Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn giáo dục một số kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần công dân với đạo đức trong bộ môn giáo dục công dân lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 18 trang )

1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
Hiện nay, trong môi trường học đường không ít học sinh có lối sống ích
kỷ, thiếu trách nhiệm với bản thân và gia đình; vô tâm với các vấn đề diễn ra
xung quanh mình. Tình trạng bạo lực học đường ngày càng trở thành vấn đề
nhức nhối của gia đình, nhà trường và xã hội. Ngoài ra một số tệ nạn xã hội đã
xâm nhập, lan tỏa vào vào nhà trường như vi phạm pháp luật, quan hệ tình dục
trước hôn nhân, nghiện game, chìm đắm trong thế giới ảo của mạng enternet
như: Zalo, Facebook, Facebook Messengger, Periscoper, Mocha, Instagram,
WhatsApp, Snapchat, Twitter… Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên nhưng nguyên nhân sâu xa nhất là do các em thiếu hụt một cách nghiêm
trọng kỹ năng sống. Vì thế cho nên việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là
một việc vô cùng cần thiết, đặc biệt là đối với học sinh Trung học phổ thông
(THPT). “Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả
về mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học gắn với bốn trụ cột giáo dục của
thế kỷ XXI: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để cùng chung
sống mà thực chất là một cách tiếp cận kỹ năng sống” [1].
Ở lứa tuổi Trung học phổ thông (THPT), các em đã đạt được sự phát triển
nhất định về thể chất, nhân cách, trí tuệ, các năng lực sống…; vị thế xã hội của
các em đã có nhiều thay đổi nên xuất hiện những nhu cầu về hiểu biết xã hội và
các chuẩn mực quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội; khả
năng tự hiểu mình và tự khẳng định mình trong cuộc sống. Vì thế, các trường
THPT cần giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giúp các em hình thành và phát
triển khả năng làm chủ bản thân, đối phó với những sức ép của cuộc sống, sống
có trách nhiệm với bản thân. Nếu học sinh được rèn luyện kỹ năng sống vững
vàng sẽ dễ dàng vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc sống; có thái độ
tích cực trong cách ứng xử, trong giải quyết các vấn đề xung quanh.
Bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT có vai trò rất quan trọng trong
mục tiêu giáo dục con người phát triển toàn diện. Những kiến thức của bộ môn
Giáo dục công dân “nhằm trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về thế
giới quan, nhân sinh quan, hệ thống các giá trị đạo đức, pháp luật, thể chế


chính trị và những phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2]. Giảng dạy
bộ môn Giáo dục công dân không phải chỉ cần truyền thụ những kiến thức cơ
bản như trong sách giáo khoa mà còn cần phải hướng dẫn các em vận dụng nó
1


vào cuộc sống. Từ đó, giúp các em “có kỹ năng vận dụng kiến thức đã học vào
việc giải thích và giải quyết những vấn đề gần gũi, có tính phổ biến trong đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội cũng như khó khăn, vướng mắc của bản thân và
gia đình; biết lựa chọn hành vi ứng xử phù hợp trong các tình huống của cuộc
sống; biết đánh giá đúng đắn các hành vi của bản thân và của những người
xung quanh; biết tự điều chỉnh hành vi của mình và đấu tranh với các hành vi
sai trái của người khác” [2]. Tuy nhiên, thực tế giảng dạy cho thấy bộ môn Giáo
dục công dân thường bị coi nhẹ trong nhà trường THPT, các em học với tinh
thần “đối phó” là chủ yếu. Hơn nữa, các phạm trù triết học, đạo đức, pháp luật
mang tính khái quát, trừu tượng cao. Nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên
không có những phương pháp tích cực thì không thể giáo dục cho các em được
những kỹ năng cần thiết trong cuộc sống. Với những suy nghĩ như trên, là một
giáo viên giảng dạy môn Giáo dục công dân có bề dày hơn 10 năm công tác tại
trường THPT Nguyễn Quán Nho, tôi mạnh dạn chọn vấn đề: “Giáo dục một số
kỹ năng sống cho học sinh THPT thông qua dạy học phần “Công dân với đạo
đức” trong bộ môn Giáo dục công dân lớp 10” làm đề tài sáng kiến kinh
nghiệm của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi người cần
có những phẩm chất của công dân toàn cầu. Trong đó kỹ năng sống là một năng
lực không thể thiếu của người công dân trong thời đại mới. Giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THPT là một vấn đề vô cùng cấp thiết, vì thế sáng kiến kinh
nghiệm của tôi đề xuất giáo dục một số kỹ năng sống cơ bản nhằm trang bị cho

các em những kỹ năng cần thiết để thích ứng với mọi thử thách của cuộc sống,
góp phần xây dựng cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn.
- Đồng thời tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống với các
đồng nghiệp nói chung và đồng môn nói riêng nhằm nâng cao hiệu quả giảng
dạy môn Giáo dục công dân trong trường THPT hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Các kỹ năng sống cơ bản theo quan niệm của Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Quỹ
Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF).
- Thực trạng thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường THPT Nguyễn
Quán Nho nói chung và của học sinh các lớp mà tôi trực tiếp giảng dạy: 12C4,
2


