Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

CÁC NGUYÊN tắc PHÁT TRIỂN bền VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.19 KB, 20 trang )

CÁC NGUYÊN TẮC PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
11.
12.
13.

PTBV: Phát triển bền vững
TN&MT: Tài nguyên và môi trường
ĐDSH: Đa dạng sinh học
KT-XH: Kinh tế - xã hội
BĐKH: Biến đổi khí hậu
BVMT: Bảo vệ môi trường
ĐDSH: Đa dạng sinh học
NGOs: Các tổ chức không phải của nhà nước
CTR: Chương trình
PTKT: Phát triển kinh tế


CT – XH: Chính trị - xã hội
Mt: Môi trường
UNEP: Liên hợp quốc

2


MỞ ĐẦU

1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở nước ta, môi trường đang bị ô nhiễm và suy thoái nặng nề. Các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như: rừng, đất, biển, khoáng sản.v.v... vốn giàu có, đa dạng và
phong phú của nước ta đang ngày một cạn kiệt và giảm nhanh.Khẳng định quyết
tâm BVMT của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, Hiến pháp năm 1992 của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang,
tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà
nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và BVMT. Nghiêm cấm mọi hành
động làm suy kiệt tài nguyên và huỷ hoại môi trường”. Nhà nước ta đã và đang tích
cực triển khai nhiều biện pháp nhằm cải thiện rõ rệt tình trạng xuống cấp của môi
trường.
Luật môi trường đã nêu ra bốn nguyên tắc chủ yếu nhằm đảm bảo sự phát
triển bền vững. Đó là những nguyên tắc sau: Nguyên tắc đảm bảo quyền con người
được sống trong môi trường trong lành; nguyên tắc về tính thống nhất trong quản lí
và BVMT; Nguyên tắc đảm bảo sự phát triển bền vững; Nguyên tắc coi trọng tính
phòng ngừa. Các nguyên tắc này chi phối một cách toàn diện các quan hệ phát sinh
việc BVMT. Trong đó phải kể đến nguyên tắc về đảm bảo sự phát triển bền vững.
Phát triển bền vững (PTBV) là một trong những nguyên tắc quan trọng trong
hệ thống pháp luật quốc tế về môi trường. Phần lớn các nước đã đưa nguyên tắc này
vào trong hệ thống pháp luật của mình. Tại hội nghị thượng đỉnh của thế giới về
môi trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janero (Braxin), các nhà hoạt động về

kinh tế, xã hội, môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống nhất về quan điểm
phát triển bền vững, coi đó là trách nhiệm chung của các quốc gia, của toàn nhân
loại và đồng thuận tuyên bố chung về quan điểm phát triển bền vững. Pháp luật môi
trường Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng nguyên tắc phát triển bền vững. Khoản 1
điều 4 luật BVMT 2005 quy định:
“BVMT phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội
để PTBV đất nước; BVMT quốc gia phải gắn với BVMT khu vực và toàn cầu.”
Với ý nghĩa đó, sau khi học xong môn học Kinh tế môi trường dành cho học
viên cao học, tôi chọn vấn đề “Các nguyên tắc phát triển bền vững” làm bài tiểu
luận. Với những hiểu biết cá nhân, tôi hy vọng sẽ có những đóng góp nhỏ cho lý
luận về vấn đề này.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu bản chất, các quy định pháp lý, lý luận về các
nguyên tắc PTBV cũng như thực trạng mối quan hệ giữa môi trường và phát triển
kinh tế - xã hội (KT-XH) ở Việt Nam để thấy được những mặt còn tồn tại, từ đó đưa

3


ra một số giải pháp, kiến nghị giải quyết hài hòa mối quan hệ này để đạt được mục
tiêu phát triển bền vững.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tiểu luận sử dụng các phương
pháp nghiên cứu tổng hợp như: thu thập tài liệu, kết hợp phân tích, thống kê, tổng
hợp, so sánh từ đó khái quát hóa giải quyết vấn đề.
1.4. Ý nghĩa
Làm rõ nội dung về các nguyên tắc PTBV; đánh giá thực trạng việc BVMT
(BVMT) gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để PTBV
đất nước.


4


PHẦN: NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận về phát triển bền vững
2.1.1. Khái niệm và ý nghĩa
PTBV (Sustainable Development) là sự phát triển KT-XH lành mạnh, dựa trên
việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT, nhằm đáp ứng nhu
cầu hiện tại, nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ
mai sau.
Như vậy, chỗ dựa cơ bản cho PTBV trước hết là sử dụng hợp lý tài nguyên
thiên nhiên. Nhờ việc sử dụng này, các nguồn tài nguyên thiên nhiên vẫn đáp ứng
tốt nhất cho các nhu cầu hiện tại; nhưng chúng không bị cạn kiệt vô lý, nhờ đó vẫn
có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu cho các thế hệ kế theo. Chỗ dựa thứ hai của PTBV là
bảo vệ môi trường (BVMT), nhờ đó chất lượng môi trường không bị suy giảm,
thậm chí còn được cải thiện, nên vẫn thỏa mãn các đòi hỏi về môi trường của các
thế hệ mai sau. Như vây, PTBV là sự phát triển KT-XH lành mạnh, không chỉ vì
hôm nay, mà còn là sự phát triển vì tương lai.
2.1.2. Các quan điểm phát triển bền vững
Một hoạt động được xem là bền vững trong sự kết hợp môi trường và phát
triển. Điều đó cũng có nghĩa là hoạt động đó được tiến hành bình thường trong hiện
tại, nhưng không bị các mối đe dọa loại trừ hoạt động này trong tương lai.
Mong ước vọng của mọi người, mọi dân tộc, là phát triển; nhưng do mức độ
thiết thực của đời sống; phương diện cơ bản đầu tiên mà họ cần được đáp ứng là
kinh tế. Họ cần có sự tăng trưởng để phần kinh tế gia tăng thỏa mãn nhu cầu nâng
cao đời sống, để không phải vật lộn với việc mưu sinh.
Khi thực lực kinh tế
chấp nhận được, con người muốn có một xã hội tốt đẹp, công bằng, bình đẳng để
mọi người đều có cơ hội thăng tiến trong sự nghiệp, được tôn trọng, không bị bóc

lột, đời sống luôn ấm no, các giá trị văn hóa, phong tục, tín ngưỡng cả chung và
riêng đều được trân trọng, bảo tồn…để tạo nên sự thoải mái, yên bình, êm ấm trong
cuộc đời.
Tiếp theo, con người muốn được sống trong môi trường trong lành sạch đẹp,
nhất là khi đã có mức sống kinh tế cao, được xã hội trọng vọng. Đó phải là môi
trường có sự thích nghi cao, có đầy đủ các loài cây – con đa dạng theo sở thích, có
tài nguyên giàu có luôn được bảo tồn và giàu có hơn, không phải lo ngại về ô nhiễm
môi trường, không bị suy thoái môi trường và hoàn toàn yên tâm về tương lai lâu
dài của con cháu…
Như vậy, có thể thấy kinh tế, xã hội và môi trường là ba cực chủ yếu trong phát triển
của con người, nên tính bền vững phải được xem xét ở cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi
trường. Từ đó, có thể khẳng định PTBV thực chất chính là sự phát triển hài hòa,
cân đối giữa kinh tế - xã hội - môi trường.
5


