Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn tăng hứng thú học tập và rèn năng lực sáng tạo cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi gắn với thực tiễn trong dạy học sinh học phần trao đổi khoáng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.44 KB, 14 trang )

Mục lục
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19

Nội dung

Trang
Mục lục
1
1. Mở đầu
2
1.1. Lí do chọn đề tài.
2


1.2. Mục đích nghiên cứu.
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
3
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
3
1.5 Những điểm mới của SKKN
4
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
4
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
4
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
4
kinh nghiệm.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã
5
sử dụng để giải quyết vấn đề.
5
2.3.1. Hệ thống các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời
sống dùng cho các bài giảng phần “Trao đổi khoáng và
nitơ”- Sinh học 11.
11
2.3.2. Tổ chức sử dụng câu hỏi gắn với thực tiễn trong
dạy học để tăng hứng thú học tập, phát huy và nâng
cao năng lực sáng tạo cho học sinh.
11
2.3.2.1. Những biện pháp sư phạm cần thiết trong tiến
trình sử dụng câu hỏi vào dạy học.
12

2.3.2.2. Các hình thức sử dụng câu hỏi, bài tập trong
dạy học phần trao đổi khoáng và nitơ ở thực vật
13
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
13
trường.
13
3. Kết luận, kiến nghị
14
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Xu thế phát triển chung của phương pháp dạy học ngày nay là biến chủ
thể nhận thức thành chủ thể hành động. Đặt người học vào vị trí trung tâm của
quá trình dạy học với quan điểm thầy thiết kế, trò thi công và quá trình dạy học
là dạy cách học chứ không phải dạy kiến thức.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm. Thực tế cho thấy đối với học sinh
phổ thông thì đây là một môn học khó và rất ít học sinh yêu thích. Trong điều
kiện hiện nay, khi khoa học kỹ thuật của nhân loại phát triển như vũ bão, nền
kinh tế trí thức có tính toàn cầu thì nhiệm vụ của ngành giáo dục vô cùng to
lớn: Giáo dục không chỉ truyền đạt kiến thức cho học sinh mà còn phải giúp
học sinh vận dụng kiến thức khoa học vào cuộc sống, vừa mang tính giáo dục,
vừa mang tính giáo dưỡng và cao hơn là giáo dưỡng hướng thiện khoa học.
Sinh học là một môn khoa học thực nghiệm vì vậy để giúp học sinh lĩnh

hội được kiến thức sinh học cho đúng với bản chất của nó thì giáo viên cần tích
cực thực hiện phương pháp dạy học tích hợp các kiến thức lý thuyết với
thực tiễn đời sống hay “học đi đôi với hành” có như vậy mới phát huy tính tích
cực, chủ động sáng tạo, phát huy năng lực nhận thức và tư duy khoa học
của học sinh, đồng thời bải giảng mới trở nên sinh động, hấp dẫn được học trò.
Tuy nhiên thực tế giảng dạy ở nhiều trường THPT hiện nay có nhiều
giáo viên còn chưa quan tâm đến vấn đề này, giảng dạy còn quá coi trọng kiến
thức lý thuyết. Nhiều giáo viên khi tổ chức các hoạt động dạy-học còn thiên về
cung cấp kiến thức giáo khoa một cách thuần túy, giảng dạy chủ yếu theo lối
“thông báo - tái hiện” khiến cho tiết học trở nên nhàm chán. Nguy hiểm hơn là
với cách dạy-học đó sẽ biến học sinh trở thành những “cỗ máy” thụ động tiếp
nhận kiến thức, trở thành những “chú gà công nghiệp” khi ra ngoài đời sống
thực tiễn.
Xuất phát từ những thực tế trên tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến: “Tăng
hứng thú học tập và rèn năng lực sáng tạo cho học sinh bằng hệ thống câu
hỏi gắn với thực tiễn trong dạy học sinh học phần: trao đổi khoáng và nitơ ở
thực vật - sinh học 11”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Trong bối cảnh toàn ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới chương
trình, nội dung và phương pháp dạy học với mục tiêu giáo dục toàn diện,
phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo, phát huy năng lực nhận thức và
tư duy khoa học của học sinh. Tại nhiều trường, nhiều giáo viên đã và đang
tích cực thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng các phương pháp
dạy học mới như hoạt động nhóm, kỹ thuật bể cá, kỹ thuật khăn trải bàn….
Với bộ môn sinh học như đã trình bày ở trên là bộ môn khoa học thực
nghiệm cho nên ngoài việc sử dụng các phương pháp và kỹ thuật dạy học
mới thì quan trọng hơn là bằng phương pháp giảng dạy giáo viên phải giúp học
sinh làm chủ được kiến thức của mình, biết vận dụng kiến thức của các em
trong đời sống thức tế ở chính gia đình, biết giải thích những hiện tượng xảy ra
hàng ngày xung quanh các em dựa trên kiến thức được học tại trường.

