về
đất đai của phụ nữ dân tộc thiểu số thông qua hỗ trợ pháp lý” do Chương trình
Quản trị Đất đai Mekong (MRLG) tài trợ, Dự án “Tiếp cận Đất đai cho Phụ nữ”
(LAW) được tài trợ bởi Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID )... được đánh
giá là các chương trình, đề tài lớn nghiên cứu mang tính khái quát, tổng hợp nhiều
vấn đề nhằm xây dựng và đào tạo một đội ngũ tình nguyện viên về bình đẳng giới ở
cấp cơ sở để giúp nông dân - đặc biệt là phụ nữ nông dân thực hiện quyền sử dụng
đất của họ. Công trình “Tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện
nay” do Chương trình phát triển Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNDP) thực
hiện năm 2013 tại 10 tỉnh/thành phố, công trình này đã phân tích khoảng cách đáng

2


kể giữa các quy định của luật pháp và việc thực thi đảm bảo quyền của phụ nữ trong
việc sở hữu đất đai.
Ngoài ra, khi đi nghiên cứu chủ đề này, còn các bài viết đăng trên các
website như: “Bảo đảm quyền tiếp cận đất đai của phụ nữ”3 ;“Bảo đảm quyền lợi
phụ nữ trong Luật Đất đai” 4, cả hai công trình này mới chỉ đề cập đến quyền có tên

của người phụ nữ trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chưa hệ thống hóa
hết các quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai.
Một số công trình nghiên cứu khác có liên quan như: “Quyền của phụ nữ
trong hệ thống pháp luật Việt Nam” 5 , bài viết này mặc dù đề cập đến quyền của
phụ nữ trong một số văn bản pháp luật như Luật bảo hiểm xã hội, Luật hôn nhân và
gia đình, Luật lao động, Luật bình đẳng giới… nhưng lại chưa đề cập đến quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực đất đai.
Như vậy, có thể thấy trên thực tế, quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai rất
được nhiều luật gia, các cơ quan, tổ chức và đoàn thể quan tâm tới. Trong các công
trình của mình, mỗi tác giả đều có những phân tích, nhận định vấn đề quyền của
phụ nữ ở những khía cạnh khác nhau nhưng chưa khái quát được dưới góc độ chung
nhất các vấn đề về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai và chưa có công trình
nghiên cứu nào đi tìm hiểu tình hình thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực này
tại Quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích nghiên cứu
Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận sự bình đẳng của nam nữ trong mọi
lĩnh vực, đồng thời ghi nhận Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ
phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế
quyền của phụ nữ trong mọi lĩnh vực nói chung và đặc biệt trong lĩnh vực đất đai
3

Xem tại website: />4
Xem tại: truy cập ngày 03/7/2017
5
Xem tại: truy cập ngày
03/7/2017

3



nói riêng vẫn chưa thực sự được đảm bảo một cách triệt để. Do đó đề tài nghiên cứu
nhằm mục đích tìm hiểu các quy định của pháp luật quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực đất đai đặt trong mối quan hệ bình đẳng với nam giới và tình hình thực thi các
quy định này của pháp luật tại địa bàn quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
Qua đó đánh giá những mặt tích cực và những tồn tại của chính sách, pháp luật hiện
hành và đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện các quy định về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ thực hiện một số nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
đất đai hay nói cách khác đó chính là quyền sử dụng đất của phụ nữ;
- Đánh giá các quy định pháp luật về quyền của phụ nữ trên những tiêu chí
nhất định và quá trình thực hiện chúng trên thực tế để làm sáng tỏ nội dung cũng
như chỉ ra những hạn chế, những điểm bất hợp lý trong các quy định của pháp luật
và việc thực hiện chúng trên thực tế;
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của
phụ nữ trong lĩnh vực đất đai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài có đối tượng nghiên cứu là quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực đất đai (quyền sử dụng đất của phụ nữ).
- Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu quyền sử dụng đất của phụ nữ
trên địa bàn quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng.
+ Phạm vi về thời gian: Đề tài nghiên cứu trong thời điểm hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng một số phương pháp cụ
thể như:
- Phương pháp phân tích để làm sáng tỏ những nội dung thuộc phạm vi
nghiên cứu;