12C5, 12C7; 11B1, 11B4, 11B5; 10A2, 10A4, 10A5, 10A6 năm học 2017 –
2018.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp luận của sáng kiến kinh nghiệm là các nguyên tắc, phương
pháp luận của Triết học Mác - Lê-nin như: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc
toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể, nguyên tắc thống nhất giữa cái trừu tượng
và cái cụ thể, sự kết hợp giữa cái phổ biến và cái đặc thù.
- Phương pháp cụ thể được sử dụng trong sáng kiến kinh nghiệm là các
phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa; điều
tra – quan sát, thực nghiệm sư phạm, tổng kết thực tiễn.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường
THPT hiện nay.
2.1.1. Các quan niệm về kỹ năng sống.
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng sống. Mỗi một quan

niệm cũng dựa trên những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên
cứu của sáng kiến này tôi xin trình bày 3 quan niệm về kỹ năng sống của 3 tổ
chức lớn trên thế giới sau đây:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), kỹ năng sống là những kỹ năng rất
thiết thực mà con người cần để có một cuộc sống an toàn, lành mạnh. Theo đó,
có thể hiểu kỹ năng sống bao gồm những kỹ năng mang tính tâm lý xã hội và
các kỹ năng về giao tiếp được vận dụng vào trong cuộc sống hàng ngày để giao
tiếp và tương tác với người khác.
- Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF), kỹ năng sống là cách
con người ta tiếp cận với các tình huống trong cuộc sống để thay đổi hoặc hình
thành những hành vi, thái độ mới phù hợp. Theo cách hiểu này thì kỹ năng sống
là sự cân bằng giữa việc tiếp thu kiến thức với việc hình thành thái độ và kỹ
năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc
(UNESCO), kỹ năng sống là toàn bộ những năng lực cá nhân được vận dụng để

3


thực hiện đầy đủ các chức năng của con người và tham gia vào cuộc sống hàng
ngày.
Như vậy, có thể thấy, dù các quan niệm về kỹ năng sống có khác nhau
nhưng đều có những điểm tương đồng. Khái quát lại, có thể hiểu kỹ năng sống
là cách thức nhằm giúp con người vận dụng kiến thức tiếp thu được vào trong
thực tế cuộc sống với thái độ và hành vi tích cực đem lại hiệu quả cao. “Kỹ
năng sống vừa mang tính chất cá nhân vừa mang tính chất xã hội. Kỹ năng sống
mang tính chất cá nhân vì đó là năng lực của cá nhân. Kỹ năng sống còn mang
tính xã hội vì trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, ở mỗi vùng
miền lại đòi hỏi mỗi cá nhân có những kỹ năng sống thích hợp” [3].
2.1.2. Vai trò, tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với học sinh THPT trong

giai đoạn hiện nay.
“Cuộc đời một hành trình mà bằng cấp chuyên môn giống như một bệ
phóng, còn kỹ năng sống chính là động lực thúc đẩy con người vươn lên tầm
cao thành đạt” [4].
Trong quá trình hội nhập của đất nước ta, vấn đề giáo dục kỹ năng sống là
một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt. Nhất là trước tình trạng một bộ phận giới
trẻ hiện nay đang vi phạm một cách nghiêm trọng đạo đức, có lối sống buông
thả, coi trọng đồng tiền, coi trọng thế giới ảo, coi thường nhân cách của mình và
của người khác. Chính vì vậy, giáo dục kỹ năng sống là một phần không thể
thiếu của chương trình, mục tiêu giáo dục trong thời đại mới.
Đối với học sinh THPT – lứa tuổi thanh niên – là giai đoạn phát triển
phức tạp nhất. Bởi vì, giai đoạn này các em có nhiều biến đổi lớn về cả tâm lý
lẫn sinh lý. Nhà trường cần phải tạo cho các em những điều kiện vật chất – tinh
thần thuận lợi để các em có thể học tập và phát triển mạnh mẽ nhất. Ở lứa tuổi
này, các em tự coi mình đã là người lớn nhưng thực chất các em lại chưa phải là
người lớn. Có thể nói các em có một hình hài người lớn nhưng tâm lý đôi khi
vẫn còn rất trẻ con. Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho các em giai đoạn này có ý
nghĩa vô cùng thiết thực, góp phần hoàn thiện nhân cách cho các em và đặt một
nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển tiếp theo sau này.
2.2. Thực trạng dạy – học kỹ năng sống thông qua môn Giáo dục công dân
ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.

4


2.2.1. Thực trạng giảng dạy kỹ năng sống thông qua môn giáo dục công dân
ở trường THPT Nguyễn Quán Nho hiện nay.
Trong thời gian gần đây, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong
nhà trường đã trở thành vấn đề cần thiết. Từ năm học 2011-2012, Bộ giáo dục
đào tạo đã đưa nội dung giáo dục tích hợp kỹ năng sống vào các bộ môn trong