2


Nhưng điều đó đã không diễn ra trên thực tế như những gì chúng ta
mong đợi. Vậy nguyên nhân của thực trạng trên là gì? Nó biểu hiện dưới
hình thức nào?
Có thể kể đến rất nhiều nguyên nhân, tuy nhiên theo tôi nguyên nhân đầu
tiên và quan trọng nhất phải là nguyên nhân xuất phát từ người thầy.
Nhiều giáo viên chưa có sự chuẩn bị tốt nhất cho bài giảng khi lên
lớp. Giáo án còn thiên về cung cấp kiến thức giáo khoa một cách thuần túy,
chưa coi trọng việc soạn và sử dụng bài giảng theo hướng tích cực hóa hoạt
động nhận thức của học sinh, điều này làm cho học sinh khá thụ động trong
việc lĩnh hội và vận dụng kiến thức.
Đi đôi với cách giảng đó là cách kiểm tra, đánh giá hiện nay ở
nhiều trường phổ thông còn chủ yếu tập trung vào việc “tái hiện” kiến thức
mà chưa có những câu hỏi mang tính vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Vì vậy
việc lúng túng trước các câu hỏi, tình huống thực tiễn của học sinh là điều dễ
hiểu.
Nguyên nhân thứ hai là yếu tố học sinh: đa số các em chưa có định
hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các
em chỉ thích môn nào mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì
thích học môn đó. Còn một số lượng nhỏ học sinh có định hướng nghề nghiệp
thì chủ yếu các em tập chung vào học các môn theo tổ hợp xét tuyển đại học mà
không dành sự đầu tư thời gian cho bộ môn sinh học.
Mặt khác thực tế hiện nay tôi nhận thấy học sinh đang có biểu hiện
mất đi động cơ học tập. Nguyên nhân là vì tình trạng thất nghiệp của rất nhiều
sinh viên Đại học, cao đẳng sau khi ra trường. Nhiều học sinh vẫn còn
những nhận thức lệch lạc về mục đích, mục tiêu của quá trình học tập, đa số các
em cho rằng “học là để thi, để lấy điểm”, nên các em không quan tâm đến việc
vận dụng kiến thức được học vào phục vụ cuộc sống.

Đây chính là động lực thúc đẩy tôi tiến hành sáng kiến kinh nghiệm này
nhằm: gây hứng thú học tập, lòng ham muốn nghiên cứu khoa học và các phẩm
chất tốt đẹp khác của học sinh, từ đó cũng nâng cao chất lượng bộ môn học,
đồng thời khi sử dụng các câu hỏi vận dụng đó còn có thể phát hiện và bồi
dưỡng các em học sinh có nhận thức khá, giỏi để thành lập các đội tuyển
học sinh giỏi các cấp.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Sáng kiến kinh nghiệm nghiên cứu về vấn đề sử dụng kiến thức bộ môn
gắn với thực tế để dạy học Sinh học theo hướng dạy học tích cực trong phạm vi
dạy học các bài học về “Trao đổi khoáng và nitơ ở thực vật” sinh học 11.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phân tích tài liệu thu được, tập hợp các thông tin liên quan đến vai trò,
hình thức, nội dung bài học
- Sắp xếp các tài liệu thông tin thu thập được theo hệ thống
1.4.2. Phương pháp điều tra quan sát
Trao đổi ý kiến với một số giáo viên, học sinh THPT để đánh giá mức độ
thành công của các nội dung thực nghiệm đồng thời tham khảo ý kiến góp ý, tiếp
3


thu ý tưởng và kinh nghiệm phục vụ cho xây dựng nội dung đề tài, tiến hành các
hoạt động giảng dạy
1.5. Những điểm mới của SKKN
Nội dung các câu hỏi mang tính thực tiễn cao:
- Áp dụng phương pháp xây dựng hệ thống câu hỏi gắn với thực tiễn tôi đã
xây dựng được hệ thống gồm câu hỏi gắn với thực tiễn phần trao đổi khoáng và
nitơ ở thực vật. Đó là những câu hỏi chứa đựng những nhiệm vụ đòi hỏi học sinh
phải giải quyết một cách sáng tạo. Các câu hỏi này có nội dung gắn liền với thực
tiễn đòi hỏi học sinh phải kết nối kiến thức để đề xuất ý tưởng mới nhằm cải tạo

thực tiễn. Chúng không chỉ có giá trị cho việc phát triển năng lực sáng tạo của
học sinh mà còn phục vụ tốt cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi tỉnh.
- Các biện pháp sư phạm và các hình thức sử dụng câu hỏi gắn với thực tiễn
trong dạy học mà đề tài đề xuất giúp giáo viên có thể dễ dàng áp dụng câu hỏi
gắn với thực tiễn trong thực tiễn dạy học, từ đó mà tạo hứng thú, phát huy được
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình dạy học.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Tích hợp các kiến thức của bài học với thực tế cuộc sống, giúp các em áp
dụng được kiến thức lý thuyết vào phục vụ đời sống sinh hoạt hằng ngày của
chính bản thân. Với cách này bài học sẽ trở nên gần gũi, dễ hiểu với học sinh và
tự nó sẽ trở nên hấp dẫn với học trò. Tuy nhiên không phải giáo viên nào cũng
thực hiện giải pháp này, bởi nó đòi hỏi giáo viên phải có kiến thức chuyên
môn sâu và rộng, có sự hiểu biết về thế giới xung quanh phong phú. Mặt khác
không phải với phần kiến thức nào giáo viên cũng thể tích hợp và liên hệ vào
thực tiễn được ngay ở một tiết học. Trong chương trình sinh học 11 cơ bản
nhiều giáo viên chỉ tập trung khai thác kiến thức liên hệ thực tế ở phần cảm
ứng, sinh sản, còn các phần học khác như phần khác thì ít được giáo viên khai
thác tính ứng dụng thực tiễn của nó. Chính vì vậy phần kiến thức này đối với
nhiều học sinh nó thật khô khan, nhàm chán vì cấu trúc của các bài học đều
tương tự như nhau. Do đó tôi chọn sáng kiến này để góp phần cung cấp một số
kinh nghiệm cũng như tài liệu giúp cho giáo viên giảng dạy thành công các bài
học trong phần “trao đổi khoáng và ni tơ ở thực vật” (Bài 1, 4, 5, 6 – Sinh học
11 cơ bản).
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Thực ra đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới. Để gây hứng thú học
tập cho học sinh thì có thể kể đến rất nhiều giải pháp.
Đầu tiên có thể kể đến là phong cách của giáo viên. Tuy nhiên không
phải giáo viên nào cũng thực hiện được giải pháp này. Bởi lẽ không phải giáo
viên nào cũng có giọng nói nhẹ nhàng truyền cảm….. sự thật cho thấy còn