4



- Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ mức độ tương quan
giữa những quy định của pháp luật qua các thời kỳ lịch sử và đặc biệt là
thông qua phương pháp này để có được những đánh giá khách quan giữa quy
định của pháp luật với thực tiễn thực hiện các quy định đó;
- Phương pháp tổng hợp và thống kê được sử dụng để khái quát hoá nội dung
nghiên cứu một cách hệ thống, làm cho vấn đề nghiên cứu trở nên ngắn gọn, súc
tích, dễ hiểu. Đồng thời phương pháp này được dùng để thu thập và cung cấp một
số số liệu liên quan đến việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai trên
thực tiễn;
- Phương pháp xã hội học được dùng để đánh giá, phân tích những điều
kiện kinh tế, chính trị xã hội với việc thực hiện quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
đất đai…;
6. Nội dung của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương được kết cấu chi tiết như sau:
Chương 1: Tổng quan về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực đất đai tại Quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng
Chương 3: Một vài kiến nghị nhằm nâng cao hiêu quả thực thi quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực đất đai tại Quận Dương Kinh, Thành phố Hải Phòng

5


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Khái quát chung về quyền của phụ nữ
1.1.1. Khái niệm quyền của phụ nữ

Phụ nữ là một con người thực thể, do đó khi tiếp cận vấn đề quyền của
người phụ nữ, thì khái niệm quyền phụ nữ trước hết phải được hiểu trên cơ sở
quyền con người, phụ nữ cũng như nam giới họ phải được hưởng tất cả những
quyền con người mà pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền phụ nữ là một khái niệm
dùng để chỉ các quyền con người của phụ nữ do đó quyền của phụ nữ không thể
tách rời quyền của con người. Quyền của phụ nữ là một bộ phần của quyền con
người, do vậy làm sáng tỏ thuộc tính của quyền con người sẽ giúp hiểu rõ bản chất
của quyền của phụ nữ.
Theo lí luận nhà nước và pháp luật thì quyền chủ thể được hiểu “là cách xử
sự mà pháp luật cho phép chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là
khả năng của chủ thể xử sự theo cách nhất định được pháp luật cho phép. Nó là khả
năng có nghĩa là chủ thể có thể lựa chọn giữa việc xử sự theo cách thức mà mó
được phép tiến hành hoặc không xử sự như vậy”6.
Quyền con người là một thuật ngữ pháp lý được sử dụng khá phổ biến. Tuy
nhiên trong các văn bản pháp luật quốc tế cũng như pháp luật quốc gia chưa có một
định nghĩa chính thức về quyền con người mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê các quyền
con người. Trên cơ sở nghiên cứu của các nhà luật học khi tiếp cận về vấn đề này
thì có thể hiểu quyền con người là những đặc quyền (quyền tự nhiên) của con người
được pháp luật công nhận, điều chỉnh, do cá nhân con người nắm giữ trong mối liên
hệ với Nhà nước và với những cá nhân con người khác.

6

Xem: Trường Đại học Luật hà Nội, Giáo trình lí luận về nhà nước và pháp luật, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2000. tr.448