Tuy nhiên, để tiến tới xây dựng được quá trình phát triển bền vững, là một công
việc cực kỳ khó khăn và phức tạp; với các nội dung cụ thể rất đa dạng và có sự khác biệt
rất rõ giữa các khu vực, giữa các thời kỳ phát triển,…Song, nhìn chung, các nội dung đó
đều thống nhất lại ở bốn giải pháp cơ bản sau:
Một là, tôn trọng các quy luật tự nhiên.
Do là một bộ phận không thể tách rời của môi trường sống, nên con người và
sản xuất xã hội thực chất là các đối tượng bán tự nhiên – nghĩa là bên cạnh việc chịu
sự chi phối của các quy luật xã hội, con người luôn chịu tác động của các quy luật
tự nhiên.
Mặt khác, dù là con người nhờ các thành tựu của cách mạng khoa học – kỹ
thuật và công nghệ, đã từng bước chế ngự và chinh phục tự nhiên. Song các thành
quả chế ngự và chinh phục tự nhiên, thực chất là quá trình nhận thức và vận dụng
các quy luật tự nhiên. Nếu con người hiểu và vận dụng đúng các quy luật tự nhiên,
thì con người có thể hướng tự nhiên phát triển theo hướng có lợi cho con người.

Còn nếu con người không nhận thức được hoặc vi phạm các quy luật tự nhiên, thì sẽ
bị tự nhiên “trả thù”, thậm chí trở thành nô lệ của tự nhiên. Con người cũng không
thể xóa bỏ các quy luật tự nhiên có hại cũng như chưa thể tạo ra các quy luật tự
nhiên lợi cho mình…
Vì vậy, để đảm bảo phát triển bền vững, trước tiên con người phải nắm rõ các
quy luật tự nhiên, sau đó phải lựa theo quy luật tự nhiên này để khai thác, sử dụng,
tác động vào môi trường một cách phù hợp. Không được can thiệp thô bạo vào tự
nhiên, không được làm đảo lộn các quá trình tự nhiên mà phải tôn trọng các quy
luật tự nhiên. Có như vậy, mới hòa nhập các quá trình phát triển vào các quá trình tự
phát triển trong môi trường, mới biến các đối tượng của quá trình phát triển thành
các bộ phận hữu cơ trong môi trường sống hài hoà, cân bằng và thống nhất. Chính
sự hòa nhập và gắn kết này là tiền đề quyết định cho tương lai bền vững.
Hai là, tiết kiệm trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và thành phần môi trường.
Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên không có khả năng tái sinh, nhiều thành phần
môi trường bị khống chế rõ ràng về quy mô và phạm vi tác động, và ngay các nguồn tài
nguyên có khả năng phục hồi thì khả năng khai thác, sử dụng của chúng cũng bị khống
chế rõ rệt bởi mức tự tái tạo, phục hồi. Do vậy, để có thể khai thác, sử dụng, tác động tiếp
tục mãi mãi, thì không có cách nào khác là phải tiết kiệm.
Tiết kiệm không phải là sự lẩn tránh các nhu cầu, mà đó là việc sử dụng khôn
ngoan các tài sản có liên quan, nhất là các tài sản và nguồn lực mà thiên nhiên đã ban
tặng cho con người.
Để tiết kiệm trong khai thác, sử dụng, trước hết cần điều tra, phân tích đánh
giá để nắm vững các nguồn lực hiện có, trong đó phải xác định rõ: các phần có thể
khai thác, sử dụng với hiệu quả cao; các phần có thể tận thu, các phần có thể dự trữ,
có thể truyền lại cho thế hệ sau. Sau đó phải quản lý chặt chẽ từ khâu khai thác,
6


chuyên chở, bảo quản, sử dụng…Đồng thời phải tăng cường áp dụng các tiến bộ

khoa học – kỹ thuật và công nghệ, để tăng thêm khả năng khai thác, tăng thêm hiệu
suất khai thác, tăng thêm hiệu suất sử dụng, tăng thêm hiệu suất chế biến…nếu làm
tốt việc tiết kiệm này sẽ làm tăng thêm khả năng khai thác, tăng thêm sản lượng
khai thác, tăng thêm thời gian khai thác…Nhờ đó cho phép con người lấy được
nhiều nhất các loại nguyên vật liệu thô, năng lượng từ một đối tượng khai thác; lấy
được khối lượng khai thác cao nhất cho mỗi loại; và trong thời gian dài nhất (đối
với các nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh) – tức là sẽ cho phép huy động
được nhiều nhất các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường vào
việc hỗ trợ thúc đầy quá trình phát triển
Ba là, áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật và công nghệ vào quá trình
sử dụng, chế biến tài nguyên thiên nhiên.
Thực chất đây cũng là một giải pháp để khai thác, sử dụng tiết kiệm. Nếu như
giải pháp thứ hai giúp con người lấy được nhiều phần hữu ích nhất từ tự nhiên thì
giải pháp này giúp con người sản xuất ra được nhiều loại sản phẩm nhất, mỗi loại
sản phẩm có số lượng cao nhất để đáp ứng cao nhất cho các nhu cầu của xã hội,
đồng thời ngăn chặn nguy cơ cạn kiệt hoàn toàn một loại khoáng sản nào đó hiện có
trong môi trường
Để đạt được các mục tiêu đó, trước hết cần sử dụng tổng hợp tài nguyên thiên
nhiên và thành phần môi trường nhằm khai thác tối đa các giá trị kinh tế vốn có
trong từng loại tài nguyên thiên nhiên, kể cả các loại phụ liệu, phế liệu. Sau đó là áp
dụng các công nghệ mới để giảm bớt định mức tiêu hao các loại nguyên, nhiên, vật
liệu, năng lượng cũng như giảm nguồn chất thải trong việc tạo ra một đơn vị sản
phẩm. Tìm cách thay thế các loại nguyên liệu quý hiếm bằng các loại nguyên liệu
có tính chất phổ biến hoặc nhân tạo…
Giải pháp thứ ba này rất quan trọng, bởi vì từ giải pháp này, chúng ta có thể
đáp ứng nhiều nhu cầu của xã hội hơn, đáp ứng ở mức độ cao hơn, trong khhi
không làm tăng cường độ và quy mô khai thác, sử dụng, tác động vào môi trường;
nhờ đó giảm thiểu được đáng kể các tác động tiêu cực trở lại của quá trình phát triển
tới môi trường.
Bốn là, tăng cường các biện pháp bảo vệ, phục hồi, tái tạo tài nguyên; cải tạo