khá nhiều giáo viên có nét mặt chưa được tươi …. điều này ít nhiều đã làm
mất đi ấn tượng với học trò. Tương tự như vậy là tích cách của người thầy, về
phần này thì có thể nói “muôn người muôn vẻ”. Đặc biệt là khi ngày nay áp
lực công việc và gia đình ngày càng lớn đã làm cho nhiều giáo viên trở nên
nóng nảy, cáu gắt với học sinh. Vì vậy đã làm mất đi sự gần gũi giữa thầy và
trò, làm giảm đi hứng thú học tập của các em.
4


Giải pháp thứ hai được nhiều giáo viên trẻ lựa chọn đó là sử dụng
các phương tiện hỗ trợ cho bài học như máy tính, máy chiếu… . Bằng cách sử
dụng các video, các hình ảnh trực quan sinh động sẽ làm cho học sinh thấy
thích thú với tiết học hơn. Tuy nhiên nhiều giáo viên chưa khéo léo khi sử dụng
giải pháp này dẫn đến tình trạng lạm dụng các thiết bị dạy học, biến tiết học
trở thành những giờ “xem phim” không mang lại hiệu quả giáo dục.
Giải pháp thư ba cũng được nhiều giáo viên lựa chọn để tạo nên sự
thành công, lôi cuốn của bài giảng chính là phương pháp giảng dạy: Là cách
dẫn dắt, là hệ thống câu hỏi mang tính kích thích trí tò mò, khám phá của các
em học sinh. Để làm được điều này thì giáo viên phải tích cực bồi dưỡng
chuyên môn, đầu tư thời gian công sức cho bài soạn thật chu đáo trước mỗi tiết
dạy.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
2.3.1. Hệ thống các câu hỏi có liên quan đến thực tiễn đời sống dùng cho
các bài giảng phần “Trao đổi khoáng và nitơ”- Sinh học 11.
Câu 1: Khi gieo trồng người ta đặc biệt quan tâm đên pH môi trường vì pH môi
trường có ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ khoáng và hệ số sử dụng phân bón
của cây. Hãy giải thích rõ vấn đề nêu trên và đưa ra một số biện pháp thông
dụng để tạo pH môi trường ở mức phù hợp với cây trồng?
Giải thích :

+ Do pH ảnh hưởng đến sự tích điện trên bề mặt rễ do vậy ảnh hưởng đến sự hấp
thụ khoáng: Khi độ pH giảm cây khó hấp thu các nguyên tố Na+; K+; Ca++ …
nhưng lại hấp thu quá nhiều các nguyên tố ion âm( NO3-; Cl-; SO4-- …) và vi
lượng (như Fe,Mn, Bo, Zn), dẫn đến cây còi cọc, kém phát triển, và nhiễm kim
loại nặng. Và ngược lại pH cao rễ hấp thu mạnh các ion dương ( Na+; K+; Ca++
…) khó hấp thu ion âm( NO3-; Cl-; SO4-- …)
+ pH quá thấp hay quá cao làm tổn thương mô rễ, do vậy ảnh hưởng đến quá
trình hấp thu các chất. pH còn ảnh hưởng đến khả năng tích trữ các ion khoáng
của đất: đất chua (pH thấp) H+ thay thế các ion dương của keo đất làm các ion
này ở dạng tự do dễ bị rửa trôi làm đất nghèo dinh dưỡng. pH còn ảnh hưởng
đến sự sinh trưởng của vi sinh vật đất ( đa số VSV ưa pH trung tính), do vậy ảnh
hưởng đến quá trình chuyển hóa phân bón, cố định nito…
+ pH ảnh hưởng tới mức độ hòa tan của phân bón: nhìn chung pH hơi axit tăng
độ hòa tan, pH kiềm giảm độ hòa tan. Khi pH thấp, các ion kim loại ở dạng tan
(Fe2+, Al3+) tác dụng với photphat (lân) tạo thành các hợp chất không tan.
- Biện pháp: Bón phân hữu cơ: Phân hữu cơ có tính đệm, có thể tạo ra môi
trường pH ổn định thuận lợi cho quá trình hấp thụ khoán ở rễ.Bón vôi khi đất bị
chua để trung hòa và đưa pH về mức phù hợp với cây trồng.Trên đất phèn, khi
cải tạo thường sử dụng phân lân để bón cho đất.
Áp dụng : Dạy phần sự hấp thụ các ion khoáng
Câu 2: Giải thích tại sao cây trồng trên đất chua và đất kiềm đều có khó khăn
cho quá trình dinh dưỡng khoáng, còn đất thoáng lại tạo nhiều thuận lợi cho
cây hút khoáng.
Giải thích :
5


- Đất chua: Trong đất chua có nhiều H+, H+ dễ loại các ion khoáng ra khỏi bề mặt
các hạt keo đất, từ đó dễ bị rửa trôi hoặc lắng đọng xuống tầng đất sâu hơn, làm
cho đất bạc màu, nghèo dinh dưỡng khoáng.