6


Quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa là giá trị

nảy sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước cụ thể, với một chế
độ chính trị, pháp luật cụ thể. Dựa trên những tiêu chí khác nhau có thể có
nhiều cách phân loại nội dung quyền con người. Theo cách tiếp cận quyền con
người của khoa học pháp lý thì quyền con người được chia thành những nhóm
chính sau: (i) Các quyền tự do dân chủ về chính trị bao gồm: Quyền tham gia quản
lý nhà nước và xã hội; quyền bầu cử, ứng cử, quyền bình đẳng nam nữ, quyền tự
do tín ngưỡng, quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí… (ii) Các quyền dân sự
(quyền tự do cá nhân) bao gồm: Quyền tự do đi lại cư trú trú trong nước, quyền ra
nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền
được an toàn về thư tín, điện thoại, quyền khiếu nại, tố cáo… (iii) Các quyền trong
lĩnh vực kinh tế – xã hội bao gồm: Quyền lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền
được bảo hộ hôn nhân và gia đình, quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế, được
bảo vệ sức khoẻ, quyền được giáo dục đào tạo, quyền nghiên cứu, phát minh…
Từ khái niệm quyền con người có thể hiểu quyền của phụ nữ là những đặc
quyền được pháp luật công nhận, điều chỉnh, hay nói cách khác, quyền của phụ nữ
chính là những xử sự pháp lý được pháp luật quy định cho phép phụ nữ được thực
hiện.
1.1.2. Vị trí, vai trò của người phụ nữ trong xã hội
Theo thống kê của Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc ở nước
ta hiện nay, tính đến giữa năm 2014 tổng dân số Việt Nam đạt gần 90,5 triệu người,
trong đó nam chiếm hơn 49 %, nữ chiếm gần 51 % và chiếm khoảng 50 % lực
lượng lao động. Phụ nữ có vai trò rất quan trọng trong xã hội. Có thể thấy, phụ nữ
ngày càng tham gia tích cực vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng hạn,
trong lĩnh vực chính trị, xã hội của đất nước, phụ nữ tham gia và giữ những chức vụ
quan trọng trong bộ máy nhà nước, hiện có tới 33,1 % đại biểu nữ trong Quốc hội
(khóa XII) - cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu
Quốc hội cao nhất thế giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên
20 % (theo số liệu của Ủy ban quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam). Bên

7



cạnh việc tham gia các hoạt động chính trị, xã hội, phụ nữ Việt Nam còn tham gia
tích cực vào các hoạt động ngoại giao, hiện nay nữ cán bộ làm công tác ngoại giao
chiếm tỷ lệ gần 40 %, trong đó 01 nữ Thứ trưởng, 07 đại sứ, 11 vụ trưởng và tương
đương, 51 Phó Vụ trưởng là nữ. Về học vị, có 26 cán bộ nữ có trình độ Tiến sĩ
(chiếm 32,9 % trong tổng số 79 Tiến sĩ của Bộ Ngoại giao), 267 cán bộ nữ có trình
độ Thạc sĩ (chiếm 43,2%) và 497 cán bộ nữ có trình độ Đại học (chiếm 43,7%)7.
Vai trò của người phụ nữ trong xã hội còn được thể hiện trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo. Hiện nay, phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% những người có trình độ cao
đẳng, 34% những người có trình độ đại học, 30% những người có trình độ thạc sĩ,
21% những người có trình độ tiến sĩ và 4% những người là tiến sĩ khoa học 8.Trình
độ học vấn ngày càng được nâng cao đã giúp phụ nữ tham gia ngày càng tốt hơn
công tác quản lý nhà nước. Theo đánh giá của Văn phòng quốc hội, việc tham gia
xây dựng pháp luật và chính sách, đóng góp ý kiến cho công tác quản lý nhà nước
và tọa đàm với cử tri của các nữ đại biểu quốc hội ngày càng có chất lượng.
Trong buổi tiếp các trưởng đoàn dự cuộc họp Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ
11 (WLN) của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) diễn ra
vào tháng 9 năm 2006 tại Hà Nội, Chủ tịch Nguyễn Minh Triết khẳng định: Ðảng,
Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát triển
và hội nhập quốc tế. Chủ tịch nêu rõ: "Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan
trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực trong
nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ cương vị
lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật.... Vai trò của phụ nữ

7

Cán bộ ngoại giao nữ: “Đều tay” cùng đồng nghiệp nam xem tại:
truy cập ngày 04/7/2017
8

Nguyễn Quốc Tuán, Nguyễn Hải Hà, Vai trò của phụ nữ tham gia quản lý nhà nước, Học viện
hành chính quốc gia đăng tại
/>ynhanuoc.html, truy cập ngày 04/7/2017.