chương trình giáo dục. Giáo dục kỹ năng sống cũng là một xu thế chung của
giáo dục Việt Nam nói riêng và các nền giáo dục trên thế giới nói chung. Thực tế
cho thấy, người có kỹ năng sống sẽ có lập trường kiên định, vững vàng; có năng
lực, phẩm chất tiến bộ, dễ dàng vượt qua khó khăn, thử thách trong cuộc sống,
tiếp nhận, xử lý các tình huống một cách tích cực, linh hoạt. Họ làm chủ được
bản thân và sống có trách nhiệm, có mục đích. Ngược lại người thiếu kỹ năng
sống thường bi quan, lập trường không vững vàng, khó làm chủ bản thân, dễ vấp
ngã, thất bại trong cuộc sống.
Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em đã đạt được sự phát triển nhất định về
thể chất và trí tuệ. Các em tiếp thu cái mới rất nhanh nhưng cũng dễ chủ quan,
nông nổi, ảo tưởng về sức mạnh của bản thân. Từ đó dẫn đến một số em vi phạm
nghiêm trọng các giá trị đạo đức của xã hội: vô lễ với thầy cô giáo, với người
lớn, coi thường bạn bè, ích kỷ, đề cao cái tôi cá nhân, thiếu ý thức bảo vệ môi
trường…
Giáo dục Công dân là một môn học có tầm quan trọng đặc biệt trong việc
giáo dục nhân cách học sinh. Giáo dục Công dân không chỉ có chức năng giáo
dục thế giới quan, phương pháp luận khoa học; giáo dục đường lối chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước mà còn cung cấp một hệ thống tri thức cơ bản
về giá trị đạo đức của dân tộc và nhân loại; giúp cho học sinh phát triển toàn
diện về trí tuệ, thể chất [5].
Bộ môn Giáo dục công dân ở trường THPT Nguyễn Quán Nho do tôi và
thầy Trịnh Hữu Phúc giảng dạy. Hai chúng tôi luôn tích cực dự giờ, trao đổi
chuyên môn sau các giờ lên lớp để kịp thời nắm bắt tâm tư, tình cảm và mức độ
nhận thức, vận dụng bài học của các em học sinh. Từ đó chúng tôi luôn trau dồi
kiến thức, đổi mới phương pháp giảng dạy để quá trình dạy học đạt kết quả tốt
nhất.
2.2.2. Thực trạng học tập và thực hiện kỹ năng sống của học sinh trường
THPT Nguyễn Quán Nho.
Trong hệ thống kiến thức Giáo dục Công dân Trung học phổ thông thì
những nội dung về đạo đức là những nội dung tạo được hứng thú học tập nhất

cho học sinh. Nếu các nội dung về Triết học, Pháp luật, Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Kinh tế chính trị… có nhiều khái niệm, nguyên lý, quy luật, lý thuyết…
mang tính hàn lâm, khái quát, trừu tượng nên rất khó để học sinh tiếp thu thì các
5


nội dung về đạo đức lại rất gần gũi, quen thuộc với học sinh. Các em vừa thích
thú, háo hức khi khám phá về bản thân, về các mối quan hệ xung quanh. Cũng
có lúc các em xấu hổ, ngượng ngịu vì nhận ra những suy nghĩ, hành động mà
mình cho là đúng thì đạo đức xã hội lại cho rằng chưa đúng, cần phải sữa chữa,
khắc phục [5].
Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang,
xung quanh đều là các xã thuần nông cho nên học sinh ở đây đa số là con em
của gia đình nông dân và lao động tự do. Ngày nay, việc trồng lúa và các cây
lương thực khác không đem lại lợi nhuận cao nên phụ huynh thường đi kiếm
việc làm ở các công ty hoặc ở các thành phố lớn. Vì mải mê kiếm tiền trang trải
cuộc sống, nhiều phụ huynh không có đủ thời gian để quan tâm đến con em
mình. Thậm chí, có phụ huynh đi làm ăn xa cả năm chỉ về có vài ngày tết; một
số phụ huynh làm công ty gần nhà nhưng hầu như ngày nào cũng tăng ca đến
đêm mới về, sáng ra lại đi làm từ rất sớm. Điều đó đã khiến cho việc giáo dục kỹ
năng sống cho các em từ phía gia đình hầu như không đạt được hiệu quả như
mong đợi.

Trường THPT Nguyễn Quán Nho đóng trên địa bàn xã Thiệu Quang.
Từ thực trạng giáo dục kỹ năng sống như trên, Ban giám hiệu trường
THPT Nguyễn Quán Nho và tập thể giáo viên nhà trường đã không ngừng suy
nghĩ, trăn trở để tìm ra các phương pháp giáo dục và thực hiện tốt việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh của mình.
2.3. Các kỹ năng sống đã vận dụng để giáo dục cho học sinh trường THPT
Nguyễn Quán Nho.