- Đất kiềm: Trong đất kiềm có nhiều OH , chúng liên kết chặt với các ion
khoáng làm cho cây khó sử dụng được khoáng trong đất.
- Mặt khác đất chua và đất kiềm đều gây ức chế vi sinh vật đất, làm chậm quá
trình chuyển hóa các ion khoáng từ xác động, thực vật.
- Đất thoáng khí giàu O2, tạo thuận lợi cho các tế bào dễ hô hấp hiếu khí cung
cấp nhiều ATP cho quá trình hút khoáng tích cực.
Áp dụng : Dạy phần Sự hấp thụ các ion khoáng
Câu 3: Loại phân bón nào thường được sử dụng trong trồng trọt ? Cho biết vai
trò của các nguyên tố trong loại phân đó ?
Giải thích :
- Phân bón NPK
- Vai trò :
* Nitơ :
- Chức năng câu trúc : prôtêin, axit nu, photpholiphit, diệp lục ...
- Điều tiết các quá trình trao đổi chất (tao enzim, hoôcnn sinh
trưởng, vitanin..)
*Photpho : - Chức năng câu trúc (prôtêin, axit nu, photpholiphit, enzim,
vitamin..)
- Có vai trò trung tâm trong quá trình quang hợp và hô hấp
- Thúc đẩy quá trình phát triển.
- Tăng khả năng chống chịu.
* Kali :
- điều tiết, thúc đẩy quá trình trao đổi chất.
- ảnh hưởng tích cực đến tính chịu rét
Áp dụng : Dạy phần nguyên tố dinh dưỡng thiết yếu ở cây trồng, vai trò
của các nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết yếu trong cây
Câu 4: Tại sao các nguyên tố vi lượng lại chỉ cần một lượng rất nhỏ đối với
thực vật?.
b. Để cho cây lúa không bị lốp đổ lúc bông sắp chín, người ta thường bón
phân gì? Vì sao phải sử dụng loại phân đó?

Giải thích :
a. - Vai trò chính của cac nguyên tố vi lượng là tham gia cấu tạo, hoạt hoá các
enzim, các hoocmon, … mà các thành phần này trong cơ thể thực vật chiếm một
tỷ lệ rất nhỏ về khối lượng, vì vậy cơ thể thực vật chỉ cần một lượng rất nhỏ các
nguyên
tố
vi
lượng
nhưng
không
thể
thiếu.
- Hầu hết các nguyên tố vi lượng chỉ chiếm tỷ lệ <= 0,01% khối lượng khô của
cơ thể
b. Để cho cây lúa không bị lốp đổ lúc bông sắp chín, người ta thường bón
phân có nhiều Kali.
Vì Kali giúp tích lũy xenlulôzơ, hemixenlulôzơ và pectin trong vách tế bào
thực vật, làm cho tế bào cứng cáp hơn, giúp tăng khả năng chống lốp đổ của lúa.
Áp dụng : Dạy phần vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết
yếu trong cây
Câu 5: a.Nêu các vai trò sinh lí của K đối với thực vật.
6


b. Phân K có hiệu quả tốt nhất đối với những loại cây trồng nào? Đối với
những cây đó nên bón phân K vào thời điểm nào để đạt hiệu quả cao nhất?
c. Trong chế phẩm vi lượng cho cây họ Đậu, nguyên tố nào là nguyên tố vi
lượng chủ đạo và không thể thiếu được? Vì sao?
Giải thích :
a. Vai trò sinh lý của K đối với cây:

o Điều chỉnh các đặc tính lý hóa của keo nguyên sinh chất.
o Điều chỉnh sức trương của tế bào, điều chỉnh đóng mở khí khổng.
o Điều chỉnh dòng vận chuyển các chất hữu cơ trong mạch rây.
o Hoạt hóa nhiều enzym tham gia các quá trình trao đổi chất trong
cây, đặc biệt là các enzym quang hợp, hô hấp.
o Điều chỉnh sự vận động ngủ của một số lá cây.
b. Phân K có hiệu quả tốt nhất đối với những cây trồng mà sản phẩm thu hoạch
chứa nhiều gluxit như lúa, ngô, mía, khoai, sắn…Đối với những cây trồng này,
bón K là tối cần thiết để đạt năng suất và chất lượng cao.
c. Bón K vào giai đoạn cây trồng hình thành cơ quan kinh tế vì K làm tăng quá
trình vận chuyển các chất hữu cơ, tích lũy về cơ quan dự trữ nên sẽ làm tăng
năng suất kinh tế.
- Trong chế phẩm vi lượng cho cây họ đậu, Mo là nguyên tố vi lượng chủ đạo và
không thể thiếu được. Vì: Mo có vai trò rất quan trọng trong việc trao đổi nitơ
do nó cấu tạo nên enzym Nitrareductaza, Nitrogenaza.
Thiếu Mo gây ức chế sự dinh dưỡng đạm của cây.
Áp dụng : Dạy phần vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết
yếu trong cây
Câu 6: a. Nếu thiếu Phôt pho, Kali và Magiê thì gây hậu quả như thế nào đối
với cây trồng?
b. Khi cây thiếu nguyên tố N hoặc S đều có biểu hiện vàng lá. Sự biểu hiện vàng
lá đối với sự thiếu hai nguyên tố này khác nhau thế nào? Giải thích?
Giải thích :
a. Nếu cây trồng thiếu
- Phôtpho: tốc độ hút O2 bị giảm thay đổi hoạt tính enzim trong hô hấp. các hợp
chất phôtpho hữu cơ và pôlisacarit bị phân giải, ngưng trệ tổng hợp protêin và
các nuclêotit tự do.
- Kali: giảm năng xuất quang hợp, trước hết giảm tốc độ dòng chất đồng hoá từ
lá.
- Magiê: ức chế quá trình tạo các hợp chất phốtpho hữu cơ gây hiện tượng

tăng lượng monosacarit, ức chế sinh tổng hợp polisacarit, hoạt động của bộ máy
tổng hợp prôtein kém hiệu quả, Riboxoom bị phân giải. Sự hình thành lục lạp bị
hư hại.
b. – Khi thiếu N, màu vàng biểu hiện trước ở lá già, sau đó đến lá non. Khi thiếu
S, màu vàng biểu hiện trước ở lá non, sau đó đến lá già
- Giải thích: khi thiếu N, thực vật có thể huy động nguồn N từ các lá già phía
dưới để cung cấp cho các phần đang tăng trưởng, đối với S thì không có khả
năng di động này.
7