8


hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân dành tặng:
Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang"9.
Ngoài việc làm tốt các công tác trong xã hội, phụ nữ vẫn giữ được vai trò
quan trọng trong gia đình như thực hiện thiên chức của người mẹ: Chăm sóc, nuôi
dạy con cái và xây dựng hạnh phúc gia đình. Ngoài thiên chức làm vợ, làm mẹ,
người phụ nữ hiện đại còn có vai trò không nhỏ trong việc xây dựng, phát triển kinh
tế, tham gia lao động sản xuất tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho hộ gia đình.
Một điều dễ nhận thấy đối với những hộ sản xuất nông nghiệp thì phụ nữ là lực
lượng lao động chủ yếu trong hầu hết các khâu của quá trình sản xuất.
Có thể thấy người phụ nữ Việt Nam có vị trí và vai trò hết sức quan trọng đối
với gia đình và xã hội. Chính vì vậy, họ phải được hưởng các quyền bình đẳng so
với nam giới trên mọi phương diện, tạo điều kiện cho họ phát huy khả năng của bản
thân mình và đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của xã hội. Đặc biệt đối với
lĩnh vực đất đai được coi là tư liệu sản xuất quan trọng, do vậy quyền của phụ nữ
trong lĩnh vực đất đai càng phải được bảo đảm.
1.1.3. Đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đảm bảo
quyền bình đẳng của phụ nữ
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của phụ nữ trong xã hội, Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương chính sách quan trọng nhằm bảo đảm quyền
bình đẳng của phụ nữ.
Đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ là mục tiêu chiến lược của đất nước
trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã từng nói: “Bình đẳng
nam nữ là một cuộc cách mạng, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ

nghĩa xã hội chỉ có một nửa”. Trong công cuộc xây dựng đất nước, Đảng và Nhà
nước ta hết sức quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ và có những chủ trương,

9

Lê Thị Linh Trang, Vị trí, vai trò của phụ nữ trong xu thế hội nhập và phát triển của đất nước,
xem tại:
/>uthehoinhapi.html truy caaph ngày 04/7/2017

9


chính sách cụ thể được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng và các văn bản pháp
luật của nhà nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam có nêu "Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách
bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế,
chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản
lý ở các cấp, các ngành, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em, tạo điều
kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ, xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc". Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
X đã xác định: "Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần thực hiện
bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân,
người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người". Văn kiện Đại hội
XII của Đảng (tháng 01 năm 2016) xác định phương hướng: “Nâng cao trình độ
mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ. Nghiên cứu, bổ sung và hoàn
thiện luật pháp, chính sách đối với lao động nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
tốt vai trò và trách nhiệm của mình. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội
và xử lý nghiêm minh theo pháp luật các hành vi bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân
phẩm phụ nữ”.
Bình đẳng nam nữ và vì sự tiến bộ của phụ nữ còn được ghi nhận trong Hiến

pháp, các đạo luật và các văn bản pháp luật khác. Khi chưa có công ước của Liên
hợp Quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ước
CEDAW) Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở Châu Á sớm công nhận và thể
chế hóa một cách chính thức các quyền cơ bản của phụ nữ như quyền kinh tế chính
trị, văn hóa, xã hội và gia đình. Ngay trong các văn bản pháp luật có giá trị pháp lý
cao nhất là Hiến pháp, quyền bình đẳng nam nữ được khẳng định và nhất quán thực
hiện. Điều này được thể hiện ngay từ Hiến pháp năm 1946 – Bản hiến pháp đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ghi nhận: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông
về mọi phương diện”(Điều 9). Quy định này đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại về
địa vị pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam
được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới trên
tất cả các lĩnh vực. Tiếp đó, Hiến pháp năm 1959 ghi nhận “Phụ nữ Việt nam dân