6


2.3.1. Giáo dục kỹ năng học và tự học.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta, Đảng và Nhà nước rất
chú trọng đến yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
nhằm chuẩn bị một thế hệ công dân có trí tuệ và tài năng, tạo nên sức mạnh của
dân tộc để đi vào thời đại khoa học – công nghệ, thông tin – điện tử, hội nhập và
toàn cầu hóa. Vì thế cho nên, học tập là việc vô cùng quan trọng và cần thiết đối
với mỗi con người, mỗi gia đình và đối với toàn xã hội. Ngày nay, hơn bao giờ
hết, học tập càng có ý nghĩa lớn lao khi thế giới đã và đang đổi thay nhanh
chóng. Có học tập thì chúng ta mới mở rộng tầm nhìn, mở mang kiến thức, mới
có tri thức để làm chủ cuộc đời mình và là công dân có ích của đất nước đang đi
vào kỷ nguyên văn minh, công nghiệp hóa và hiện đại hóa [6].
Để đạt được hiệu quả cao trong học tập, các em học sinh cần phải rèn
luyện kỹ năng học và tự học, cần phải lên kế hoạch, đề ra mục tiêu cụ thể và
phương pháp để thực hiện mục tiêu ấy. Thông qua giảng dạy bài 16 “Tự hoàn
thiện bản thân” – GDCD 10 – tôi đã tích hợp giáo dục cho các em kỹ năng học
và tự học theo các bước như sau:
- Xác định mục tiêu:
Để việc học đạt hiệu quả và kết quả cao nhất các em học sinh cần phải xác
định được mục tiêu rõ ràng. Việc xác định trước mục tiêu trong học tập sẽ giúp
các em có nhận thức đúng đắn về bản thân mình, có động lực để hoàn thành mục
tiêu đã đề ra. Từ đó, các em xác định được cụ thể khối lượng kiến thức mà mình
cần tiếp thu trong thời gian nhất định. Ví dụ như, các em sẽ học cái gì, vào thời
gian nào, phương pháp ra sao…? Bên cạnh đó, các em cũng cần phải luôn luôn
kiểm tra quá trình thực hiện mục tiêu mà mình đã đặt ra, cái gì đã đạt được, cái
gì chưa đạt được để có những phương pháp thực hiện thích hợp và có căn cứ xác
định những mục tiêu tiếp theo.
- Xác định phương pháp thực hiện:

Một trong các phương pháp học và tự học có hiệu quả là kỹ năng đọc và
ghi chép. Không phải là ghi chép bất cứ thứ gì mình đọc được mà phải biết chọn
lọc các nội dung, kiến thức cốt lõi, cần thiết phải ghi nhớ. Bên cạnh đó các em
cũng có thể lên mạng tìm kiếm các thông tin mình cần hoặc cập nhật tin tức thời
sự hằng ngày về các vấn đề mà mình quan tâm. Trong quá trình thực hiện các
em cần đánh giá phương pháp mà mình đang thực hiện đã phù hợp hay chưa để
từ đó bổ sung, hoàn thiện kỹ năng học và tự học của mình.
- Rèn luyện tính tự giác và tính kỷ luật: Quá trình học tập chỉ đạt kết
quả cao khi các em tự giác thực hiện nhiệm vụ của mình. Đừng để bố mẹ, thầy
cô phải nhắc nhở, yêu cầu hoặc khi bị nhắc nhở, phê bình rồi mới thực hiện.
Cũng không nên vừa học vừa làm việc riêng, bởi vì như thế sẽ không tập trung
toàn bộ tâm trí vào việc học được. Điều đó vừa làm cho việc học không mang lại
hiệu quả cao mà còn làm cho các em không có ý thức kỷ luật trong việc học và
trong cuộc sống.

7


Kỹ năng tự học của học sinh lớp 10 trường THPT Nguyễn Quán Nho.

Một buổi tham quan học tập tại trường Đại học Công nghiệpThành phố Hồ Chí
(cơ sở tại Thanh Hóa) thể hiện kỹ năng xác định mục tiêu học tập của học sinh
trường THPT Nguyễn Quán Nho.
2.3.2. Giáo dục kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống.
Con người ai cũng sống và làm việc trong những cộng đồng nhất định. Vì
thế cho nên mỗi người cần rèn luyện cho mình kỹ năng thích ứng và hòa nhập
với cộng đồng. Thông qua giảng dạy bài 13 “Công dân với cộng đồng” –
GDCD 10 – tôi đã tích hợp giáo dục cho học sinh kỹ năng thích ứng và hòa nhập
với cuộc sống. Không phải ai cũng dễ dàng thích nghi với môi trường mới, cuộc
sống mới. Thậm chí có những người dù đã học tập, công tác khá lâu trong cộng

đồng vẫn khó hòa nhập được với những người xung quanh. Vì vậy, ngay từ khi
8


còn ngồi trên ghế nhà trường, các em học sinh cần rèn luyện cho mình kỹ năng
thích ứng và hòa nhập với cuộc sống, trước hết là để thích ứng, hòa nhập với lớp
học, trường học, sau đó là dễ dàng thích ứng, hòa nhập với môi trường sống sau
này. Các em cần rèn luyện kỹ năng thích ứng và hòa nhập với cuộc sống theo
các bước sau đây:
- Xây dựng kỹ năng lắng nghe tích cực:
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng thích ứng và hòa
nhập với cuộc sống. Người biết lắng nghe tích cực là người biết lắng nghe ý kiến
của người khác, biết cho ý kiến phản hồi cùng với sự kết hợp những dấu hiệu
ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ…) để cho người nói và mọi
người xung quanh biết được mình thực sự chú ý đến vấn đề mà người nói đang
trình bày. Trong cuộc sống cộng đồng, để có thể thích ứng và hòa nhập thì mỗi
con người trước hết cần xây dựng cho mình kỹ năng lắng nghe tích cực. Từ đó
có thể giao tiếp với cộng đồng một cách có hiệu quả nhất.
- Xây dựng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra quyết định:
“Trong cuộc sống hàng ngày, con người luôn phải đối mặt với những tình
huống, những vấn đề cần giải quyết buộc chúng ta phải lựa chọn đưa ra quyết
định hành động” [1]. Giáo dục của Việt Nam ta còn ảnh hưởng nhiều của
phương pháp giáo dục truyền thống, người học thường thụ động, chờ đợi sự
giúp đỡ của người khác nên dẫn đến trong cuộc sống thường hay thiếu tự tin,
thiếu quyết đoán khi các trường hợp khó khăn xảy ra. Vì thế, để đạt hiệu quả cao
trong học tập, các em học sinh cần vận dụng kỹ năng giải quyết vấn đề và ra
quyết định trong các hoạt động học tập của mình.

