Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn lồng ghép giáo dục đạo đức thông qua môn học địa lý THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.82 KB, 16 trang )

A. MỞ ĐẦ

1


U
1. Lý do chọn đề tài:
Nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI với điểm tựa về khoa học kỹ thuật
công nghệ, nhất là sự phát triển nhanh vượt bậc của công nghệ thông tin, thời
kỳ bùng nổ công nghệ thế hệ mới (4.0) đã tạo nên bước phát triển vượt bậc thần
kỳ.
Sự phát triển về khoa học kỹ thuật đó đã giúp con người được giải
phóng sức lao động hạn chế tối đa phải làm những công việc nặng nhọc, độc
hại ,nghuy hiểm..., sáng chế ra nhiều vật dụng phương tiện công cụ tiện, máy
móc tiện lợi phục phụ cho sản xuất cho đời sống hàng ngày. Không ai phủ nhận
được những thành tựu mà con người đã dày công nghiên cứu qua nhiều năm,
2


bởi chính từ đó đã đưa loaì người bước đến tầm cao mới, mở ra một kỷ nguyên
của khoa học kỹ thuật công nghệ và sáng tạo không ngừng.
Cùng với sự phát triển về khoa học kỷ thuật công nghệ đối với nước ta
từ sau đại hội đảng toàn quốc lần thức VI năm 1986 với việc thực hiện công
cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc trên mọi lĩnh vực, việc thực hiện mở của nền
kinh tế, thừa nhận và xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chuyển
dịch cơ cấu kinh linh hoạt thực hiện việc đổi mới trang thiết bị kỷ thuật cộng
nghệ trên cơ sở đi tắt đầu … điều này đã góp phần làm cho nền kinh tế - xã hội
của nước ta có bước phát triển vượt bậc.....
Thế nhưng, bên cạnh đó chúng ta cũng phải đối mặt với một thực tế là:
do nền kinh tế ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật, nhất là ngành công nghệ
thông tin ngày càng hiện đại, đời sống con người được cải thiện rõ rệt … dẫn


đến một số cá nhân vì lợi ích riêng, do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế thị
trường,trước mắt mà bất chấp tất cả; có kẻ thì dựa dẫm, ỉ lại, giết thời gian bằng
những trò chơi vô bổ, văn hoá đồ trụy … Đó chính là những biểu hiện suy thoái
về đạo đức, mặt trái của xã hội hiện đại.
2. Mục Đích nghiên cứu.

Từ thực tế trên chó thấy trong nhiều năm qua xã hôi chúng tân đang phải
đối mặt với sự xuống cáp nhanh chóng về đao đức xã hôi. Trong đó thế hệ trẻ là
đối tượng bị tác động mạnh mẽ.
Những cái đó càng thật sự nguy hiểm khi nó đã thâm nhập khá sâu
vào bên trong cánh cổng nhà trường nơi đang ươm mầm, sản sinh ra
những chủ nhân của đất nước. Vậy đâu là giải pháp để giảm thiểu những vấn
đề này? Vâng! cho đến nay chúng ta chưa thực sự tìm được đáp số thoả đáng và
lời giải đó không chỉ của một cấp, một ngành mà đặt ra cho tất cả chúng ta. Tôi
thiết nghĩ giáo dục chính là ngành đóng vai trò quan trọng, góp phần đắc lực
vào việc giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách con người nói chung và con
người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa nói riêng.

3


Đúng vậy, trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV và qua nhiều kỳ Đại
hội đảng Đảng ta luôn luôn khẳng định: “Trong hình thức giáo dục quốc dân,
giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một dân tộc. Phải đào tạo thành
những người có trình độ học vấn, chuẩn bị cho họ hoặc ra đời, hoặc tiếp tục học
lên bậc cao hơn. Đó là những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết yêu thương,
quý trọng gia đình, bạn bè, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng
tới những tình cảm cao đẹp, lòng nhân ái, biết tôn trọng lẽ phải, đấu tranh
chống cái xấu …” Qua đây ta càng khẳng định được, việc giáo dục ý thức đạo
đức cho học sinh ở bậc học trung học phổ thông là vô cùng quan trọng.