10


chủ cộng hòa có quyền bình đẳng với nam giới về mặt sinh hoạt kinh tế, chính trị,
văn hóa , xã hội và gia đình” (Điều 24). Điều này tiếp tục được kế thừa trong Hiến
pháp 1980: “Phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và gia đình” (Điều 63). Đến Hiến pháp 1992 quy định “Công dân
nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt, nghiêm cấm mọi hành vi đối xử với
phụ nữ, xâm phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63).
Đặc biệt, các quy định về quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong
Hiến pháp 2013 đã có nội dung toàn diện hơn, đáp ứng nguyện vọng chung của xã
hội, phù hợp với công cuộc đổi mới đất nước và các tiêu chuẩn được ghi nhận trong
các công ước quốc tế mà nước ta tham gia. Điều 26 Hiến pháp 2013 quy định:
“Công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền
và cơ hội bình đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát
triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội, Nghiêm cấm phân biệt đối
xử về giới”. So với Hiến pháp năm 1992, nội dung không phân biệt đối xử chuyển

từ “không phân biệt đối xử với phụ nữ” đã mở rộng sang “không phân biệt đối xử
về giới”. Các quy định này đã bảo đảm được các nguyên tắc của Công ước
CEDAW về loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
Bên cạnh đó quyền bình đẳng giữa nam và nữ còn được cụ thể hóa trong các
đạo luật như: Luật Hôn nhân và gia đình, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động... và đặc
biệt là Luật Bình đẳng giới, luật này quy định nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Trong
lĩnh vực đất đai, quyền của người sử dụng đất không có sự phân biệt về giới tính,
nam nữ mà chỉ quy định các quyền chung của người sử dụng đất.
Có thể thấy, Đảng và nhà nước ta luôn đề ra các chủ trương, chính sách
đường lối nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của phụ nữ trong tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội trong đó bao gồm cả lĩnh vực đất đai.

11


1.2.

Khái quát chung về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai

1.2.1. Khái niệm quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Theo quan niệm về sở hữu tài sản truyền thống trong dân luật được các nước
Châu Âu lục địa thừa nhận, quyền sở hữu bao gồm 3 nhóm quyền năng: Nhóm
quyền chiếm hữu, nhóm quyền sử dụng và nhóm quyền định đoạt10. Ở Việt Nam,
Hiến pháp năm 2013 quy định: "Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản,
nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà
nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý" (Điều 53), theo quy định này, ở nước ta chế độ
sở hữu đất đai có tính chất đặc thù, chỉ tồn tại một hình thức sở hữu duy nhất về đất

đai, đó là sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.
Với vai trò đại diện chủ sở hữu, Nhà nước trao quyền hoặc công nhận quyền sử
dụng đất cho các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình để họ trở thành chủ thể có quyền sử
dụng đất mà không phải là chủ sở hữu đất đai. Tổ chức, cá nhân, hộ gia đình nói
chung và phụ nữ nói riêng chỉ được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất và
được thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong pháp luật đất đai với tư cách
là người sử dụng đất. Do vậy, quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai được hiểu là
quyền của người sử dụng đất.
Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai chính là quyền của người sử dụng
đất, là khả năng mà pháp luật cho phép người sử dụng đất được thực hiện những
hành vi nhất định trong quá trình sử dụng đất nhằm sử dụng đất đúng mục đích, hợp
lí và tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao. Tùy thuộc vào hình thức trao quyền sử
dụng đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất, pháp luật sẽ quy định quyền cụ thể của
người sử dụng đất để từ đó người sử dụng đất nói chung và phụ nữ nói riêng thực
hiện các quyền năng của sử dụng đất một cách thuận lợi và hiệu quả nhất.

10

Nguyễn Quang Tuyến, Nguyễn Xuân Trọng, “Bàn về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất”,
xem
tại:
/>truy cập ngày 05/7/2017.

12


1.2.2. Các loại quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Khi được Nhà nước trao quyền hoặc công nhận quyền sử dụng đất, người sử
dụng đất nói chung và phụ nữ nói riêng sẽ được thực hiện các quyền năng của
người sử dụng đất theo quy định của pháp luật đồng thời được pháp luật bảo vệ khi

quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, các chủ sử dụng đất chỉ được thực hiện
các quyền năng của người sử dụng đất và được pháp luật bảo hộ trong thời hạn sử
dụng đất, và không phải trường hợp nào chủ sử dụng đất cũng có các quyền năng
giống nhau, có những trường hợp chủ sử dụng có quyền năng này nhưng lại không
có một số quyền năng khác mà chủ sử dụng đất khác có, điều này phụ thuộc vào
hình thức trao quyền hoặc công nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước.
Pháp luật hiện hành ghi nhận nhiều hình thức trao quyền khác nhau như:
Giao đất (giao đất có thu tiền sử dụng đất, giao đất không thu tiền sử dụng đất), cho
thuê đất (cho thuê đất trả tiền một lần, cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm),
công nhận quyền sử dụng đất. Tùy thuộc vào hình thức trao quyền mà người sử
dụng đất sẽ có các quyền năng khác nhau, tuy nhiên, có thể phân loại quyền năng
của người sử dụng đất nói chung hay quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai nói
riêng thành 02 nhóm chính sau:
Thứ nhất, nhóm quyền chung của người sử dụng đất, đây là những quyền
năng mà người sử dụng đất được hưởng không phụ thuộc vào hình thức trao quyền
hoặc công nhận quyền sử dụng đất và những quyền năng này chủ thể chỉ được thực
hiện và bảo hộ trong thời hạn sử dụng đất, theo đó các quyền chung của người sử
dụng đất gồm: Quyền được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; quyền được hưởng thành quả lao động, kết
quả đầu tư trên đất; quyền được hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục
vụ việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; quyền được Nhà nước hướng dẫn và giúp
đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; quyền được Nhà nước bảo hộ khi
người khác xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp về đất đai của mình; quyền
được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai; quyền

13


khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm QSDĐ hợp pháp của mình và
những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.

Thứ hai, nhóm quyền riêng của người sử dụng đất, bên cạnh việc quy định
các quyền chung, người sử dụng đất không phân biệt nam và nữ được pháp luật quy
định những quyền năng riêng, đây là những quyền mà không phải chủ sử dụng đất
nào cũng được phép thực hiện mà phụ thuộc vào hình thức nhà nước trao quyền
hoặc công nhận, nói cách khác quyền riêng mà người sử dụng đất mà Nhà nước cho
phép phụ thuộc vào các hình thức trao quyền và công nhận quyền sử dụng đất như:
Giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất
trả tiền thuê đất hàng năm; cho thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian
thuê hoặc được công nhận quyền sử dụng đất. Theo đó, tùy thuộc vào hình thức trao
quyền hoặc công nhận quyền sử dụng đất, người sử dụng đất không phân biệt nam
hay nữ sẽ có những quyền trong nhóm các quyền riêng sau: Quyền chuyển đổi
quyền sử dụng đất; quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất; quyền cho thuê quyền
sử dụng đất; quyền thừa kế quyền sử dụng đất; quyền tặng cho quyền sử dụng đất;
quyền thế chấp quyền sử dụng đất; quyền góp vốn quyền sử dụng đất…
Có thể thấy, quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai được pháp luật ghi nhận
khá đa dạng, tùy thuộc vào hình thức trao quyền và công nhận quyền sử dụng đất,
người sử dụng đất nói chung hay phụ nữ sẽ được trao những quyền năng nhất định,
đây là cơ sở quan trọng để Nhà nước bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ
trong quan hệ pháp luật đất đai khi có hành vi xâm phạm.
1.2.3. Các yếu tố bảo đảm việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai
Như đã phân tích ở trên, quyền của phụ nữ trong mọi phương diện nói chung
và trong lĩnh vực đất đai nói riêng được pháp luật ghi nhận bình đẳng với nam giới
và với các chủ thể sử dụng đất khác. Tuy nhiên, việc thực thi các quyền này của phụ
nữ trong lĩnh vực đất đai có hiệu quả thì mới đem lại ý nghĩa lớn trong hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai, đồng thời mới phát huy được hết các ý nghĩa của các
chính sách bình đẳng giới được ghi nhận trong các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Để làm được được điều này, vấn đề đặt ra là chúng

14



ta phải tạo được môi trường thuận lợi cho các quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực đất đai được thực thi một cách hiệu quả và để có thể tạo ra môi trường
thuận lợi đó, phải đảm bảo được các yếu tố về: Chính trị, pháp luật, quản lý
hành chính nhà nước về đất đai, xã hội, đội ngũ cán bộ công chức ...
Trước hết, yếu tố bảo đảm về chính trị. Đây là một trong những điều kiện