9



Một buổi lao động bảo vệ môi trường, cảnh quan trường học của học sinh lớp
10A5 trường THPT Nguyễn Quán Nho thể hiện kỹ năng thích ứng và hòa nhập
với cuộc sống.
2.3.3. Giáo dục kỹ năng xác định giá trị của bản thân.
Mỗi người đều có những điểm mạnh, đểm yếu riêng. Vì thế trong cuộc
sống con người cần tự nhận thức đúng về bản thân. Từ đó xác định được giá trị
của mình để lựa chọn môi trường sống, cách xử sự trong giao tiếp cho phù hợp
giúp phát huy được các giá trị tốt đẹp của bản thân mình.
Giá trị của bản thân hay giá trị của con người là những điều quan trọng,
có ý nghĩa định hướng cho mọi hoạt động, suy nghĩ trong cuộc sống của họ. Các
giá trị cơ bản của bản thân như: lương tâm, danh dự, nhân phẩm, hạnh phúc, tình
yêu… là những nội dung các bài học của phần “Công dân với đạo đức” trong
bộ môn Giáo dục công dân lớp 10. Thông qua giảng dạy kiến thức các bài đó,
tôi đã lồng ghép giáo dục kỹ năng sống xác định giá trị bản thân cho các em học
sinh. Dưới đây là một số phương pháp rèn luyện mà tôi đã hướng dẫn cho các
em:
- Tự nhận thức về bản thân:
Tự nhận thức về bản thân là một kỹ năng sống rất cơ bản của con người.
Có hiểu đúng về mình, con người mới có thể có những quyết định, những sự lựa
chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân; mới giao tiếp, ứng xử phù
hợp với người khác. Đánh giá quá cao hoặc quá thấp về bản thân đều có thể dẫn
con người đến những sai lầm, thất bại trong cuộc sống. Tự nhận thức đúng về
bản thân không phải là điều dễ dàng, mà cần phải qua rèn luyện [7].
Giá trị của bản thân là do chính mình xác định chứ không phải do người
khác đánh giá. Vì thế các em cần tự tin, mạnh dạn tự nhận thức đúng về bản thân
mình, từ đó xác định được niềm tin, suy nghĩ của bản thân để biến thành thái độ
trong cuộc sống.

10



Màn “Chào hỏi” của Chi đoàn 12C4 trong Hội thi “Khi tôi 18” của trường
THPT Nguyễn Quán Nho thể hiện kỹ năng tự nhận thức về bản thân.
- Xây dựng ý thức thành thật với chính bản thân mình:
Để có thể xác định được giá trị của bản thân thì ý thức thành thật với
chính bản thân mình là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Nếu không thành thật
với bản thân mình thì không bao giờ các em có thể xác định được giá trị của bản
thân. Ở lứa tuổi THPT các em đang thích tìm tòi, khám phá thế giới xung quanh,
vậy thì hãy bắt đầu trước hết ở việc khám phá bản thân mình một cách thành
thật. Có những điểm các em hài lòng, có những điểm các em chưa hài lòng
nhưng đừng vội mặc cảm, tự ti. Điều quan trọng là các em học tập, rèn luyện
như thế nào để khắc phục những điều mình chưa hài lòng ở bản thân.
- Tự hoàn thiện bản thân:
Mỗi người đều có những điểm mạnh và hạn chế riêng, chẳng có ai hoàn
thiện, hoàn mĩ. Mặt khác, xã hội không ngừng phát triển, luôn đề ra những yêu
cầu mới, cao hơn đối với mỗi thành viên. Vì vậy, ai cũng cần tự hoàn thiện bản
thân mình để phát triển và đáp ứng được những đòi hỏi của xã hội. Người không
biết tự hoàn thiện bản thân sẽ dần trở nên lạc hậu và tự đào thải mình [7].
Ngoài việc xác định giá trị của bản thân các em cũng cần xây dựng giá trị
của chính bản thân mình. Cần phải không ngừng rèn luyện để các giá trị đó luôn
tồn tại và phát triển ở các môi trường khác nhau, các giai đoạn phát triển khác
nhau của bản thân.
Dưới đây tôi xin trình bày một giáo án minh họa cho việc tích hợp giáo
dục kỹ năng sống xác định giá trị của bản thân thông qua việc tự nhận thức về
bản thân và tự hoàn thiện bản thân của học sinh trong bài 16 “Tự hoàn thiện
bản thân” – GDCD 10.
Ngày soạn: 25/3/2018
Tiết theo PPCT: 31
Tuần dự kiến thực hiện: 33