(( Nói như Đ/C Phạm Minh Chính vừa nói đây. Giữa Đức và tài – phải
được giải quyết một cách hài hoà…))
Theo tối cơ sở mục tiêu của đích sự thanh công là phục phụ con người vì vậy
chúng ta không thể vì sự thành công của mình mà chà đạp lên mọi thứ .
Ngày nay nhiều người vì lợi ích cá nhân họ đã sẳn sàng bất chấp mọi thứ kể
cả phẩm chất giá trị đao đức của mình….
3. Đối tương nghiên cứu.
Là mốt người giáo viên với 20 năm đứng trên bục giảng tôi hiểu hơn ai hết
vấn đề giáo dục đạo đưc cho học trò, những phẩm chất cần thiết của người công
dân là cần thiết và cấp bách. Bơi nếu hôm nay khi các em còn ngồi trên ghế nhà
trường những cán giỗ cảu vật chất, quyền lực… con xa vời với các em đặc biệt
sự hiểu biết con non ớt, tâm hồn còn trong trắng vì vây là người thầy chúng ta
phải cố gắng, phải nổ lực, phải giáo dục tác động đến các em bằng mọi con
đường giúp các em có phẩm chất đạo đức hiểu biết về chân, thiện mỹ và giá trị
cuộc sông.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói:
“Ngủ thì ai cũng như lương thiện
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”

4


Mục tiêu của giáo dục là phải học, học để hiểu về đạo đức, hành động có đạo
đức, đó là tư tưởng lớn của thời đại, một định hướng đúng đắn. Bởi “có tài mà
không có đức là người vô dụng; có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó”
(Lời Hồ Chủ Tịch).
Trong xu thế của thời đại, xã hội có muôn vàn cám dỗ thì rõ ràng vai trò

của nhà trường càng to lớn. Nhà trường “không tạo ra việc làm” cũng “không
sản xuất ra của cải vật chất” nhưng nhà trường lại có thể làm giảm thiểu sự
nghèo khổ , dốt nát, lạc hậu thông qua việc dạy nghề hướng nghiệp. Chuẩn bị
cho học sinh biết cách đương đầu với tình trạng không có nghề nghiệp, mất
thăng bằng về tâm lý. Đặc biệt, muốn tránh được sự cám dỗ tiêu cực của xã hội
nhà trường đã hình thành cho học sinh năng lực chống lại sự cám dỗ của đồng
tiền, sức quyến rũ của những việc bị ngăn cấm tạo nên một tính cách kiên định,
rắn rỏi, bản lĩnh.
Xuất phát từ những thực tế của việc giáo dục đạo đức cho học sinh ở
trường trung học phổ thông nói chung và các cấp học, ngành học nói riêng, bản
thân tôi đã đọc, tìm hiểu một số tài liệu bàn về việc giáo dục đạo đức cùng với
việc tham khảo kinh nghiệm của các đồng nghiệp đi trước. Từ đó tôi đã cụ thể
hoá việc làm của mình bằng cách thực nghiệm trong giáo dục học sinh trong
nhiều năm.
Tôi xin mạnh dạn đóng góp một số nội dung, phương pháp về việc
lông ghép giáo dục đạo đức cho học sinh trong hệ thông nhà trường THPT,
thông qua môn học địa lý mà cá nhân tôi đang trực tiếp giảng dạy trong
nhà trường THPT Hoằng Hoá 4 :
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIÊM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN.
Như chúng ta đã biết, giáo dục đạo đức cho học sinh không phải là một
môn học cụ thể, duy nhất. Nó là cả một quá trình và với nhiều phương tiện.
Ngay cả môn giáo dục công dân (trước đây gọi là môn đạo đức) tuy là môn học
chính thức về dạy đạo đức cho học sinh nhưng cũng chỉ bước đầu cung cấp các
5