Áp dụng : Dạy phần vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết
yếu trong cây
Câu 7: a. Nêu cơ sở khoa học của câu ca "Không lân, không vôi thì thôi trồng
lạc"
b) Nguyên tố khoáng nào thiết yếu cho sinh trưởng của cây họ đậu? Giải thích?
Giải thích :
a. - Lạc là cây họ đậu có khả năng đồng hóa N2 khí trời nhờ vi khuẩn ở nốt sần
nên thỏa mãn về nhu cầu nitơ, nhưng để cố định đạm và tổng hợp các chất nhu
cầu về photpho (lân) là rất cao → photpho là nguyên tố khoáng thiết yếu đối với
cây lạc.
- Canxi tuy không cần cho sinh trưởng của cây lạc, nhưng có tác dụng làm
giảm độ chua của đất giúp cây hấp thụ tốt nhiều loại khoáng, đặc biệt trong đó
có photpho, do đó trồng lạc đặc biệt phải quan tâm đến photpho và canxi mới có
thể có năng suất cao.
b. Cây họ đậu là cây có hàm lượng đạm cao nên nguyên tố khoáng thiết yếu cho
sinh trưởng của cây họ đậu:
-Nito là nguyên tố khoáng thiết yếu đa lượng trong thành phần cấu tạo tế bào, cơ
thể và tham gia điều hòa hoạt động trao đổi chất của cây
- Molipden (Mo) là nguyên tố khoáng thiết yếu vi lượng tham gia trong các quá

trình chuyển hóa, hấp thu nito cho cây
Áp dụng : Dạy phần vai trò của các nguyên tố dinh dưỡng khoáng thiết
yếu trong cây
Câu 8: Một thửa ruộng sau thời gian dài không canh tác (ruộng bỏ hoang), khi
phân tích thành phần hóa học người ta thấy lượng đạm trong đất có tăng hơn
so với thời gian đầu mới ngừng canh tác. Giải thích tại sao?
Giải thích :
* Các cơ chế làm tăng lượng đạm trong đất:
- Qua quá trình cố định nitơ theo con đường điện hóa (do có sự phóng tia lửa
điện trong không khí khi mưa dông):
N2 + 2O2  NO2-  NO3- Quá trình cố định nitơ khí quyển bởi các nhóm vi sinh vật (nhờ có hệ enzim
nitrogenaza):
2H
2H
2H
N=N ---------> HN=NH --------> H2N-NH2 --------> 2NH3.
- Quá trình phân giải các hợp chất chứa nitơ bởi các vi sinh vật đất:
+ Các hợp chất hữu cơ chứa nitơ (xác, chất thải của sinh vật) nhờ hoạt
động của các vi khuẩn mùn hóa và các vi khuẩn khoáng hóa (VK nitrit hóa và
nitrat hoá) đã biến nitơ ở dạng hữu cơ thành nitơ dạng vô cơ.
+ Sơ đồ tóm tắt:
Chất hữu

chứa nitơ

VK mùn hóa

VK nitrat hóa

VK nitrit hóa

NH3

NO2

-

NO3-

Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
8


Câu 9: Cây xanh chỉ hấp thu được chất vô cơ nhưng tại sao bón phân hữu cơ
cây vẫn phát triển tốt ? Cho một ví dụ để giải thích ?
Trồng trên đất kiềm gặp khó khăn cho quá trình dinh dưỡng khoáng. Giải thích.
Giải thích :
a. - Khi bón phân hữu cơ vào đất, dưới tác dụng của các vi sinh vật, chúng sẽ bị
phân huỷ thành chất khoáng dễ tiêu cho cây hấp thụ.
- Quá trình nitrat hoá : ....
- Ví dụ bón phân chuồng chứa chất thải của động vật  đạm amôn  muối nitrit 
cây hấp thụ dễ dàng  sinh trưởng tốt.
b. Nhận định đó là sai. Khi làm tăng độ thoáng của đất sẽ hạn chế tình trạng mất
nitơ trong đất vì:
+ Các vi sinh vật hiếu khí hoạt động thực hiện các phản ứng nitrat hóa, các gốc
nitrat được giữ lại trong đất.
+ Đất thoáng, giàu O2 có tác dụng ức chế quá trình phản nitrat hóa (phản ứng
xảy ra trong điều kiện yếm khí lúc đó tạo nitơ tự do bay mất).
- Trong đất kiềm có nhiều OH , chúng liên kết chặt với các ion khoáng làm cho
cây khó sử dụng được khoáng trong đất.
- Mặt khác đất kiềm gây ức chế vi sinh vật đất, làm chậm quá trình chuyển hóa