và làm phong phú hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi
trường.
Dù giải pháp thứ hai có giúp con người tăng khả năng và thời hạn khai thác, sử
dụng tài nguyên thiên nhiên, để có thể lấy được nhiều giá trị hữu ích nhất từ môi trường;
và giải pháp thứ ba có giúp con người tạo ra nhiều loại sản phẩm nhất, mỗi loại với số
lượng nhiều nhất, để đáp ứng được nhiều và cao nhất các nhu cầu của xã hôi – thì bản
thân các giải pháp này đều ẩn chứa nguy cơ dẫn đến cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên (do
giải pháp hai) và nguy cơ suy thoái môi trường (do giải pháp ba); nghĩa là chúng vẫn
tiềm ẩn mối họa cho phát triển bền vững. Để vừa khắc phục các hạn chế của hai giải
7


pháp trên, đồng thời vừa bổ trợ cho chúng trong sứ mệnh PTBV cần phải thực hiện giải
pháp thứ tư.
Giải pháp thứ tư đòi hỏi phải bảo vệ được những gì còn có của môi trường,
nhất là các thành phần hữu ích truyền lại cho các thế hệ mai sau. Bên cạnh đó là
phục hồi lại các thành phần môi trường đã bị suy giảm, cạn kiệt; tái tạo lại các thành
phần môi trường đã bị suy thoái, biến chất; cải tạo các thành phần chưa hữu ích để
chúng trở thành hữu ích với con người. Đồng thời thực hiện việc bổ sung, làm mới
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường để làm phong phú hơn
chất lượng môi trường sống.
Nếu làm được như vậy đây sẽ là cách thức hữu hiệu nhất để giảm thiểu các
ảnh hưởng tiêu cực trở lại của quá trình phát triển tới môi trường; góp phần duy trì
và cải thiện nguồn tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường vì sự tồn tại và
phát triển của các thế hệ mai sau.
Như vậy, với bốn giải pháp trên, con người không chỉ tạo ra sự PTBV về mặt
xã hội, bền vững về mặt kinh tế; mà còn có cả sự bền vững về mặt môi trường.
Nhưng quan trọng hơn cả là cả ba mặt bện vững – về kinh tế, xã hội và môi trường
– được thực hiện đồng thời, trong mối quan hệ phối hợp tương hỗ lẫn nhau. Khi đó
con người chắc chắn sẽ tạo ra sự phát triển bền vững.

2.1.3. Các nguyên tắc phát triển bền vững
Với các nội dung đã được nghiên cứu ở trên, PTBV sẽ là xu thế phát triển của thời
đại, là định hướng phát triển tương lai của con người; nên đây sẽ là một công cuộc vĩ đại
nhưng cũng đồng thời chứa đầy các nguy cơ và thách thức; cần phải có sự tham gia rộng
khắp của mọi người, mọi dân tộc, mọi quốc gia; cũng như của mọi ngành nghề, mọi lĩnh
vực…Để làm rõ hơn những vấn đề không thể thiếu trong phát triển bền vững; cũng như
nghĩa vụ và trách nhiệm của các đối tượng tham gia vào sự nghiệp này, người ta đã đưa
ra chín nguyên tắc PTBV với các nội dung cụ thể như sau:
2.1.3.1. Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng
Để tạo ra sự hưởng ứng tham gia rộng khắp của toàn thể xã hội, công cuộc
PTBV phải được thực hiện trên nền tảng hòa bình, hữu nghị và hợp tác của mọi
thành viên trong xã hội. Mặt khác, tuy mục đích cơ bản của công cuộc này là phục
vụ con người; nhưng nó sẽ trở nên vô nghĩa nếu môi trường sống bị phá vỡ, khi các
loài sinh vật khác bị đe dọa, thậm chí bị tuyệt chủng. Vì vậy, tôn trọng và quan tâm
đến cuộc sống cộng đồng chính là tư tưởng chỉ đạo của sự nghiệp phát triển bền
vững, góp phần bảo vệ và PTBV toàn bộ thế giới sinh vật nói chung. Đây là nguyên
tắc có tính chất đạo lý tạo nên cơ sở, nền tảng cho việc triển khai và vận dụng các
nguyên tắc khác của phát triển bền vững.
Vận dụng nguyên tắc này trước hết cần làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục để
nâng cao nhận thức của mọi người; để từng người và sau đó từng cộng đồng; từng
quốc gia – hiểu rõ vai trò, vị trí của họ trong cuộc sống; cũng như nghĩa vụ và trách
nhiện của họ trước các lợi ích chung, trước tiến trình phát triển chung của nhân loại.
8


Nhờ đó, họ vừa có thể tìm ra cách thức để mang lại sự phát triển tốt nhất cho bản
thân nhưng không làm tổn hại đến quyền lợi của người khác, cộng đồng khác, quốc
gia khác cũng như không làm tổn hạn đến quyền lợi của thế hệ mai sau; hoặc tổn
hại đến sự tồn tại và phát triển của các hình thức khác của sự sống trên Trái đất
trong hiện và tương lai… Sau đó, cần phải có các quy định pháp luật rõ ràng, minh

bạch, phù hợp và khoa học, để tạo thành các chuẩn mực trong ứng xử của mọi
người, mọi cộng đồng, mọi quốc gia mà trong đó, đặc biệt lưu ý đến vấn đề chia sẻ
công bằng các phúc lợi và chi phí trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và
BVMT; để mọi người đều được hưởng thụ ở mức cao nhất các hàng hóa công cộng
môi trường; tiếp cận tốt nhất với các nguồn lực chung do thiên nhiên ban tặng; và
có trách nhiệm thỏa đáng trong việc bảo vệ “ngôi nhà chung” của nhân loại. Đồng
thời cần có sự giám sát, có các chế tài cần thiết để điều chỉnh các hành vi chưa phù
hợp…để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi đối tượng xã hội; để bảo vệ các cộng
đồng sinh vật khác trong tự nhiên.
2.1.3.2. Chú trọng cải thiện chất lượng cuộc sống con người
Con người là bộ phận quan trọng nhất của sinh quyển; là hạt nhân cơ bản để
tạo nên môi trường xung quanh, là trung tâm của mọi quá trình phát triển…Do đó,
cải thiện chất lượng cuộc sống con người chính là mục tiêu cơ bản của phát triển, để
từ đó tạo ra sự PTBV cho bộ phận sinh vật sống quan trọng nhất trong môi trường.
Vận dụng nguyên tắc này, trước hết cần hướng mục tiêu cơ bản trong các
đường lối, chính sách phát triển vào việc đáp ứng tới mức cao nhất các nhu cầu của
con người, cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục, an ninh, môi trường…Hướng tới xây
dựng một xã hội chân chính, lành mạnh, công bằng với một mức sống cao, một nền
giáo dục tốt, bình đẳng về chính trị, an ninh, an toàn, không bạo lực; chú trọng đúng
mức đến y tế; giáo dục để tạo lập các thế hệ tương lai với thể chất khỏe mạnh, lành
mạnh về tinh thần, có trách nhiệm cao trước cộng đồng và tương lai.
Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác dân số và phân bố hợp lý dân cư; để giảm
bớt áp lực của dân cư lên môi trường, lên nền kinh tế…Để chỉ cần với mức phát
triển kinh tế hiện tại, nhưng nền kinh tế vẫn đủ khả năng đảm bảo và hơn nữa, có
khả năng cải thiện mức sống của dân cư. Phân bố hợp lý dân cư để mở mang không
gian sống, tạo thuận lợi cho việc giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập và giảm
sức ép của dân cư lên môi trường sống; đồng thời có thêm nhiều không gian dự trữ
để triển khai các đối tượng của hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật nhằm nâng cao chất
lượng cuộc sống…
2.1.2.3. Bảo vệ sức sống và tính đa dạng sinh học của Trái đất