khái niệm về quy định về hành vi đạo đức. Cái gì nên làm cái gì nên tránh.
Song vẫn chưa đủ, giáo dục đạo đức là cộng tác ở tất cả các môn học trong nhà
trường. Quan trọng hơn là thực tế cuộc sống như: Hành vi và môi trường xung

quanh (gia đình, xã hội, nhà trường …).
Tuy nhiên, sự nhận thức đó chỉ như một dòng sông êm đềm, thong thả
chảy mà không trở thành một vấn đề nóng hổi, bức thiết khiến người ta thờ ơ.
Một số giáo viên dạy các môn văn hoá còn mơ hồ cho rằng: Giáo dục đạo đức
đó “không phải việc của mình” – Trách nhiệm thuộc về môn giáo dục công dân,
thuộc về GVCN. Đối với cái nhân tôi sau gần 20 năm tốt nghiệp đại học sư
phạm (từ năm 2000 đến nay) về nhận công tác tại nhà trường THPT Hoằng Hóa
4 với nhiêm vụ là giãng dạy môn Địa Lý ngoài ra nhiều năm liền còn được nhà
trường phân công làm công tác chủ nhiệm và tham gia công tác đoàn, tổ giám
thị...,tôi luôn tiếp xúc và thường xuyên phải làm việc với các đối tượng học
sinh cá biệt và nhiều em có biểu hiện vi phạm pháp luật, suy thoái về mắt đạo
đức. Qua tìm hiểu, sử lý và thường xuyên quan tâm đến những biểu hiện của
các em tôi đã có nhiều kinh nghiêm trong công tác giáo dục đạo đức và tôi đã
rút ra một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức, tư cách, nhận thức
cho các em là cả một hệ thông, là sự phối kết hợp của cả gia đình, nhà trường
và toàn xã hội, đặc biệt là việc giáo dục phải kiên trì, thường xuyên, phải biết
găn kết, lồng ghép trong tất cả các chuyên đề, phần học, bài học ở hầu hết các
bộ môn nhưng tập trung chủ yếu ở các môn họ xã hội vì người thầy dễ dàng
vận dụng và có khả năng lông kép kết hợp rất tốt. Đó là điều mà tôi muốn thay
đổi cách nhìn, cách nghĩ của người thầy trong đề tài này.
Ví Dụ:
Khí giảng dạy bài các vấn đề mang tính toàn cầu ở chương trình lớp 11 khí nói
đến vấn đề nào tôi cũng lồng ghép các vấn đề có liên quan đến các em, gia đình
và công đồng dân cư nơi các em đang sống, lao động và học tập.
Cụ thể: Vấn đề dân số:
- Dân số tăng – Bùng nổ dấn số - sự già hoá dân số thế giới … vậy trách
nhiện và nhận thức của các em về các vấn đề đó như thế nào?
6



Trong bài học khi nêu nội dung và tôi lòng ghép đưa ngay vân đề đó là trách
nhiêm cảu các em là nhân thức của các em đối với sự sống và pháp triển cả
xã hôi.
- Vấn đề môi trường:
Tôi đặt ngay vấn đề về thực trạng môi trương sống xung quanh em, gia
đình em, hiểu biết, nhận thức của em, trách nhiệu của em, vai trò của em
trong vấn đề này…
- Ngài ra các vấn đề khác như tôn giáo, vấn đề mâu thuẩn xung đột sắc tộc,
các tên nạn xã hội khác. Tôi đưa ngay vân đề mơi có tính thời sự đang
diẽn ra trong nước và quốc tê( Như đạo chúa trời – em nhận thức về tổ
chức đạo này và bằng hiểu biết tôi hướng các em đến thện, mỹ để các em
nhân thức (Đạo) là hướng đến cái thệi, các chân thực, các đẹp(Mỹ). và
mọi tổ chức đạo không đạt đến mục tiêu đó mà phục phụ mục đích khác ta
khẳng định đó là tà đạo…
II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ:
Qua nhiều năm công tác giảng dạy và may mắn được nhà trường phân
công các công tác kim nhiên nói trên tôi đã đi vào nghiên cứu thực nghiệm việc
kết hợp lồng ghép việc giáo dục đạo đức cho học sinh của một số lớp mà cái
nhân tôi phụ trách giảng dạy tôi thấy kết quả:
Dưới đây là kết quả đánh giá xếp loại đạo đức của học sinh lớp 10B7 năm học
2014 – 2015 (trước khi bước vào nghiên cứu đề tài này).
LỚP SĨ SỐ HK TỐT
HK KHÁ
T. BÌNH
Yếu kém.
10B7 45
14
32%
16
36%