các ion khoáng từ xác động, thực vật.
Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây, sự hấp thụ các
ion khoáng.
Câu 10: a. Cây xanh có thể sử dụng được những nguồn nitơ nào?
b. Vì sao thực vật xanh “ Tắm mình trong biển đạm ” nhưng lại thiếu đạm ?
Giải thích :
a. Cây xanh sử dụng được các nguồn nitơ :
- Nitơ hữu cơ :
+ Hữu cơ đơn giản: cây có thể hấp thụ : các axit amin các bazơ hữu cơ chứa
nitơ, các chất amit.
+ Hữu cơ phức tạp : cây hấp thụ sau khi phân giải thành hữu cơ đơn giản nhờ vi
sinh vật : các cây cộng sinh .. sử dụng dạng này.
- Nitơ vô cơ :
+ Chủ yếu NO3 và NH4
+ Quá trình đồng hoá NO3 và NH4
b. Cây xanh nói chung tắm mình trong biển đạm nhưng thiếu đạm vì Nitơ tự do
N2 có liên kết 3 bền vững ( NN) Cây xanh nói chung không có enzim xúc tác
mạnh quá trình hoạt hoá Nitơ (Nitrogenaza, Hidrogenaza phá vở liên kết NN
bền của Nitrơ để biến N2---> NH3
Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
Câu 11: Sau cơn mưa có nhiều sấm sét thì cây xanh tươi tốt hơn, mọc lá non
nhiều hơn?
Giải thích :
9


Sau cơn mưa có nhiều sấm sét thì cây xanh tươi tốt hơn, mọc lá non nhiều hơn
vì:
- Trong các cơn mưa có sấm sét, một lương nhỏ nitơ của không khí bị ôxi hóa
dưới điều kiện nhiệt độ và áp suất cao thành nitrat theo phản ứng:

N2 + O2 → 2NO + O2 → 2NO2 + H2O → HNO3 → H+ + NO3- Cây dược cung cấp nguồn nitơ, mặc dù ít, cùng với nước nên thực hiện quá
trình quang hợp, trao đổi nước tốt hơn nên cây xanh tốt hơn
Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
Câu 12: Bằng những hiểu biết của mình, em hãy giải thích câu:
Lúa chiêm lấp ló đầu bờ.
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
Giải thích :
- Vụ lúa chiêm kéo dài khoảng từ tháng 1 đến tháng 5, lúc này cây lúa đang thời
kì con gái, sinh trưởng phát triển mạnh cần nhiều nước và phân (nitơ).
- Nhưng gặp thời điểm khô hạn cây lúa thiếu nước và phân nên chậm lớn, chỉ
“lấp ló” đầu bờ  ngang bờ.
- “Hễ nghe tiếng sấm” báo hiệu cơn mưa đầu mùa.
- Mưa giông đầu mùa thường có hiện tượng phóng điện trong tự nhiên  sấm
chớp đồng thời cũng làm cho N2 bị oxh thành nguồn đạm (NO3-) theo nước mưa
cung cấp cho cây. Cây lúa đang trong giai đoạn lớn cần nhiều nước và phân đang
bị khô hạn gặp mưa đầu mùa chỉ việc “phất cờ” mà lên.
Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
Câu 13: a. Trình bày sự biến đổi đạm hữu cơ thành đạm vô cơ trong đất. Vai trò
của VSV trong quá trình biến đổi này như thế nào?
Tại sao khi trồng các cây họ đậu người ta không bón hoặc bón rất ít phân đạm?
Giải thích :
a. Dưới đất, đạm hữu cơ là xác động, thực vật, rác rưởi . . luôn được biến đổi
thành đạm vô cơ dưới tác dụng của vi khuẩn và nấm. gồm các giai đoạn :
+ Sự hóa mùn: xác động, thực vật, rác rưởi . . bị các vi khuẩn và nấm làm nát
rữa thành chất màu nâu gọi là mùn. Protein trong xác chết bị biến đổi thành axit
amin.
+ Sự hóa amoniac : biến đổi các axit amin trong mùn thành NH 3 dưới tác dụng
của vi khuẩn và nấm.
+ Sự Nitrit hóa : vi khuẩn Nitrosmonas oxy hóa NH3 thành axit nitric.
NH3 + 02

HN02 + H2O +158 kcal.
Các axit Nitric gặp các bazo trong đất tạo thành nitric.
HN02 + NaOH
NaN02 + H2O.
+ Sự Nitrat hóa : vi khuẩn Nitrobacter oxy hóa nitric thành nitrat hòa tan để thực
vật hấp thụ
NaN02 + ½ 02
NaN03.
b. Vì rễ các cây họ đậu có các nốt sần chứa vi khuẩn Rhizobium cộng sinh.
Vi khuẩn này có khả năng cố định nitơ tự do thành dạng nitơ cây sử dụng được.
Sơ đồ tóm tắt cố định nitơ tự do
2H
N �N

2H
N=N

2H
NH2 – NH2

2 NH3
10


Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
Câu 14: a. Có ý kiến cho rằng: Khi làm tăng độ thoáng của đất có thể dẫn đến
làm giảm lượng nitơ trong đất. Hãy cho biết quan điểm của em.
Giải thích :
a. Nhận định đó là sai. Khi làm tăng độ thoáng của đất sẽ hạn chế tình trạng mất
nitơ trong đất vì:

+ Các vi sinh vật hiếu khí hoạt động thực hiện các phản ứng nitrat hóa, các
gốc nitrat được giữ lại trong đất.
+ Đất thoáng, giầu O2 có tác dụng ức chế quá trình phản ứng nitrat hóa (phản
ứng xảy ra trong điều kiện yếm khí lúc đó tạo nitơ tự do bay mất).
Áp dụng : Dạy phần nguồn cung cấp nitơ tự nhiên cho cây.
Câu 15: Thế nào là bón phân hợp lý và biện pháp đó có tác dụng gì đối với
năng suất cây trồng và bảo vệ môi trường? Vì sao cần phải bón phân với liều
lượng hợp lí tùy thuộc vào loại đất, loại phân bón, giống và các loại cây trồng?
Giải thích :
a. - Bón phân hợp lý:
+ bón đúng nhu cầu của cây theo đặc điểm của giống, loài cây,
+ Phù hợp với các pha sinh trưởng và phát triể của cây
+ Phù hợp với đặc điểm của đất, theo điều kiện thời tiết.
+ Phân bón phải đúng loại, đủ số lượng và tỉ lệ các thành phần dinh dưỡng
hợp lý.
- Tác dụng: Làm tăng năng suất cây trồng và không làm ô nhiễm môi trường, đe
dọa sức khỏe của con người.
b. Vì: + Nhằm đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng tốt, năng suất cao
+ Nhằm nâng cao hiệu quả của phân bón, giảm chi phí đầu vào
+ Không gây ô nhiễm môi trường và nông phẩm
 Cần bón phân theo chỉ dẫn của cơ quan khuyến nông
Áp dụng : Dạy phần phân bón với năng suất cây trồng và môi trường
2.3.2. Tổ chức sử dụng câu hỏi gắn với thực tiễn trong dạy học để tăng hứng
thú học tập, phát huy và nâng cao năng lực sáng tạo cho học sinh.
2.3.2.1. Những biện pháp sư phạm cần thiết trong tiến trình sử dụng câu hỏi
vào dạy học.
a) Tạo ra môi trường học tập kích thích tính tự lực, sáng tạo của học sinh
trong học tập
Giáo viên phải linh hoạt, tổ chức giờ dạy với không khí lớp học thật sôi
nổi, thoải mái nhưng nghiêm túc để lớp học là nơi mỗi học sinh luôn muốn bộc

lộ những cách nghĩ “khác thường” của mình. Đã từ lâu, học sinh quen thụ
động, ít tự lực suy nghĩ nên lúc đầu khi trả lời các câu hỏi thường rụt rè, lúng
túng, chậm chạp và hay phạm sai lầm khi thực hiện các hành động học tập. Giáo
viên cần phải biết chờ đợi, động viên, giúp đỡ và lãnh đạo lớp học sao cho
học sinh mạnh dạn tham gia thảo luận, phát biểu ý kiến của riêng mình, nêu thắc
mắc, lật ngược vấn đề chứ không chỉ chờ sự phán xét của giáo viên.
11


Giáo viên nên khắc phục tâm lí sợ mất thời gian. Thời gian một tiết học
chỉ có 45 phút, giáo viên thường thuyết trình, giải thích hết 30-40 phút, thời
gian dành cho học sinh làm việc tự lực và phát biểu còn quá ít. Cần phải kiên
quyết dành nhiều thời gian cho học sinh phát biểu, thảo luận. Dần dần, học sinh
sẽ chủ động hơn, tự lực hơn trong các hoạt động học tập. Mặt khác, tốc độ tư
duy sẽ tăng lên, học sinh sẽ mạnh dạn trình bày ý tưởng của mình, từ đó thúc
đẩy tốc độ giải quyết vấn đề của tiết học.
b)Tạo ra nhu cầu hứng thú, kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học
sinh, đặt học sinh vào tình huống có vấn đề
Tư duy chỉ thực sự bắt đầu xuất hiện trong đầu học sinh khi có sự xuất
hiện của mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu, nhiệm vụ nhận thức
mới cần giải quyết và một bên là trình độ kiến thức hiện có không đủ để giải
quyết nhiệm vụ ñó. Lúc đó, học sinh vừa căng thẳng vừa hưng phấn khát khao
vượt qua khó khăn giải quyết được mâu thuẫn. Ta nói rằng học sinh được đặt
vào tình huống có vấn đề như tình huống lựa chọn, tình huống bế tắc, tình
huống lạ, tình huống ngạc nhiên bất ngờ,…giáo viên nên lựa chọn những
tình huống gần gũi với thực tế cuộc sống để học sinh nhận thấy mâu thuẫn là cần
thiết giải quyết. học sinh thường xuyên tham gia vào giải quyết những
mâu thuẫn nhận thức sẽ tạo ra thói quen, lòng ham thích hoạt động trí óc
có chiều sâu, làm tăng tính tự giác, tự lực khám phá của học sinh.
c)Tư duy tập thể kích thích sự sáng tạo

Rõ ràng khi làm việc theo nhóm với người lãnh đạo là trưởng nhóm, các
thành viên sẽ giảm cảm giác sợ sai hơn khi đứng trước lớp với người lãnh đạo
là giáo viên nên các em sẽ dễ phát ý tưởng. Mặt khác, khi có một bạn phát ý
tưởng, các học sinh khác sẽ sử dụng khả năng phân tích đánh giá của mình
để nhận định về ý tưởng của bạn, đồng thời nhờ trí nhớ, học sinh có thể liên hệ
kiến thức mà người phát ý tưởng trong nhóm vừa nêu để tự mình phát được ý
tưởng mới có giá trị. Có nhiều ý tưởng được đưa ra thì việc chọn lựa được một
ý tưởng phù hợp và khả thi sẽ dễ dàng hơn. Khi đó, con đường giải quyết vấn đề
sẽ rộng mở, đem lại niềm hy vọng kích thích học sinh tiếp tục tư duy sáng tạo để
tìm ra lời giải cho câu hỏi.
2.3.2.2. Các hình thức sử dụng câu hỏi, bài tập trong dạy học phần trao
đổi khoáng và nitơ ở thực vật
Câu hỏi, bài tập có thể sử dụng một cách đa dạng trong tất cả các giai đoạn
khác nhau của quá trình dạy học.
Câu hỏi, bài tập sử dụng trong quá trình dạy kiến thức mới: trong đó câu
hỏi, bài tập có thể được đưa ra như một tình huống có vấn đề hay một câu hỏi,
bài tập để học sinh chuẩn bị trước ở nhà và trình bày trong tiết học. Giáo viên có
thể gợi ý thêm bằng các câu hỏi, bài tập định hướng để học sinh có thể sử dụng
các thủ thuật sáng tạo để học sinh giải quyết vấn đề.
Câu hỏi, bài tập được sử dụng làm bài tập về nhà để học sinh củng cố mở
rộng kiến thức, rèn luyện cách thức làm việc nhóm, tra cứu, tham khảo các tài
liệu, áp dụng các kiến thức vào thực tế.
Câu hỏi, bài tập được sử dụng trong khâu kiểm tra đánh giá giúp giáo viên
và các nhà quản lí giáo dục đánh giá được năng lực của học sinh. Việc kiểm tra,
12