Qua mối quan hệ giữa môi trường và phát triển, ta thấy, muốn PTBV thì phải bảo
vệ và cải thiện được chất lượng môi trường; trong đó việc quan trọng nhất là phải bảo vệ
được ba chức năng cơ bản của môi trường – mà trong đó đầu tiên phải bảo vệ được chức
năng thứ nhất: tạo không gian sống. Để bảo vệ chức năng này thì điều quan trọng nhất là
phải bảo vệ được sức sống trong các vùng; bảo vệ và phát triển được các sinh vật sản
9


xuất để duy trì và phát triển nguồn vật chất khô được tạo bởi quá trình quang hợp; và sau
đó bảo vệ được các sinh vật tiêu thụ, các sinh vật hoại sinh để đảm bảo sự hoạt động bình
thường của các hệ sinh thái. Vì vậy, nguyên tắc 3 này góp phần bảo vệ chức năng thứ
nhất của môi trường; là nền tảng cơ bản để PTBV ngành nông nghiệp.
Vận dụng nguyên tắc này cần phải:
- Bảo vệ, duy trì và cải thiện hệ thống nuôi dưỡng sự sống: môi trường không
khí, môi trường nước, môi trường đất – là các thành phần cơ bản của hệ nuôi
dưỡng, để bảo vệ sức sống của môi trường.
- Sau đó phải bảo vệ nguồn gen, nhất là các nguồn gen đặc hữu, bản địa của các
địa phương.
- Phải khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lợi sinh vật, nhất là tài
nguyên rừng; nghiêm cấm việc khai thác bằng thuốc độc, bằng chất nổ hoặc khai
thác trong mùa sinh sản. Nghiêm cấm việc săn bắt và buôn bán các loài sinh vật quý
hiếm, đang có nguy cơ tuyệt chủng...Đồng thời, đẩy mạnh việc tìm kiếm, sưu tầm
và lai tạo các loại cây trồng, vật nuôi mới với nhiều phẩm chất tốt, như có năng suất
cao, chất lượng tốt, có khả năng chống chịu sâu bệnh, hạn hán…bên cạnh đó, cần
duy trì bảo vệ các hệ sinh thái đặc thù như các cánh rừng ngập mặn, các rừng đặc
chủng…
- Đảm bảo sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên đất đai và nguồn nước.
2.1.3.4. Hạn chế tới mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn tài
nguyên không thể tái sinh
Đối với các nguồn tài nguyên không có khả năng tái sinh – như các loại

khoáng sản – cần phải hạn chế đến mức thấp nhất việc làm cạn kiệt chúng, bằng
cách bảo vệ, tiết kiệm chúng trong quá trình khái thác, chuyên chở, bảo quản, chế
biến; bằng việc sử dụng tổng hợp tài nguyên thiên nhiên, thay thế các loại nguyên
nhiên vật liệu quý hiếm bằng các nguyên vật liệu có tính chất phổ biến hoặc nhân
tạo; áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến để giảm bớt định mức tiêu hao nguyên
nhiên vật liệu, giảm nguồn chất thải trong việc tạo ra một đơn vị sản phẩm…cần
làm sao cho hài hoài giữa lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài, giữa quyền lợi của
thế hệ hôm nay và thế hệ tương lai. Đồng thời, tìm kiếm cách thức để tăng nguồn dự
trữ tài nguyên thiên nhiên cho tương lai, như tăng cường đầu tư cho việc tìm kiếm
các loại nguyên vật liệu mới trong tự nhiên, tìm kiếm các vùng mỏ mới; tăng cường
khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên vô hạn để bù đắp cho việc giảm sản lượng
khai thác các nguồn tài nguyên có hạn…
2.1.3.5. Giữ vững khả năng chịu đựng của Trái đất
Khả năng chịu đựng có thể được hiểu là giới hạn có thể chấp nhận để có một
số lượng cá thể sống được trong vùng mà không gây ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái.
Con người có thể mở rộng giới hạn chịu đựng của tự nhiên bằng kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhưng nếu không dựa trên cơ sở
quy luật vốn có của tự nhiên thì thường phải trả giá bằng sự suy thoái, nghèo kiệt
10


hoặc làm suy giảm chức năng cung cấp, làm giảm khả năng chịu đựng của hệ sinh
thái trái đất. Hậu quả của việc vượt quá khả năng chịu đựng không chỉ ảnh hưởng
đến kinh tế và môi trường mà còn gây ra các bất ổn về chính trị và xã hội.
Để thực hiện nguyên tắc này, hạn chế gia tăng dân số là mức tiêu thụ là biện
pháp cơ bản nhất. Ở các nước kém phát triển cần giảm tỷ lệ sinh, còn ở các nước
thu nhập cao thì cần hạn chế mức tiêu thụ. Cần phải nâng cao dân trí nói chung, cần
tiến hành các biện pháp để cho tất cả mọi người hiểu rằng khả năng chịu đựng của
trái đất là có giới hạn.
2.1.3.6. Thay đổi thái độ, thói quen của mỗi người

Nếu như nguyên tắc 1 nêu lên tư tưởng chỉ đạo, nguyên tắc 2 nêu lên mục tiêu cơ
bản của phát triển bền vững; thì nguyên tắc 3,4,5 lại góp phần bảo vệ các chức năng cơ
bản của môi trường, PTBV ba khu vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Do đó, năm
nguyên tắc đầu chính là điều kiện cần của phát triển bền vững. Vì vậy để thực sự có phát
triển bền vững, cần có các điều kiện đủ. Hơn nữa, PTBV là sự nghiệp chung vĩ đại của
cả nhân loại, nên điều kiện đủ đầu tiên gắn liền với trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi con
người. Do đó, thay đổi thái độ và thói quen sống của mỗi người, chính là góp phần tạo ra
việc BVMT và PTBV từ mỗi con người.
Vận dụng nguyên tắc này, trước tiên cần đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo
và tuyên truyền các kiến thức về môi trường cũng như các vấn đề về môi trường
hiện tại để từ đó mỗi người có nhận thức rõ và đầy đủ về vai trò, vị trí của môi
trường cũng như các thách thức môi trường đang đặt ra…Trên cơ sở các nhận thức
đó, từng người sẽ có các thay đổi cần thiết trong thái độ và thói quen sống, nhất là
các thái độ và thói quen sống chưa phù hợp, để hình thành một đạo đức mới, lành
mạnh và hài hòa với môi trường. Nhờ đó, từng người sẽ tiết kiệm trong tiêu dùng,
có ý thức giữ gìn vệ sinh chung hơn trong sinh hoạt, tự nguyện và tích cực hơn
trong các hoạt động môi trường. Bên cạnh đó, mỗi người còn có các hành xử đúng
mực trước các ứng xử chưa phù hợp của các đối tượng chưa hiểu biết đầy đủ, đang
gây ra tác động xấu đối với môi trường; tham gia chống biến đổi khí hậu, khắc phục
các sự cố môi trường…
2.1.3.7. Cho phép các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường của mình
Có quan điểm cho rằng chỉ cần thực hiện tốt các điều kiện cần và vận dụng
tuyệt đối nguyên tắc 6 – thay đổi thái độ và thói quen sống của mỗi người – là đã
hoàn toàn có thể đảm bảo có sự phát triển bền vững, vì khi đó không còn có một
người nào còn gây tác động xấu tới môi trường. Nhưng khả năng vận dụng tuyệt đối
nguyên tắc 6 là điều không thể bởi vì số lượng đông đảo trên 7 tỷ người, cùng với
muôn vàn sự khác biệt về phong tục, tập quán, nhận thức, khả năng, hoàn cảnh,…
Kết quả, dẫn đến có một lượng không nhỏ các cá nhân còn có nhiều tác động xấu –
gồm cả vô thức và cố ý – tới môi trường. Để ngăn chặn và loại trừ các ảnh hưởng
xấu này tới môi trường, cần phải cho phép các cộng đồng tự quản lý lấy môi trường