10 22%
5
10%
Trên thực tế qua công tác là chủ nhiệm lớp, và trực tiếp giãng dạy các
em tôi thấy nhiều em có nhưng biểu hiện lệch chuẫn về mặt đạo đức khá rỏ
như: Thường xuyên nói tục coi thường thầy cô giáo, cán bộ công nhân viên
trong nhà trường, chống đối, phản kháng mạnh mẽ những việc được giao, gây
gỗ đánh nhau, tổ chức các trò chơi cá độ, tham gia đánh bài bạc.....
Từ thực trạng trên cho thấy việc giáo dục đạo đức học sinh lớp 10B7 nói
riêng và trong trường nói chung là rất cần thiết và đáng quan tâm.
III. GIẢI PHÁP
7


Trước hết cần xác định những nhiệm vụ của giáo dục đạo đức, làm cho
học sinh lĩnh hội các tư tưởng, nguyên tắc, chuẩn mực của đạo đức xã hội. Hiểu
và nhận thức thấy rằng, cần làm cho các hành vi của mình phù hợp với tinh
thần nguyên tắc trên, phù hợp với lợi ích xã hội.
Bồi dưỡng tình cảm đạo đức tích cực và bền vững (vinh dự, trách nhiệm,
phẩm giá, hổ thẹn) và các phẩm chất lý chí (thật thà, dũng cảm, kỷ luật, kiên trì
…) để đảm bảo cho hành vi luôn nhất quán với yêu cầu giáo dục đạo đức.
Rèn luyện thói quen hành vi đạo đức làm cho chúng trở thành bản tính tự
nhiên của cá nhân và duy trì lâu bền các thói quen đó để ứng xử đúng đắn trong
mọi hoàn cảnh. Trên cơ sở đó hình thành nếp sống văn hoá thể hiện sự tôn
trọng lẫn nhau của con người. Đảm bảo tính nhân đạo, trình độ thẩm mỹ của
các quan hệ cá nhân trong cuộc sống.
Nội dung giáo dục đạo đức xét bình diện đạo đức – xã hội: Nội dung này
có quan hệ chặt chẽ với yêu cầu đạo đức xã hội được đề ra cho mọi người dân
trong một xã hội nhất định. Yêu cầu này được đề ra trong hiến pháp của Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Giáo dục đạo đức cho học sinh xét trên bình diện tâm lý sư phạm: Bất kỳ
một phẩm chất đạo đức nào cũng là sự kết hợp cơ động tình cảm giữa thói quen
– hành vi – ý chí của cá nhân.
Ví dụ: Muốn trở thành một người yêu lao động, cá nhân cần nuôi dưỡng
nhu cầu lao động thường xuyên, hiểu rõ ý nghĩa và sự cần thiết của lao động, có
niềm say mê với lao động, có những kỹ năng, kỹ xảo lao động ở trong trạng
thái biểu hiện ý chí.
Giáo dục đạo đức cho học sinh xét trên bình diện đặc điểm lứa tuổi: Vì
giáo dục có liên quan đến lứa tuổi của học sinh nên không thể tiến hành giáo
dục đạo đức một cách chung chung. Sự phát triển về mặt đạo đức phụ thuộc
vào lứa tuổi tức là phụ thuộc vào vốn sống, vào khả năng ý thức được những cơ
sở đạo đức của hành động.