BÀI 16: TỰ HOÀN THIỆN BẢN THÂN
(2 tiết)
I- Mục tiêu bài học: Học sinh cần đạt được:
11


* Về kiến thức:
- Hiểu thế nào là tự hoàn thiện bản thân;
- Hiểu sự cần thiết phải tự hoàn thiện bản thân theo các giá trị đạo đức xã
hội.
* Về kỹ năng:
- Biết tự nhận thức bản thân trên cơ sở đối chiếu với các yêu cầu đạo đức
xã hội;
- Biết đặt mục tiêu phấn đấu, rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân theo các
giá trị đạo đức xã hội và có quyết tâm vượt khó khăn để thực hiện mục tiêu đã
đề ra.
* Về thái độ:
- Coi trọng việc tu dưỡng và tự hoàn thiện bản thân
- Tự trọng, tự tin vào khả năng phát triển của bản thân; đồng thời biết tôn
trọng, thừa nhận và học hỏi những điểm tốt của người khác.
II- Các năng lực hướng tới phát triển ở học sinh.
- Năng lực tự học, năng lực xác định giá trị của bản thân, năng lực đặt
mục tiêu hoàn thiện bản thân, năng lực lập kế hoạch hoàn thiện bản thân, năng
lực từ chối trong tình huống có nguy cơ ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh
của bản thân...
III -Phương pháp và kĩ thuật dạy học dạy học tích cực sử dụng trong bài.
- Thảo luận nhóm, thảo luận lớp.
- Xử lý tình huống.
- Đọc hợp tác.
IV- Phương tiện dạy học.

- SGK, SGV, tài liệu Câu hỏi và BT GDCD 10; phiếu học tập.
V- Tổ chức dạy học

Hoạt động của giáo viên và học sinh
1. Khởi động
*Mục tiêu:
+Kích thích học sinh tự tìm hiểu về tự hoàn thiện
bản thân.
+Rèn luyện năng lực học và tự học, năng lực tự
hoàn thiện bản thân
* Cách tiến hành:
- GV cho hs xem hình ảnh sau:

Nội dung bài học

12


GV: Đây là 1 tấm gương tiêu biểu của tỉnh ta về
tự hoàn thiện bản thân. Đó là Lê Hữu Hiếu là học
sinh khuyết tật có hoàn cảnh gia đình rất nghèo
đạt 30/30 điểm trong kì thi tốt nghiệp THPT Quốc
gia 2017, thủ khoa trường ĐH Y thành phố HCM.
GV đặt câu hỏi: Để đạt được kết quả đó, bạn học
sinh trên đã phải rèn luyện như thế nào?
- Lớp thảo luận, trả lời và bổ sung:
GV: Con người ai cũng muốn sống có ích cho bản
thân, gia đình và xã hội. Tuy nhiên, để làm được
như vậy, mỗi người cần phải tự hoàn thiện bản
thân.

Muốn tự hoàn thiện bản thân thì phải tự nhận
thức đúng về bản thân.
Vậy thế nào là tự nhận thức về bản thân? Tự
hoàn thiện bản thân? Tự hoàn thiện bản thân như
thế nào? Bài học hôm nay sẽ làm rõ những vấn đề
trên.
2. Hoạt động hình thành kiến thức.
* Hoạt động 1: Thảo luận tìm hiểu tự nhận thức
về bản thân.
* Mục tiêu:
+ Hiểu được thế nào là tự nhận thức về bản thân
+ Rèn luyện năng lực tự nhận thức, năng lực xác
định giá trị của bản thân.
* Cách tiến hành:

1- Tự nhận thức về bản thân
- Tự nhận thức về bản thân là
biết nhìn nhận, đánh giá về
khả năng, hành vi, việc làm,
13


+ GV yêu cầu học sinh xem lại các phiếu tự nhận
thức về bản thân mà các em đã điền ở nhà.
+ Cho học sinh chia sẻ kết quả tự nhận thức về
mình với các bạn theo bàn.
Câu hỏi:
1. Những điểm nào em thấy hài lòng và chưa hài
lòng về bản thân?
2. Em thấy mình có những điểm nào giống, những

điểm nào khác với các bạn trong nhóm?
3. Để phát triển tốt hơn mỗi người cần phải làm
gì?
4. Thế nào là tự nhận thức về bản thân? Tự nhận
thức về bản thân có ý nghĩa gì?
+ Học sinh trình bày quan điểm cá nhân.
+ Cả lớp trao đổi.
-GV Kết luận:
* Hoạt động 2: Đọc hợp tác SGK và tìm hiểu về
tự hoàn thiện bản thân.
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu được thế nào là tự hoàn thiện bản
thân?
+ Rèn luyện năng lực từ chối tình huống có nguy
cơ ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của bản
thân, năng lực tự hoàn thiện bản thân.
* Cách tiến hành:
- GV yêu cầu HS nghiên cứu SGK, liên hệ thực
tiễn, nêu câu hỏi đàm thoại.
1.Thế nào là tự hoàn thiện bản thân? Cho ví dụ?
+ 2 đến 3 học sinh phát biểu.
+ Lớp bổ sung.
- GV nhận xét và kết luận:
*Hoạt động 3: Vấn đáp tìm hiểu vì sao phải tự
hoàn thiện bản thân?
* Mục tiêu:
+ HS hiểu sự cần thiết phải hoàn thiện bản thân.
+Rèn luyện kỹ năng đặt mục tiêu hoàn thiện bản
thân, kỹ năng xác định giá trị của bản thân.
* Cách tiến hành:

+ gọi 2 đến 3 học sinh trả lời
+ Lớp nhận xét.
- GV nhận xét và kết luận.

những điểm mạnh, điểm yếu...
của bản thân.
- Tự nhận thức về bản thân
giúp người ta hiểu đúng về
mình, từ đó có các quyết định,
hành động, cách xử sự phù
hợp trong các mối quan hệ.
đạt được mục đích trong cuộc
sống.
2- Tự hoàn thiện bản thân
a) Thế nào là tự hoàn thiện
bản thân.
- Tự hoàn thiện bản thân là
vượt lên mọi khó khăn, trở
ngại, không ngừng lao động,
học tập, tu dưỡng, rèn luyện,
phát huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, học hỏi
những điểm hay, điểm tốt của
người khác để bản thân ngày
một tốt hơn, tiến bộ hơn.

b) Vì sao phải hoàn thiện
bản thân.
- Xã hội ngày một phát triển,
do vậy mỗi cá nhân phải tự

hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu
của xã hội.
- Tự hoàn thiện bản thân là
một phẩm chất quan trọng của
thanh thiếu niên, giúp cho cá
nhân, gia đình và cộng đồng
xã hội ngày càng tiến bộ hơn.
3- Tự hoàn thiện bản thân
như thế nào ?
- Mỗi người đều có quyền
phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện
để tự hoàn thiện bản thân theo
các yêu cầu đạo đức xã hội.
- Có quyền được nhận sự hỗ
* Hoạt động 4: Động não tìm hiểu làm thế nào để trợ, giúp đỡ của gia đình, bản
14


tự hoàn thiện bản thân? Học sinh phải làm gì để tự
hoàn thiện bản thân?
* Mục tiêu:
+ Học sinh hiểu: không ai là hoàn hảo cả, tự hoàn
thiện bản thân giúp cá nhân, gia đình, xã hội phát
triển tốt hơn.
+ Rèn luyện năng lực nhận thức, năng lực lập kế
hoạch hoàn thiện bản thân.
* Cách tiến hành:
+ GV nêu câu hỏi động não: Theo em làm thế nào
để tự hoàn thiện bản thân? Học sinh phải làm gì
để tự hoàn thiện bản thân?

+ 2 đến 3 học sinh trả lời.
+ Lớp nhận xét và bổ sung.
- GV kết luận:

bè, xã hội…để thực hiện mục
tiêu tự hoàn thiện bản thân.
* HS cần:
- Tự nhận thức đúng về bản
thân những điểm tốt, điểm cưa
tốt so với chuẩn mực đạo đức
xã hội.
- Có kế hoạch phấn đấu và rèn
luyện cụ thể theo từng mốc
thời gian.
- Xác định rõ biện pháp cần
thực hiện.
- Xác định rõ những điểm
thuận lợi, những điểm khó
khăn có thể xảy ra.
- Biết tìm sự giúp đỡ ở những
người tin cậy.

3.Hoạt động luyện tập.
*Mục tiêu:
- Giúp học sinh củng cố những gì đã biết về tự
nhận thức bản thân, tự hoàn thiện bản thân và tự
hoàn thiện bản thân như thế nào?
- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê
phán, tự chịu trách nhiệm, đánh giá và điều chỉnh
hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp

luật.
* Cách tiến hành:
- Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân
bài tập 1 và 4 SGK trang 114, 115.
- Học sinh làm bài tập.
- Gọi 2 đến 4 học sinh trả lời.
- Lớp bổ sung.
* Giáo viên chính xác hóa đáp án:
Bài tập 1:
-Tự hoàn thiện bản thân là vượt lên mọi khó khăn,
trở ngại, không ngừng lao động, học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, phát huy ưu điểm, khắc phục,
sửa chữa khuyết điểm, học hỏi những điểm hay,
15


điểm tốt của người khác để bản thân ngày một tốt
hơn, tiến bộ hơn.
- Phải tự hoàn thiện bản thân vì: mỗi người đều có
điểm mạnh và hạn chế riêng, không có ai hoàn
thiện cả. Mặt khác, xã hội không ngừng phát triển,
luôn đề ra những yêu cầu mới, cao hơn. Vì vậy ai
cũng cần hoàn thiện để phát triển, đáp ứng được
những đòi hỏi của xã hội.
Bài tập 3:
Sản phẩm của học sinh.
4. Hoạt động vận dụng.
* Mục tiêu:
- Tạo cơ hội cho HS vận dụng kiến thức và kỹ năng đã học để vận dụng vào
thực tế cuộc sống.