của mình. Đây là hình thức thông qua cộng đồng để khắc phục các yếu kém, tồn tại
của các cá nhân trong cộng đồng; đồng thời cũng là hình thức quản lý môi trường
11


thiết thực và hiệu quả nhất trong thực tế, và góp phần tạo ra sự đảm bảo trong
BVMT và PTBV từ mỗi khu vực, từ mỗi cộng đồng
Vận dụng nguyên tắc này, mỗi nước cần cho phép các cộng đồng có sự thống
nhất và bền vững cao – như vùng quần cư tập trung của một dòng họ, của một dân
tộc; hoặc các đơn vị hành chính như: làng, xã, buôn, sóc…được tự quản lý lấy môi
trường sống của mình. Để bên cạnh việc thực hiện các chiến lược PTBV của các tổ
chức quốc tế, như Chương trình môi trường và phát triển của Liên Hợp Quốc, tổ
chức Hòa Bình Xanh…; hoặc bên việc thực hiện các chiến lược PTBV của quốc
gia. Mỗi cộng đồng còn có các chương trình BVMT và PTBV riêng cho môi trường
sống của mình. Mỗi cộng đồng sẽ căn cứ vào trực trạng môi trường của mình và xu
hướng biến đổi của nó, căn cứ vào các quan niệm, phong tục, tập quán, nếp sống…
của cộng đồng mình để đề ra các quy ước riêng, tương ứng, phù hợp với các điều
kiện cụ thể vốn có. Đây sẽ là các giải pháp cụ thể và thiêt thực nhất giúp cho việc
BVMT và PTBV ở các khu vực, các cộng đồng. Ngoài ra, còn cần có sự theo dõi,
giám sát, giúp đỡ của nhà nước về chuyên môn, về pháp lý, về tài chính…hoặc để
giúp các cộng đồng này giải quyết các vấn đề về môi trường liên khu vực, hoặc
vượt quá khả năng của họ…
2.1.3.8. Tạo ra một cơ cấu quốc gia thống nhất cho việc phát triển và bảo vệ
Thực hiện theo nguyên tắc này thực ra là một điều kiện đủ vô cùng quan trọng
trong sự nghiệp PTBV của một đất nước bởi vì để BVMT và PTBV thực ra phải được
tiến hành ở quy mô hành chính thống nhất cao nhất nhằm bảo vệ được “ngôi nhà chung”
và gắn kết phát triển kinh tế - xã hội và môi trường tạo ra sự hài hòa trong phát triển kinh
tế, xã hội và môi trường. Ngoài ra, với các chức năng và quyền hạn của mình, cấp quốc
gia là cấp tốt nhất cho việc tổ chức và phát triển. Nhờ đó nguyên tắc này góp phần tạo ra
việc BVMT và PTBV từ mỗi quốc gia.

Vận dụng nguyên tắc này, trước tiên ở mỗi quốc gia cần phải có một hệ thống
thế chế quốc gia phù hợp và khoa học. Trong đó, các chính sách phát triển phải thực
sự là việc vận dụng các quy luật vào điều kiện cụ thể của đất nước và có sự xem xét
tác động qua lại với môi trường. Phải có bộ máy quản lý gọn nhẹ, đủ năng lực,
trong đó có các cơ quan chuyên trách về vấn đề môi trường, và tất cả đặt dưới một
sự chỉ đạo tập trung thống nhất, để dung hòa hợp lý nhu cầu phát triển với nhu cầu
bảo vệ. Phải có pháp luật minh bạch, rõ ràng với các chế tài đủ sức răn đe và khắc
phục hậu quả; trong đó có pháp luật về BVMT. Và đặc biệt, giữa các yếu tố cấu
thành thể chế phải có sự phối hợp gắn bó và thống nhất với nhau; cân đối hợp lý
giữa phát triển và bảo vệ. Để bên cạnh các cơ quan quản lý môi trường theo ngành
dọc từ trung ương tới cơ sở, còn phải có các bộ phận chuyên trách về môi trường
trong các bộ, ngành có liên quan để phối hợp nhịp nhàng các quá trình phát triển
kinh tế - xã hội với việc bảo vệ, và cải thiện môi trường, hướng tới sự phát triển bền
vững.
2.1.3.9. Kiến tạo một cơ cấu liên minh toàn cầu
12


Trong thực tiễn cuộc sống hiện nay, còn rất nhiều quốc gia chưa chú trọng đúng
mức tới BVMT và phát triển bền vững, nhất là ở các nước châu Phi. Hơn nữa, trong các
nước đã chú trọng nhiều đến BVMT và PTBV thì các vấn đề môi trường chính của họ
nhiều khi không giống nhau. Ví dụ: trong lúc các nước Tây Âu đang đặc biệt quan tâm
đến biến đổi khí hậu, thì Nhật Bản lại chú ý nhiều đến hiện tượng nước biển dâng, Hoa
Kỳ dồn quan tâm chống sự thoái hóa của đất, Braxin lo ngại về suy giảm đa dạng sinh
học…từ đó làm phân tán nổ lực chung của toàn thế giới trong việc cứu lấy “ngôi nhà
chung” đang bị chính con người hủy hoại. Vì vậy, kiến tạo một cơ cấu liên minh toàn cầu
sẽ giúp tạo ra điều kiện BVMT và PTBV trên toàn bộ bề mặt hành tinh.
Vận dụng nguyên tắc này, trước hết cần có sự phối hợp của các chuyên gia trong lĩnh
vực BVMT, trong lĩnh vực phát triển trên quy mô toàn cầu. Từ đó đưa ra các nhận xét, đánh
giá tổng hợp về các vấn đề môi trường trên quy mô hành tinh; trong đó nêu rõ mức độ, thách