đánh giá đang được đổi mới sang hướng kiểm tra, đánh giá theo định hướng
phát triển năng lực, trong đó các câu hỏi kiểm tra đánh giá phải gắn với thực
tiễn và phát huy được tính chủ động sáng tạo của người học. Hệ thống câu hỏi,

bài tập được đề xuất trong đề tài là các câu hỏi gắn với thực tiễn, lại chứa đựng
những nhiệm vụ đòi hỏi người học phải phát huy tính độc lập, chủ động, sáng
tạo mới có thể giải quyết được do đó rất phù hợp để sử dụng trong công tác
kiểm tra đánh giá đặc biệt là đối với đối tượng học sinh giỏi
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Khi học xong vấn đề gì học sinh thấy có ứng dụng thực tiễn cho cuộc
sống thì các em sẽ chú ý hơn, tìm tòi, chủ động tư duy để tìm hiểu, để nhớ hơn.
Do đó mỗi bài học giáo viên đưa ra được một số ứng dụng thực tiễn sẽ lôi
cuốn được sự chú ý của học sinh. Giáo viên cũng cần chú ý khi sử dụng các
hiện tượng sinh học thực tiễn nên khéo léo trong giải thích vấn đề, vì cấp
độ bộ môn sinh ở trường THPT nhiều khi chưa tìm hiểu sâu quá trình diễn
biến của sự việc hay hiện tượng. Do đó giáo viên phải biết lựa chọn cách giải
thích cho phù hợp, nếu học sinh tỏ ra tìm tòi hơn chúng ta có thể khích lệ,
mở ra hướng giáo dục vai trò quan trọng của bộ môn mà các em sẽ được tìm
hiểu ở các cấp cao hơn.
Học sinh trở nên thích môn sinh học hơn, thích những giờ dạy nhiều
hơn. Đa số các em đều hứng thú trong quá trình học tập và ý thức được tầm
quan trọng của việc vận dụng kiến thức bài học vào giải thích các sự vật, hiện
tượng ở cuộc sống hàng ngày, qua đó học sinh dễ dàng tiếp thu bài học và ghi
nhớ kiến thức được lâu hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập góp phần
nâng cao chất lượng môn học.
Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hoà trong phong cách dạy của mình
làm cho giờ học mang không khí rất thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài
của học sinh cũng rất tốt thể hiện trong bảng mô tả sau đây :

Lớp

11A1


11A2

11A3
11A4

Mức độ
Thường
xuyên
áp dụng
Áp
dụng
không
thường
xuyên
Ít áp
dụng
Không
áp dụng

Số
HS

Kém
0 <= Điểm
< 3.5

Yếu
3.5 <=
Điểm < 5
S

L
TL

TB
5 <= Điểm <
6.5

Khá
6.5 <= Điểm
<8

SL

TL

SL

TL

Giỏi
8 <= Điểm
<= 10
S
L
TL

SL

TL


42

0

0,00%

0

0,00%

4

9,52%

26

61,90%

1
2

28,57%

41

0

0,00%

0


0,00%

7

17,07%

31

75,61%

3

7,32%

43

0

0,00%

1

2,33%

19

44,19%

22


51,16%

1

2,33%

40

0

0,00%

0

0,00%

23

57,50%

17

42,50%

0

0,00%

13



3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Với kết quả rất khả quan mà giải pháp trên mang lại nó đã có ảnh
hưởng đến thái độ và nhận thức của học sinh về bộ môn sinh học cũng như về
giáo viên giảng dạy. Đồng thời sáng kiến đã góp một phần nhỏ phần nâng cao
chất lượng của bộ môn sinh học nói riêng và chất lượng toàn diện của nhà
trường nói chung, thúc đẩy sự tiến bộ của học sinh và sự phát triển bền vững
của nhà trường.
3.2. Kiến nghị.
Vấn đề đổi mới phương pháp trong giờ học trong trường phổ thông đang
là vấn đề cấp thiết. Để dạy sinh học trong nhà trường phổ thông có hiệu quả tôi
đề nghị một số vấn đề sau:
Đối với giáo viên: Phải kiên trì, đầu tư nhiều tâm, sức để tìm hiểu các
vấn đề sinh học, vận dụng sáng tạo các phương pháp dạy học, để có bài giảng
thu hút được học sinh.
Đối với nhà trường: Cần trang bị cho giáo viên thêm những tài liệu tham
khảo cần thiết để bổ sung, hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Với
những sáng kiến kinh nghiệm hay, theo tôi nên phổ biến để cho các giáo viên
được học tập và vận dụng. Có như thế tay nghề và vốn kiến thức của giáo
viên sẽ dần được nâng lên.
Với thực trạng học sinh học và yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, có
thể coi đây là một quan điểm của tôi đóng góp ý kiến vào việc nâng cao
chất lượng học sinh học. Mặc dù đã cố gắng song không thể tránh được các
thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn
đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Thanh Hóa, ngày 10 tháng 5 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

LÊ MINH DŨNG

14



×