để đảm bảo hết sức quan trọng cho hoạt động thực thi quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực đất đai nói chung và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói riêng. Ở
nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động, Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược và các định hướng lớn; thống nhất
quản lý công tác cán bộ; trong hoạt động của mình, Đảng không ngừng tăng
cường kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước và công tác thuyết phục
công dân. Có thể nói, để bảo đảm việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh
vực đất đai vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện chính trị hết sức cơ bản. Có
thể thấy được điều này trong quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về
đất đai, những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về đất đai luôn
đảm bảo sự đúng đắn, khoa học và nhất quán, Đảng luôn xác định: Đất đai là
tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản,
nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. Quản lý và sử
dụng đất đai là vấn đề rộng lớn, phức tạp, hệ trọng liên quan đến giữ vững
thành quả cách mạng, ổn định chính trị, xã hội của đất nước. Các quan điểm,
chủ trương, chính sách của Đảng luôn được quán triệt và cụ thể hóa thành các
văn bản pháp luật. Thêm vào đó, trong hoạt động quản lý nhà nước về đất đai
luôn có sự kiểm tra, giám sát của Đảng, thông qua công tác này, Đảng sẽ kịp
thời phát hiện và xử lý các hành vi sai phạm trong quá trình quản lý nhà nước
về đất đai.
Bên cạnh đó, các tổ chức chính trị - xã hội như: Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt

15


Nam, Hội Nông dân Việt Nam... luôn phát huy tốt vai trò của mình trong việc
giám sát việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai.
Có thể nói, ở nước ta, pháp luật được ban hành thể hiện ý chí của đại đa
số nhân dân lao động, bảo vệ quyền lợi cho người lao động, cộng với những
ổn định về tình hình chính trị, nhất là chủ trương, chính sách, đường lối lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội đã
phát huy tốt vai trò của mình trong lĩnh vực của đời sống, đây là một trong
những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho hoạt động thực thi quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực đất đai.
Thứ hai, yếu tố bảo đảm về pháp luật. Cùng với sự bảo đảm về chính trị,
thì pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo cho việc
thực thi quyền của phụ nữ nói chung và trong lĩnh vực đất đai nói riêng. Có
thể thấy được điều này bởi chúng ta biết rằng tất cả chủ thể thực hiện pháp
luật đều hoạt động trên cơ sở pháp luật, giải quyết các vấn đề của đời sống xã
hội bằng pháp luật. Cho nên, muốn giải quyết được tốt các vấn đề phát sinh
trong xã hội thì phải đảm bảo được các điều kiện pháp luật mà trước hết hệ
thống những quy định đó phải hoàn thiện, đảm bảo được tính toàn diện, tính
đồng bộ, và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, bên cạnh đó, việc áp dụng
pháp luật được tốt cần phải có cơ chế thực hiện đúng đắn. Có thể nói, với hệ
thống pháp luật hoàn thiện và cơ chế thực hiện đúng đắn sẽ góp phần đảm bảo
cho việc áp dụng pháp luật đạt chất lượng, hiệu quả cao.
Ở nước ta, hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện, các quy định không
phù hợp luôn được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình mới, liên quan đến
quy định về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai, các quy định của Luật
đất đai, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bình đẳng giới…. luôn được sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện để đáp ứng với điều kiện kinh tế - xã hội trong tình
hình mới, bên cạnh đó, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều

chính sách đúng đắn về cơ chế thực hiện pháp luật, trong đó có công tác tuyên
16


truyền phổ biến, giáo dục pháp luật, cho nên nhận thức và ý thức của cán bộ,
công chức cũng như công dân về các chính sách pháp luật nói chung và pháp
luật đất đai nói riêng ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, chính điều này
đã góp phần không nhỏ đảm bảo cho công tác thực thi quyền của phụ nữ đạt
hiệu quả.
Thứ ba, yếu tố về quản lý hành chính nhà nước về đất đai. Bên cạnh
những yếu tố đảm bảo về chính trị và pháp luật thì quản lý hành chính nhà
nước về đất đai là một yếu tố bảo đảm cho hoạt động thực thi quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực đất đai. Phụ nữ cũng như các chủ thể sử dụng đất khác, khi
tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai, phụ nữ cũng được bình đẳng với các
chủ thể khác trong các quan hệ pháp luật về đất đai như đăng ký quyền sử
dụng đất, giải quyết tranh chấp đất đai… chính điều này đảm bảo cho người
phụ nữ thực thi các quyền của mình trong lĩnh vực đất đai.
Thứ tư, yếu tố đảm bảo về xã hội. Đây là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần không nhỏ đảm bảo cho việc thực thi quyền của phụ nữ trong
lĩnh vực đất đai.
Trong những năm qua cũng với sự phát triển của đất nước, trình độ dân
trí ngày càng được nâng cao, các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước nhất là về lĩnh vực đất đai luôn được người dân quan tâm,
vì vậy, nhận thức và ý thức pháp luật nói chung và pháp luật về đất đai của
người dân nói chung và phụ nữ nói riêng ngày càng được nâng cao. Chính
điều này đã góp phần đảm bảo việc thực thi quyền của phụ nữ trong lĩnh vực
đất đai đạt hiệu quả. Cùng với đó, trong những năm qua công tác tuyên truyền,
phổ biến pháp luật và giáo dục ý thức chấp hành pháp luật đã được Đảng và
Nhà nước quan tâm, chú trọng, cộng với sự tham gia của các phương tiện
thông tin đại chúng, các tổ chức chính trị - xã hội đã góp phần không nhỏ

trong việc nâng cao nhận thức và ý thức pháp luật của người dân.
Thứ năm, yếu tố về tổ chức và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
17


năng lực và đạo đức trong công tác thi hành pháp luật. Có thể nói, trình độ
năng lực và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ tới hoạt động áp dụng
pháp luật. Nếu cán bộ, công chức không có năng lực và đạo đức công vụ thì
không thể hiểu đầy đủ bản chất của quy phạm pháp luật áp dụng cũng như
bản chất của vụ việc cần giải quyết, do đó việc áp dụng pháp luật để giải
quyết sẽ không đạt hiệu quả, và ngược lại nếu có một đội ngũ cán bộ công
chức vừa có trình độ năng lực vừa có đạo đức công vụ thì việc áp dụng luật
chính xác, giải quyết tranh chấp đất đai có lý, có tình là điều đương nhiên.
Qua đó, các tranh chấp đất đai liên quan đến phụ nữ hoặc các quan hệ pháp
luật đất đai khác trong đó có liên quan đến phụ nữ sẽ được giải quyết một
cách chính xác, thông qua đó quyền của phụ nữ cũng được bảo đảm.
1.3.

Sơ lược về việc ghi nhận quyền của phụ nữ trong lĩnh vực đất đai qua

các thời kỳ lịch sử
Ở nước ta, các quy định của pháp luật hiện hành nói chung và pháp luật đất
đai nói riêng không có sự phân biệt các chính sách theo giới nam hay nữ bình đẳng
trước pháp luật trong việc sử dụng đất. Tuy nhiên mỗi thời kỳ lịch sử, quyền của
phụ nữ trong lĩnh vực đất đai được tiếp cận dưới góc độ khác nhau, tùy từng giai
đoạn lịch sử mà quyền này có được ghi nhận bình đẳng với nam giới hay không, có
thể thấy được điều này qua việc nghiên cứu các giai đoạn lịch sử về quyền của phụ
nữ trong lĩnh vực đất đai trong các văn bản pháp luật.
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

1.3.1.1.

Thời kỳ phong kiến

Trong thời kỳ phong kiến, pháp luật nước ta đã chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
tư tưởng Nho giáo nên địa vị của người phụ nữ hoàn toàn phụ thuộc vào nam giới.
Sự bất bình đẳng được thể hiện trước tiên chính là sự phân biệt đối xử giữa con trai
và con gái trong gia đình. Với quan niệm cần phải có con trai để nối dõi tông đường
nên xã hội phong kiến cho rằng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, quan điểm

18


×