thức và triển vọng biến đổi, đồng thời chỉ ra các nguyên nhân cơ bản, tìm kiếm các cách thức
khắc phục…Trên cơ sở các nhận thức đó, sẽ xây dựng, điều chỉnh, bổ sung các công ước
quốc tế, xây dựng các chương trình hành động trên quy mô toàn cầu; xây dựng các hiệp định
cần thiết và tổ chức thực hiện…Bên cạnh đó, xây dựng các tổ chức điều phối hoạt động trên
phạm vi toàn cầu, như Chương trình môi trường và phát triển của Liên Hợp Quốc, để mọi
quốc gia cùng tham gia các hoạt động cần thiết có liên quan, thực hiện khẩu hiệu “một Trái
đất – một gia đình”.
Trên đây là nội dung cơ bản của các nguyên tắc phát triển bền vững. Trong đó, năm
nguyên tắc đầu là các điều kiện cần, bốn nguyên tắc sau là các điều kiện đủ. Tuy rằng, tùy
nơi, tùy lúc, tùy giai đoạn và mục đích phát triển…mà vai trò và vị trí của từng nguyên tắc
có thể khác nhau. Song để tạo ra sự PTBV bao giờ cũng phải quán triệt tổng hợp các nguyên
tắc này, có như vậy mới thực sự tạo ra sự PTBV cho toàn nhân loại, trên toàn bộ bề mặt hành
tinh.
2.3. Thực trạng PTBV môi trường Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Thưc hiện cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế về PTBV,
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 153/2004/TTg ngày 17/8/2004 phê duyệt và
ban hành "Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của
Việt Nam)". Đây là Chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở
pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển
khai thực hiện và phối hợp hành động nhằm bảo đảm PTBV đất nước trong thế kỷ
XXI. Nhằm cụ thể hóa và điều chỉnh các nội dung của Chương trình Nghị sự 21 của
Việt Nam cho phù hợp với bối cảnh phát triển của đất nước trong giai đoạn 10 năm
2011 - 2020, vừa qua Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 432/QĐ-TTg ngày
12/4/2012 phê duyệt Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn (2011 – 2020), trong đó
xác định các quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu giám sát, đánh giá, các định hướng ưu
tiên PTBV và các nhóm giải pháp thực hiện PTBV .
2.3.1. Diễn biến môi trường nước ta thời gian qua

13



Tăng trưởng và phát triển kinh tế (PTKT) trong thời gian qua đã đem lại thành
quả to lớn, làm tăng quy mô và tiềm lực nền kinh tế, đưa đất nước thoát khỏi tình
trạng kém phát triển. Bên cạnh đó, cũng tồn tại những yếu kém trong phát triển theo
hướng bền vững, trong đó đáng chú ý là các yếu kém liên quan tới mối quan hệ tăng
trưởng, phát triển kinh tế và bảo vệ TN&MT.
Trong đánh giá gần đây nhất về lĩnh vực TN&MT, để chuẩn bị cho xây dựng
kế hoạch 5 năm phát triển giai đoạn 2011 - 2015, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khái
quát các tồn tại, thách thức trước mắt về TN&MT và PTBV ở Việt Nam như sau:
Những thành tựu về tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đang phải trả giá
về tác động môi trường, đặc biệt liên quan đến cuộc sống của 70% dân số hiện đang
dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên là chính;
Xu thế đô thị hóa nhanh, sự gia tăng dân số và mở rộng lĩnh vực nông nghiệp,
nhất là sản xuất gạo và nhu cầu chuyển các khu bảo tồn sang thành các cơ sở hạ
tầng cho phát triển đã dẫn đến sự xuống cấp một số hệ sinh thái quan trọng và suy
giảm đa dạng sinh học (ĐDSH);
Ô nhiễm môi trường đô thị và công nghiệp làm gia tăng số người mắc bệnh và
ô nhiễm tài nguyên nước do việc xả thải chất thải công nghiệp đã làm cho nhiều
nguồn nước không sử dụng được;
Tăng trưởng kinh tế nhanh cũng dẫn đến việc tăng nhu cầu năng lượng. Việt
Nam sẽ còn phải dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên như than, khí ga và thủy
điện quy mô lớn để đáp ứng được nhu cầu về năng lượng điện. Điều này tiếp tục tạo
sức ép lên nguồn tài nguyên đang cạn kiệt của đất nước.
Tháng 9/2011, Bộ TN&MT đã công bố Báo cáo Môi trường quốc gia 2010 Tổng quan môi trường Việt Nam, trong đó đã khái quát bức tranh môi trường Việt
Nam trong 5 năm qua (2006 - 2010) như sau: Ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng;
ĐDSH suy giảm nghiêm trọng; an ninh môi trường bị đe dọa; quản lý môi trường
còn nhiều bất cập; vai trò của cộng đồng chưa được huy động đầy đủ.
Diễn biến môi trường thời gian qua và xu hướng diễn biến trong giai đoạn
phát triển tới cho thấy, mặc dù đã có nhiều cố gắng, nỗ lực của các cơ quan quản lý
môi trường, của các tổ chúc chính trị, xã hội, nghề nghiệp cũng như của các cộng

đồng (doanh nghiệp, dân cư) nhưng bức tranh về môi trường nhiều khả năng vẫn
không được cải thiện mà thậm chí ở nhiều nơi còn xấu đi, đe dọa không chỉ sự bền
vững về môi trường mà cả sự bền vững về KT-XH nếu không có nhũng giải pháp
thích họp.
Ngoài ra, bối cảnh quốc tế (suy thoái kinh tế, khủng hoảng tài chính...) và biến
đổi khí hậu (BĐKH) tiếp tục tác động và ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển của
đất nước theo hướng bên vững.
2.3.2. Quan điểm, mục tiêu, chỉ tiêu giám sát, đánh giá PTBV về môi
trường giai đoạn 2011 - 2020

14


Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt và ban hành thực hiện, trong đó xác định các quan điểm, mục tiêu,
chỉ tiêu giám sát, đánh giá PTBV với yêu cầu các cấp quản lý (quốc gia, Bộ ngành,
địa phương) lồng ghép vào trong quá trình hoạch định chính sách, xây dựng, điều
chỉnh và tổ chức thực hiện Chiến lược, Quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH.
2.3.2.1. Về quan điểm
Chiến lược xác định 5 quan điểm thể hiện cách thức tiếp cận đảm bảo bền
vững về môi trường. Cụ thể là:
Con người là trung tâm của PTBV. Đồng thời là đối tượng, mục tiêu mà mọi
khía cạnh của PTBV cần phải được hướng tới, trong đó phải đảm bảo và duy trì môi
trường sống lành mạnh, an toàn cho con người của thế hệ hiện tại cũng như con
người của thế hệ tương lai;
PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước. BVMT là một
yêu cầu tất yếu của phát triển mà các khía cạnh phát triển khác (kinh tế, văn hóa, xã
hội...) cần được kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa;
PTBV là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và các cấp quản lý. BVMT không
chỉ là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp mà phải trở thành