8


Đối với học sinh THPT nhiều khả năng ý thức đạo đức hơn học sinh tiểu
học, trung học cơ sở. Nhân cách của học sinh lứa tuổi thanh, thiếu niên thường
xảy ra các trường hợp. Sự mất cân bằng tạm thời, dễ bột phát. Điều này liên
quan đến hiện tượng tuổi dậy thì, hơn nữa, lứa tuổi này muốn mọi người đối xử
với mình như người lớn. ở lứa tuổi này cần phải quan tâm đến cả việc giáo dục
giới tính cho các em.
Những vấn đề trên có quan hệ với giáo dục đạo đức, cho phép đi sâu vào
những cơ sở sư phạm của việc giáo dục đạo đức cho học sinh.
Giáo dục đạo đức cho học sinh THPT được thực hiện thông qua hai con
đường chủ yếu, tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau.
1. Giải pháp thứ nhất:
Làm cho học sinh tự giác lĩnh hội hệ thống khái niệm đạo đức.
Trên cơ sở đó, giúp học sinh biết phân định “cái đạo đức” và “cái vô đạo

đức” cực kỳ phức tạp ở quanh mình. Do đó, giúp các em định hướng, biết lựa
chọn để ứng xử đúng đắn trong các tình huống đó. Con đường này chủ yếu là
thông qua môn giáo dục công dân và sự lồng ghép ở các môn học khác tạo ra sự
tác động thương xuyên, tiên tục…
a. Phương pháp thuyết phục.
Đây là một phương pháp quan trọng trong việc giáo dục đạo đức. Đó là
hoạt động của người giáo dục nêu lên ý thức và tình cảm, ý chí nhằm hình
thành và củng cố ở các em những phẩm chất đạo đức tích cực và loại trừ những
nét tiêu cực trong tính cách và hoạt động của cá nhân các em.
b. Phương pháp nêu gương tốt.
Phương pháp này có tác dụng ở chỗ, học sinh có khuynh hướng bắt
chước và làm theo những hành vi, hành động mà các em cho là có ý nghĩa tác
dụng củng cố giá trị bản thân. Hơn nữa, xã hội ta có những điều kiện thuận lợi
cho việc sử dụng tấm gương tích cực trong việc giáo dục đạo đức. Nếu như
trong chiến tranh “ra ngõ gặp anh hùng” thì hiện nay, bên cạnh những biểu hiện

9


tiêu cực đang bị xã hội lên án đã và đang xuất hiện nhiều những tấm gương tích
cực, điển hình
(Ví dụ như: Tấm gương người tốt việc tốt, thông qua các kênh thông tin
đại chúng lấy các ví dụ thực tiển khác nêu lên và chỉ ra cho các em thấy).
Con người Việt Nam với bản tính năng động, sáng tạo, vươn lên chiến
thắng nghèo khổ, dốt nát và chiến thắng nguy cơ tụt hậu. Khi sử dụng phương
pháp này chúng ta cần phải chú ý đến lứa tuổi học sinh, khả năng tưởng tượng
phong phú của học sinh tăng lên khi đánh giá hành vi đạo đức của bạn bè và
người lớn.
Vì vậy, hơn ai hết người giáo viên phải là tấm gương sáng, mọi hành
động, lời nói, việc làm của giáo viên phải là chuẩn mực để học sinh tin cậy, tôn