- Rèn luyện các năng lực tự nhận thức, tư duy phê phán, tự chịu trách nhiệm,
đánh giá và điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức và pháp luật.
* Cách tiến hành:
1. Giáo viên nêu yêu cầu:
a. Tự liên hệ:
- Hằng ngày thực hiện và kiểm tra những tiêu chí đã làm được và chưa làm được
theo kế hoạch đã lập ra.
- Hãy nêu cách khắc phục những hành vi, việc làm chưa tốt.
b. Nhận diện xung quanh: Hãy nêu nhận xét của em về việc thực hiện bản kế
hoạch phấn đấu, rèn luyện để tự hoàn thiện bản thân của các bạn trong lớp em và
một số người khác mà em biết.
c. Giáo viên định hướng học sinh:
- Học sinh tôn trọng và thực hiện đúng bản kế hoạch của mình.
- Học sinh làm tiếp các bài tập trong SGK trang 114,115.
- Học sinh chủ động thực hiện các yêu cầu trên.
5. Hoạt động mở rộng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm những tấm gương hoặc câu chuyện có nội
dung về rèn luyện kỹ năng sống, về tự rèn luyện bản thân và xác định giá trị của
bản thân.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Về trường THPT Nguyễn Quán Nho nhận công tác giảng dạy bộ môn
Giáo dục công dân từ năm 2007, nhận được sự tín nhiệm của nhà trường năm
nào tôi cũng được phân công chủ nhiệm. Trong quá trình công tác tôi luôn mạnh
dạn tích hợp vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh các lớp tôi giảng dạy và
học sinh lớp tôi chủ nhiệm. Tôi luôn hướng dẫn các em vận dụng những kiến
thức tiếp thu được ở nhà trường vào trong thực tiễn cuộc sống; tôi luôn gần gũi,
tâm sự, giúp đỡ các em giải quyết những khó khăn, vướng mắc về những vấn đề
trong học tập và trong thực tiễn.
16



Sau hơn 10 năm công tác, từ lúc mới ra trường còn manh nha, lúng túng
đi tìm giải pháp, phương pháp phù hợp. Dần dần việc giáo dục kỹ năng sống đã
trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi bài dạy, trong mỗi hoạt động giáo
dục của tôi đối với học sinh. Và tín hiệu rất đáng mừng là trong thời gian qua
tình trạng học sinh thiếu kỹ năng sống đã giảm đáng kể. Có những em khi mới
bước chân vào lớp 10 còn thường xuyên vi phạm nội quy của lớp, của trường
nay đã tiến bộ trở thành học sinh tiên tiến có ý thức phẩm chất đạo đức trong
sáng, lành mạnh.

Hai em Vũ Đình Phúc (lớp 10A5) và Ngô Văn Tùng (lớp 10A6) là hai tấm
gương tiêu biểu cho việc rèn luyện kỹ năng sống của học sinh trường
THPT Nguyễn Quán Nho.
Dưới đây là những con số chứng minh cho hiệu quả của sáng kiến kinh
nghiệm mà tôi đã áp dụng:
Bảng tổng hợp về hạnh kiểm của học sinh các lớp 10 mà tôi giảng dạy năm
học 2017 - 2018
(Đơn vị %)
Hạnh kiểm học kỳ I
Lớp
10A2
10A4
10A5
10A6

Tốt

Khá

Trung bình


Yếu

Tốt

86
90
62
65

5
4
25
25

6
2
10
8

3
2
3
2

88
95
68
75


Hạnh kiểm học kỳ II
Kh
Trung bình Yếu
á
7
5
0
2
3
0
23
9
0
19
6
0

3. Kết luận, kiến nghị.
17


3.1. Kết luận.
Trong thời đại ngày nay, con người đứng trước nhiều vấn đề phải giải
quyết, trong các vấn đề đó – dù lớn hay nhỏ thì cũng cần phải có kỹ năng thích
hợp. Trên thực tế, có nhiều em học sinh học rất giỏi nhưng khi bước vào cuộc
sống lại khó có khả năng thích nghi, hòa nhập với cuộc sống cộng đồng.
Đã đến lúc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh cần phải được quan tâm
nhiều hơn, thực hiện thường xuyên hơn. Mỗi giáo viên cần phải xây dựng được
mục tiêu xuyên suốt trong quá trình giảng dạy, đó là cung cấp kiến thức, rèn
luyện kỹ năng, hình thành thái độ để đáp ứng mục tiêu giáo dục là: đào tạo con

người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình
thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với gia đình và xã hội.
Gia đình cần quan tâm hơn đến vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho các em.
Gia đình và xã hội cần phải kết hợp chặt chẽ với nhà trường trong hoạt động
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh để đạt được hiệu quả tốt nhất.
3.2.2. Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Giáo dục kỹ năng sống phải được bố trí thành một môn học riêng hoặc
hoạt động riêng trong hệ thống giáo dục. Bởi vì, tích hợp giáo dục kỹ năng sống
trong các môn học và hoạt động giáo dục khác ít nhiều vẫn còn hạn chế không
phát huy được hết tác dụng của việc rèn luyện kỹ năng cho các em.
3.2.3. Đối với các trường Trung học phổ thông.
Đầu tư về cơ sở, trang thiết bị dạy học hiệu quả để giáo viên có thể giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh đạt kết quả tốt nhất.
Xác nhận của Hiệu trưởng

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Lê Thị Phượng

18




×