nhận thức, ý thức trách nhiệm và hành động của cả hệ thống chính trị và của từng
người dân;
Cơ hội bình đẳng cho mọi người trong tiếp cận, tham gia, đóng góp và hưởng
lợi trong quá trình phát triển. Đây là điều kiện tất yếu cần phải tạo ra để thực hiện
quan điểm BVMT là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và của từng người dân;
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho PTBV đất nước. Khẳng
định vị trí, vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ trong phát triển KT-XH
gắn với yêu cầu BVMT.
2.3.2.2. Về mục tiêu
Chiến lược xác định mục tiêu tổng quát là "Tăng trưởng bền vững, có hiệu
quả, đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ TN&MT, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội (CT-XH), bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia" vói mục tiêu cụ thể về môi trường là "Giảm thiểu các tác động
tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường (MT). Khai thác hợp lý và sử dụng
có hiệu quả các nguồn tài nguyên, thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo.
Phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất
lượng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn ĐDSH. Hạn chế tác hại của
thiên tai; chủ động thích ứng có hiệu quả với BĐKH, nhất là nước biển dâng".
2.3.2.3. Về chỉ tiêu giám sát, đánh giá PTBV
Chiến lược xác định 30 chỉ tiêu, chia ra 4 loại, trong đó: Chỉ tiêu tổng họp (3
chỉ tiêu); chỉ tiêu về kinh tế (10 chỉ tiêu); chỉ tiêu về xã hội (10 chỉ tiêu); và chỉ tiêu
TN&MT. Các chỉ tiêu này được yêu cầu lồng ghép vào quá trình hoạch định chính
sách, xây dựng, điều chỉnh và tổ chức thực hiện Chiến lược, Quy hoạch, kế hoạch
15


phát triển KT-XH của quốc gia, Bộ, ngành, địa phương cũng như trong hoạt động
của các tổ chức không phải của nhà nước (NGOs). Bộ Kế hoạch và Đầu tư được
giao nhiệm vụ xây dựng bộ chỉ tiêu PTBV cấp địa phương để thực hiện thống nhất
trong cả nước. Các Bộ, ngành khác được yêu cầu xây dựng các chỉ tiêu PTBV của

ngành mình. Tuy vậy, cũng có vấn đề đặt ra là có cần, một bộ chỉ tiêu PTBV cho
cấp vùng để theo dõi, giám sát, đánh giá. Bởi lẽ vùng ở nước ta hiện nay là một lĩnh
vực của quy hoạch phát triển và theo quy định hiện hành thì vùng KT - XH là "Loại
vùng phục vụ việc hoạch định Chiến lược và Quy hoạch phát triển KT - XH theo
lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển KT- XH trên mỗi vùng của đất
nước" (Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, ngày 7/9/2006, Điều 3).
Trong quá trình tham vấn về các chỉ tiêu giám sát, đánh giá PTBV, đối với loại
chỉ tiêu về TN&MT có nhiều ý kiến đóng góp, trong đó đáng chú ý và nổi bật 3 loại
ý kiến: số lượng loại chỉ tiêu về TN&MT trong tương quan với loại chỉ tiêu về KTXH; tính đại diện của các chỉ tiêu về TN&MT được lựa chọn; chỉ tiêu tổng hợp chỉ
số bền vững môi trường.
Về số lượng, loại chỉ tiêu về TN&MT ít hơn (7 chỉ tiêu) so với 2 loại chỉ tiêu
về KT-XH (mỗi loại là 10 chỉ tiêu). Điều này không có nghĩa là TN&MT ít quan
trọng hơn mà chủ yếu là loại chỉ tiêu TN&MT cho đến nay còn chưa được định
lượng cụ thể cho mục tiêu giám sát và đánh giá. Theo danh mục các chỉ tiêu PTBV
đã được phê duyệt ở Chiến lược cho thấy, nhiều chỉ tiêu về TN&MT đã được nêu
mà chưa được định lượng cụ thể cho cả 3 mốc thời gian (2010, 2015, 2020), như chỉ
số bền vững môi trường, tỷ lệ ngày có nồng độ các chất độc hại trong không khí
vượt quá tiêu chuẩn cho phép; hoặc mới được định lượng cụ thể cho 1 mốc thời
gian đã qua (năm 2010), như tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì ĐDSH, diện tích đất bị
thoái hóa. Các nhà khoa học và quản lý sẽ phải định lượng hóa các chỉ tiêu về
TN&MT giai đoạn 10 năm tới (2011 - 2020) mà còn chuẩn bị bổ sung thêm vào giai
đoạn 10 năm tiếp theo (2021 -2030).
Về tính đại diện của các chỉ tiêu về TN&MT được lựa chọn, cho thấy 7 chỉ
tiêu chưa đại diện đầy đủ về lĩnh vực phát triển trên, chủ yếu đại diện cho lĩnh vực
TN&MT đất, nước, rừng (chỉ tiêu 1,2,3,4), môi trường không khí (chỉ tiêu 5) và
quản lý chất thải (chỉ tiêu 6,7) (xem bảng). Chưa có chỉ tiêu đại diện về tài nguyên
khoáng sản, môi trường nông thôn, môi trường nước ở khu vực quan trọng (lưu vực
sông chẳng hạn).
Về chỉ tiêu tổng hợp "Chỉ số bền vững môi trường", cũng có ý kiến tỏ ra băn
khoăn về sự lựa chọn chỉ tiêu này vì tính khoa học và tính phổ biến sử dụng trên thế

giới; và cuối cùng chỉ tiêu này được lựa chọn với sự lưu ý cả về ưu điểm (tổng hợp,
ngắn gọn, đặc trưng PTBV ; đã được xác định trong Quyết định số 43/2010/QĐTTg ngày 2/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Hệ thống chỉ tiêu
thống kê quốc gia với mã số thống kê là 2123) và cả về điểm yếu (năm 2015 mới
tính toán được để công bố theo lộ trình thực hiện).
16


2.3.3. Các ưu tiên và giải pháp thực hiện PTBV về môi trường
Chiến lược đã xác định 9 định hướng ưu tiên PTBV về TN&MT, gồm: Chống
thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất; BVMT nước và sử dụng
bền vững tài nguyên nước; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài
nguyên khoáng sản; BVMT biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển;
bảo vệ và phát triển rừng; giảm ô nhiễm không khí và tiếng ồn ở các đô thị lớn và
khu công nghiệp; quản lý có hiệu quả CTR và chất thải nguy hại; bảo tồn và phát
triển ĐDSH; giảm thiểu tác động và ứng phó vói BĐKH, phòng chống thiên tai.
Các định hướng này thực chất là sự cụ thể hóa cho giai đoạn 10 năm tới các
nội dung định hướng ưu tiên PTBV về TN&MT đã được xác định trong "Định
hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam)" có
tính đến những điều chỉnh Chiến lược phát triển đất nước trong bối cảnh phát triển
mới ở trong nước và quốc tế, đặc biệt là tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô
hình tăng trưởng theo hướng chú trọng nhiều hơn vào chất lượng tăng trưởng, phát
triển, coi PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong mọi hoạt động phát triển. Ví dụ như
trong định hướng về khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm, bền vững tài nguyên
khoáng sản đã xác định "Hạn chế, kiểm soát chặt chẽ việc xuất khẩu tài nguyên thô
và đến năm 2020, chấm dứt xuất khẩu khoáng sản chưa qua chế biến sâu"; trong
bảo vệ và phát triển rừng chú ý tới lợi ích của người bảo vệ và người sử dụng tài
nguyên rừng và ĐDSH.
Ngày nay, trong bối cảnh cộng đồng thế giới và Việt Nam đang hướng tới xây
dựng nền Kinh tế xanh, coi phát triển nền Kinh tế xanh là cách thúc để đạt được các
mục tiêu phát triển bền vững, đây cũng là chủ đề chính sẽ được các quốc gia trên