trọng và làm theo. Chính A.k.mocarencô đã từng khẳng định: “không có uy tín
không thể giáo dục được”.
2. Giải pháp thứ hai:
Hình thành cho học sinh nhận thức được đạo đức, kinh nghiệm đạo đức,
hành vi và thói quen đạo đức thông qua việc lôi cuốn các em vào hoạt động
thực tiễn.
Phát huy tính độc lập và tự quản của học sinh khi tổ chức hoạt động thực
tiễn để hình thành hành vi và thói quen đạo đức là rất cần thiết. Macarenco từng
nói:
“Chúng ta có thể yêu cầu một người làm việc thật nhiều, nhưng nếu
không đồng thời giáo dục cho người đó về mặt đạo đức và chính trị, nếu anh ta
không tham gia hoạt động xã hội thì quá trình lao động này chỉ mang tính chất
một quá trình trung lập, không có ý nghĩa xã hội và đạo đức”.
c. Phương pháp rèn luyện.
Để thực hiện tốt phương pháp này giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ
môn phải thực hiện nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh thông qua các môn học
Giáo dục công dân và các môn khoa học khác, khi tham gia các hoạt động
ngoại khoá và trong giao lưu.
d. Phương pháp khen thưởng, trách phạt.
10


*. Khen thưởng.
Tác dụng giáo dục của khen thưởng phụ thuộc vào điều kiện tâm lý sư
phạm. Điều kiện này ảnh hưởng kích thích tích cực sự cố gắng của học sinh
trong học tập, lao động, hoạt động xã hội. Tuy nhiên khi khen thưởng cho học
sinh, người giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
- Khen thưởng phải phù hợp với những chuẩn mực đạo đức của xã hội.
- Phải được sự tán thành cao của dư luận xã hội.
- Khen thưởng phải đúng đối tượng, ai đáng khen đều được khen, mức

khen thưởng phải tương xứng với kết quả đạt được.
- Phải chú ý đến tâm lý lứa tuổi để có cách khen phù hợp và đúng cách.
- Người khen phải có uy tín cao đối với học sinh.
Ngoài ra, mọi hành vi khen thưởng thái quá đều là phản khoa học, không
mang tính giáo dục.
* Trách phạt.
Là phương pháp điều chỉnh hành động và hành vi, được sử dụng để ngăn
chặn sự vi phạm những chuẩn mực và quy tắc hành động xã hội, để uốn nắn và
loại bỏ những thói quen không đúng đắn.
Trách phạt được tôi coi là hiệu quả nảy sinh trong ý thức của học sinh
mong muốn và sự sẵn sàng thay đổi khi bị trách phạt học sinh cảm thấy xấu hổ,
thua kém. Tình cảm đó có khả năng làm nảy sinh lòng mong muốn, tích cực sửa
chữa thiếu xót của mình. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp này cũng cần
chú ý.
- Những hành vi, hành động sai trái của học sinh.
- Đưa ra biện pháp để chấm dứt những hành vi tiêu cực, có hại.
- Tuyên bố hình thức trách phạt, không nên trách phạt mà xâm phạm đến
thể xác học sinh, không hạ nhân phẩm của học sinh, không phạm vào những
điều cấm kỵ, tôn nghiêm.
Về vấn đề này, chắc không ai trong chúng ta lại không biết đến việc làm
của một thầy giáo tiểu học ở thành phố Hồ Chí Minh mà báo đài, truyền hình
vừa đưa tin. Với đối tượng là học sinh tiểu học mà thầy phạt “hít đất” 100 – 300
11


cái rồi còn cấp cứu. Hay còn nhớ cách đây mấy năm, một cô giáo đã phạt các
em không trực nhật lớp bằng cách bắt các em cởi khăn quàng đỏ để lau nền
nhà, lau bảng!? Đó phải chăng là sự kém nhận thức nhất là kiến thức sư phạm
của một số giáo viên hiện nay?
- Trách phạt phải được phần lớn học sinh tán thành vì không gì nguy