thế giới thảo luận tại Hội nghị Thượng đỉnh Rio+20 về PTBV của Liên hợp quốc sẽ
được tổ chức tại Braxin vào tháng 6/2012. Việt Nam cũng đang xây dựng Chiến
lược Tăng trưởng xanh giai đoạn 2011 - 2020 và tầm nhìn tới năm 2030, trong đó đề
xuất hình thành "Quỹ Tăng trưởng xanh". Theo Chương trình Môi trường của Liên
hợp quốc (UNEP), phát triển nền Kinh tế xanh là nhân tố căn bản đảm bảo tiến trình
PTBV của mỗi quốc gia. Quỹ Hỗ trợ PTBV khi được thành lập và đi vào hoạt động
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (số 432/QĐ-TTg ngày 12/4/2012) phê
duyệt Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 sẽ hỗ trợ cho các hoạt
động tăng trưởng xanh.
Hiện nay, nhận thức về PTBV đã trở nên ngày càng rõ ràng hơn, trong đó
nhận thức về ý nghĩa, vai trò của TN&MT đã có những thay đổi căn bản. Môi
trường trước đây được coi là nơi chứa đựng và hấp thụ chất thải tạo ra bởi các hoạt
động KT-XH một cách thụ động thì nay được xác định là nhân tố có tính quyết định
đến tăng trưởng kinh tế, đem lại sự ổn định lâu dài cho con người và xã hội. Chiến
lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 là sự cụ thể hóa Chương trình Nghị sự
21 của Việt Nam, trong đó nội dung bền vững về môi trường được cụ thể hóa về
mục tiêu, chỉ tiêu giám sát, đánh giá, các ưu tiên và giải pháp thực hiện. Việc tổ
17


chức thực hiện có kết quả các nội dung bền vững về TN&MT đã xác định trong
Chiến lược sẽ quyết định mức độ PTBV của đất nước trong từng giai đoạn phát
triển và các thế hệ mai sau cũng như đóng góp chung vào sự phát triển, thịnh vượng
chung của khu vực và thế giới.

18


KẾT LUẬN


Tài nguyên và môi trường có vị trí đặc biệt quan trọng đối với con người và
phát triển. Khi con người bắt đầu sinh ra đã phải hít thở không khí, sử dụng nước,
thực phẩm... để tồn tại. Mỗi sự biến đổi của tự nhiên, của môi trường đều quan hệ
mật thiết đến con người. Mọi sự đe doạ của thiên nhiên, môi trường cũng chính là
sự đe doạ đến con người. Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với sự suy thoái tài
nguyên và môi trường. Đất đang bị xâm hại nặng vì sự sa mạc hoá, xói mòn, rửa
trôi, khô hạn, sạt lở. Diện tích canh tác bình quân trên đầu người giảm nhanh. Nước
là nguồn tài nguyên không thể thay thế cũng đang đứng trước nguy cơ suy thoái
mạnh. Rừng là chiếc nôi của loài người cũng đang bị tàn phá. Các loại thực vật,
động vật đóng vai trò quan trọng để bào tồn cuộc sống con người cũng đang bị tiệt
chủng bởi chính sự tác động của con người.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc BVMT, Đảng và Nhà nước ta đã
luôn coi trọng công tác BVMT. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001 đến
2010 được thông qua tại Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: “Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và
BVMT”. Để giải quyết các vấn đề cấp bách về môi trường, Bộ chính trị đã có chỉ
thị số 36/CT – TW, ngày 25/6/1998 và Nghị quyết số 41/NQ – TW, ngày
15/11/2004 về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH. Bộ Chính trị đã nêu:
BVMT vừa là nhiệm vụ phức tạp, vừa cấp bách và có tính đa dạng. BVMT là sự
nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân và có tính liên vùng rất cao. Vì vậy
cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý thống
nhất của Nhà nước và sự tham gia tích cực của toàn thể quần chúng.
Mỗi chúng ta cần nâng cao nhận thức sâu sắc, đúng đắn về tầm quan trọng
của công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường. Bảo vệ tài nguyên, môi trường là đảm
bảo sự PTBV trong phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ chú trọng phát triển kinh tế,
không quan tâm đến BVMT sẽ ảnh hưởng tác động trực tiếp nguồn lực, sức khoẻ
con người. Chính vì thế phải gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội với
BVMT, đảm bảo yêu cầu phát triển bền vững.

19



TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. Hồ Viết Chiến (2018), Giáo trình : Kinh tế môi trường (Dùng cho học
viên cao học – Lưu hành nội bộ)
[2].Nguyễn Thế Chỉnh,(2013) Giáo trình : Kinh tế và quản lý môi trường,
NXBĐHKTQD, 2013
[3].Lê Thạch Cán (2008) ; Giáo trình : Kinh tế môi trường, NXB Thống kê.
[4]. Bùi Văn Quyết (2008) ; Tài liệu : Kinh tế Môi trường, NXB Tài chính.
[5]. Lê Ngọc uyển (2007) ; Tài liệu : Kinh tế tài nguyên và môi trường ; ĐH
Mở TP Hồ Chí Minh
[6]. PHILIPPE BONTEMS ( 2007) Kinh tế hoc môi trường ; NXB TRẺ.
[7] Luật Môi trường 2011.
[8]. Nguyễn Đức Lợi ( 2013) Giáo trình : Kinh tế môi trường, NXB tài
chính, 2013
[9]. Phạm Ngọc Đăng. Phát triển của nước ta còn thiếu bền vững về mặt môi
trường. Kỷ yếu Hội nghị PTBV toàn quốc lần thứ 3 (trang 205-210). Hà nội - tháng
1 năm 2011.
[10]. Nguyễn Danh Sơn - Viện Khoa học xã hội Việt Nam PTBV về môi
trường trong Chiến lược PTBV Việt Nam giai đoạn 2011-2020
[11]. Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010, được ban hành theo
Nghị quyết số 56/2006/QH11, ngày 19/6/2006, của Quốc hội khóa 11.
[12].Dự thảo Báo cáo Tổng kết 5 năm thực hiện (2006-2010), định hướng
Chiến lược PTBV ở Việt Nam 2011-2015 của Bộ KH&ĐT, tháng 1 năm 2011.
[13]. Báo cáo môi trường quốc gia 2010, của Bộ TN&MT.
[14]. Chiến lược phát triển KT-XH 2011-2020 – Văn kiện Đại hội XI của
Đảng, tháng 1/2011.
[15]. Nghị định số 92/2006/NĐ-CP, ngày 7/9/2006
[16]. Quyết định 153/2004/TTg ngày 17/8/2004 của Thủ tướng Chính phủ về

phê duyệt và ban hành "Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình
Nghị sự 21 của Việt Nam)"

20



×