hiểm hơn là trách phạt không công bằng. Khi đó những tính cách xấu như:
Không trung thực, độc ác, hèn kém lại có cơ hội phát triển.
Trên đây là một số giải pháp và phương pháp khi tiến hành giáo dục đạo
đức cho học sinh trung học. Tuy nhiên không phải chỉ cần chú ý và sử dụng các
phương pháp đó là đủ mà giáo dục đạo đức là một mặt giáo dục quan trọng
trong giáo dục tổng thể. Vì vậy, khi tiến hành giáo dục đạo đức cho học sinh
cần lưu ý sử dụng tổng hợp, linh hoạt, có chọn lọc tuỳ thuộc vào đối tượng học
sinh.
Để có phương pháp giáo dục cho học sinh THPT được tốt chúng ta cần
chú ý các quan điểm sau:
- Giáo dục nhân cách chỉ có thể tiến hành trong hoạt động thực tiễn và
việc lôi cuốn học sinh vào các hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng để phát
triển nhân cách và tổ chức quá trình giáo dục.
- Những phẩm chất cá nhân được hình thành trong hoạt động thực tiễn.
IV.KIỂM NGHIỆM.
Sau khi thực hiện một số phương pháp giáo dục trên, đặc biệt trong một
số việc làm thực nghiệm cụ thể tôi đã thu được một số kết quả sau:
- Đa số học sinh có ý thức tiếp thu, phấn khởi. Biết nhận ra khuyết điểm
để sửa chữa, phát huy những mặt mạnh. Đặc biệt là biết đoàn kết, giúp đỡ nhau
trong học tập. Kính trọng thầy cô giáo, tránh xa các tện nạn xã hội và bước đầu
có những hành vi, việc làm mang ý nghĩa đẹp đối với bản thân, bạn bè và mọi
người.
Khi tôi hỏi các em về một số khái niệm, hành vi đạo đức, thiếu đạo đức,
cái gì nên trách, cái gì nên làm cách sửa chữa khuyết điểm. Các em rất tự tin trả

12


lời và có cách nhận thức đúng đắn. Không như trước đây, khi tôi đề cập đến vấn
đề này các em tỏ ra rụt rè, xấu hổ thậm chí rất lo sợ.

- Đặc biệt, dựa vào kết quả xếp loại văn hoá và xếp loại hạnh kiểm học
sinh lớp 10B7 năm học 2014 – 2015 và năm học 2016 – 2017 của lớp 11B7 mà
tôi đã tiến hành thực nghiệm trong hơn một năm qua tôi thấy kết quả đạo đức
của học sinh tăng lên rõ rệt, cụ thể như sau:
Năm học 2016-2017
LỚP SĨ SỐ HK TỐT
HK KHÁ
T. BÌNH
Yếu kém.
11B7 45
31
69%
12
26%
2 5%
0
0%
Với kết quả này tuy chưa phải là cái gì lớn nhưng tôi mong muốn sẽ giúp
cho các em có một số điều kiện ban đầu trong hành trang vào đời sau này. Cùng
với quá trình tu dưỡng rèn luyện ở những năm tiếp theo hy vọng các em sẽ thực
sự là những chủ nhân tương lai của đất nước – những con người được phát triển
toàn diện - đầy đủ và các phẩm chất: Đức – Trí – Thể – Mỹ.

C. PHẦN KẾT LUẬN.
Xuất phát từ thực tế của nhà trường, của cấp học và của lớp nói riêng.
Bản thân tôi nhận thấy giáo dục đạo đức cho học sinh ở nhà trường THPT nói
riêng và hệ thống giáo dục nói chung là yêu cầu cấp thiết.
Nhiệm vụ của nhà trường là “dạy chữ - dạy người” đáp ứng với nhu cầu
của con người mới – xã hội chủ nghĩa.
1. Những biện pháp đã thực hiện.

- Người giáo viên luôn phải là những tấm gương sáng cho học sinh noi
theo “Thầy trong sáng thì phản chiếu cho thế hệ trẻ ngời sáng”
- Nêu gương tốt để học sinh học tập.
- Khen chê kịp thời đến học sinh.
- Thuyết phục học sinh, loại trừ những tính tiêu cực của học sinh.
- Thông qua các bộ môn văn hoá để giáo dục đạo đức cho học sinh.
2. Bài học thực tiễn.
13


Sau khi nghiên cứu đề tài và quá trình áp dụng thực tế tôi đã rút ra được
một số bài học kinh nghiệm đối với phương pháp giáo dục đạo đức cho học
sinh ở cáp học THPT như sau:
a. Đối với giáo viên.
- Phải làm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Trong công tác chủ nhiệm, giảng dạy bộ môn cần phải quan tâm tìm
hiểu hoàn cảnh, tâm tư nguyện vọng, năng lực, sở trường, tâm lý của từng đối
tượng học sinh để có biện pháp giáo dục, giúp đỡ, động viên kịp thời.
- Thường xuyên đọc báo, nghe đài, xem thời sự để cập nhật thông tin, có
vốn kiến thức về đời sống, xã hội nhằm thông tin đến học sinh về những gương
tốt và những vấn đề bức xúc của xã hội.
- Các giáo viên dạy các môn văn hoá cần chú ý sâu hơn về phương diện
giáo dưỡng cho học sinh trong nội dung bài học đặc biệt là môn giáo dục công
dân và môn Ngữ Văn. Địa lý..
b. Đối với học sinh.
- Có ý thức lắng nghe và tiếp thu những ý kiến đóng góp từ bạn bè, thầy cô và
mọi người.
- Tích cực tham gia các hoạt động tập thể, tăng cường đọc sách báo…
- Rèn cho mình thói quen và hành vi đạo đức. Rèn tính kiên định, vững
vàng trước mọi cám dỗ, lứa tuổi này đó lúc đầu là những lời rủ rê của bạn bè,

tính bắt chước, tò mò .
3. Kiên Nghị:
Từ thưc tế xã hôi và công tác giáo dục hiện nay cho thấy vấn đề đạo đức
xã hội nói chung và đạo đức học sinh trong hệ thống các nhà trường nói riêng
đang trơ nên gay gắt, bưc xúc vì vậy tôi kiên nghị nhà nước, bộ ngành các cơ
quan quản lý giáo dục, các nhà trường, thầy cô giáo cần chú trọng kết hợp hài
hoà việc dạy chủ phải đi đôi với việc dạy người “ Chú trọng Đức - phẩm chất
quý báu của con người Việt Nam ta.”
*Tóm lại: là một giáo viên vưa làm công tác chủ nhiệm, giãng dạy môn
địa lý (khoa học xã hội), vừa phụ trách một số công tác kim nhiệm khác có liên
quan trực tiếp đến việc giáo dục đạo đức ,y thức cho các em nên tôi có điều
14


kiện tiếp xúc gần gũi với nhiều đối tượng học sinh . Nghe được những tâm sự,
hiểu được những gì sâu xa trong vấn đề tâm lý lứa tuổi của các em. Tôi biết các
em cần gì, có gì và thiếu những gì. Từ đó tôi càng khẳng định việc giáo dục đạo
đức cho các em là quan trọng, là cần thiết. Lứa tuổi này vốn hiếu động thích
nhiều thứ và làm cho bằng được. Phải bồi dưỡng cho các em biết nhận thức
đúng và biết tự kiềm chế. Đó chính là chìa khoá dẫn tới những việc làm, hành
vi, suy nghĩ tốt đẹp, những biểu hiện của truyền thống đạo đức dân tộc.
Tôi mong rằng sẽ được các đồng nghiệp tham khảo và góp ý kiến để
những mong muốn, suy nghĩ của tôi trong đề tài này được thực hiện có kết quả
góp phần quan trọng vào công cuộc giáo dục và phát triển con người Việt Nam
mới toàn diện.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hoá, ngày 25 / 05 / 2018

Người viết


Lương Quốc Đạt

Tài Liệu tham khảo
1. Phương pháp công tác của giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học cơ
sở (nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội – 2001 Hà Nhật Thăng – chủ biên).
2. Tâm lý giáo dục lứa tuổi (Trường Đại học Hồng Đức)
3. Tạp chí khoa học xã hội và nhân văn nhà trường (Trường Cao đẳng sư
phạm Thanh Hoá - 1996).
4. Tạp chí văn nghệ quân đội (12 - 1995)
5. Tra cứu trên trang mạng xã hội, an ninh....

15


16



×