Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

SKKN Cảm hóa học sinh chậm tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.13 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC......................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................2
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu và áp dụng...........................................3
4. Phương pháp nghiên cứu:........................................................3
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:......................................3
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.................................3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. 4
3. Giải pháp để giải quyết vấn đề...............................................5
3.1.1 Nhận diện học sinh chậm tiến:...........................................5
3.1.2 Tìm hiểu về biểu hiện, cá tính học sinh chậm tiến.............5
3.1.3 Tìm hiểu hoàn cảnh............................................................6
3.1.4 Hướng phối hợp xử lí, lưu trữ và khai thác thông tin của
học sinh chậm tiến. Lựa chọn phương pháp thích hợp để giáo
dục, cảm hóa các em..................................................................6
3.2. Một số trường hợp cụ thể.....................................................6
1. Kết luận:................................................................................12
2. Kiến nghị...............................................................................13

1


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lứa tuổi học sinh phổ thông trung học đang đang ở ở giai đoạn phát triển những
hoài bão, ước mơ và tích lũy tri thức, kĩ năng để bước vào đời. Thế nhưng bên
cạnh các em học sinh có ý thức rèn luyện đạo đức và học tập thì còn nhiều em
có những hành vi không mong đợi hoặc những học sinh vi phạm nhiều lần nội
quy, vi phạm đạo đức, lười học tập, chậm tiến bộ… Nếu những lệch lạc của các


em mà không được uốn nắn kịp thời thì trước mắt là ảnh hưởng đến tập thể lớp,
ảnh hưởng đến sự rèn luyện của các em khác và lâu dài là ảnh hưởng nặng nề
đến tương lai của bản thân các em, khi ra cuộc đời rất dễ phạm tội, sẽ trở thành
gánh nặng xã hội và có thể gây nên bất hạnh cho những người khác vì hành vi
không kiểm soát của các em.
Ngày nay xã hội triển nhiều mặt, cơ hội việc làm nhiều hơn, thu nhập cao hơn,
thông tin lan truyền nhanh chóng dưới nhiều hình thức…đã ảnh hưởng trực tiếp
đến nhiều học sinh. Các em tiếp cận dễ dàng và nhanh chóng qua mạng Internet
nhưng cũng đa dạng hơn, khó kiểm soát. Nhiều em thì chưa đủ chín chắn, bản
lĩnh để loại bỏ thông tin xấu và lựa chọn thông tin tốt.
Về vấn đề cơ hội việc làm nhiều hơn thì bố mẹ các em có điều kiện tiếp cận với
công việc nhiều hơn, đồng nghĩa với việc sẽ có ít thời gian giành cho con cái
Nhờ có việc làm mà thu nhập của các gia đình cũng cao hơn, các em được sống
đầy đủ hơn nên nhiều em có tính ỷ lại, thích hưởng thụ và không có ý chí phấn
đấu, nên bị cuốn vào những tệ nạn của xã hội, lười học, ham chơi, suy giảm về
đạo đức và trở thành học sinh chậm tiến.
Muốn giáo dục học sinh chậm tiến thì giáo viên chủ nhiệm phải có sự tâm
huyết, đầu tư suy nghĩ, có kỹ năng, có kế hoạch nghiêm túc và kiên trì thực hiện
trong nhiều năm. Đồng thời phải có sự linh hoạt cần thiết vì mỗi học sinh có
hoàn cảnh sống, có suy nghĩ khác nhau rất nhiều.
Tôi nghĩ những gì xuất phát từ trái tim sẽ đến được với trái tim nên trong quá
trình giáo dục, song song với việc phát triến năng lực học sinh tôi luôn quan tâm
đến mục tiêu "Cảm hóa học sinh chậm tiến" làm tiêu chí và định hướng trong
công tác giáo dục của mình để các em cảm thấy trường học thân thiện và từ học
sinh chậm tiến trở thành học sinh tích cực.

2. Mục đích nghiên cứu.
Tôi cho rằng đối với mỗi con người thì chuẩn mực đạo đức chính là kim chỉ
nam cho mọi hành động. Vậy nên đối với những học sinh chậm tiến thì giáo dục
đạo đức càng quan trọng nhằm tìm hiểu, lắng nghe để uốn nắn, định hướng đúng

suy nghĩ của các em, để giúp các em từ bỏ những thói quen xấu và hình thành
thói quen tốt. Khi nào suy nghĩ của các em thay đổi theo chiều hướng tốt thì các
em sẽ tự điều chỉnh hành vi bản thân. "Cảm hóa học sinh chậm tiến" chính là
để các em nhận ra thông điệp về tình người, tính nhân văn, các em đang được
chia sẻ, tôn trọng khơi dậy bản năng tốt đẹp vốn có của các em.
2


3. Đối tượng nghiên cứu và áp dụng
Đối tượng nghiên cứu và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm "Cảm hóa học sinh
chậm tiến" là những học sinh các lớp tôi đã chủ nhiệm:
- Lớp C2 khóa học 2006-2009
- Lớp C7 khóa học 2009-2012
- Lớp C7 khóa học 2012-2015.
- Lớp C1 năm học 2015-2018
Thời gian nghiên cứu
- Bắt đầu vào 20/8/2007
- Kết thúc 15/5/2018
Đề tài nghiên cứu về:
- Đặc điểm của học sinh chậm tiến.
- Phương pháp "Cảm hóa học sinh chậm tiến"
-Vai trò của việc "Cảm hóa học sinh chậm tiến" trong quá trình phát triến
nhân cách học sinh.

4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết về học sinh chậm tiến và
phương pháp " Cảm hóa học sinh chậm tiến"
- Phương pháp khảo sát thực tế về tình trạng học sinh chậm tiến, các biện pháp
giáo dục học sinh chậm tiến đang được áp dụng trong nhà trường, điều tra hoàn
cảnh học sinh, nắm bắt tâm tư tình cảm của các em.

- Phương pháp xử lí số liệu: Căn cứ vào số liệu thu thập được để đánh giá, đưa
ra phương pháp phù hợp cho từng đối tượng học sinh.
- Phương pháp so sánh: trong quá trinh áp dụng phải luôn so sánh sự tiến bộ của
các em để điều chỉnh phù hợp.

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lương tâm nghề nghiệp
Cuộc sống ngày càng phát triển, với sự tác động nhiều chiều, mà những tiêu
cực xã hội chi phối mạnh lối sống đạo đức của học sinh. Gia đình ngày càng
giao phó con em cho nhà trường.
Công việc giáo dục học sinh trong nhà trường THPT do nhiều bộ phận đảm
trách, như giáo viên bộ môn, Đoàn thanh niên, Hội cha mẹ học sinh.....Nhưng
thực tế là "trăm dâu đổ đầu" chủ nhiệm. Những công việc của các tổ chức khác
liên quan đến học sinh hầu hết đều yêu cầu giáo viên chủ nhiệm có mặt giải
quyết...
Bản thân là giáo viên chủ nhiệm, ai cũng muốn được chủ nhiệm những học
sinh có ý thức học tập tốt, có ý thức nề nếp tốt làm cho hoạt động chủ nhiệm trở
nên đỡ vất vả hơn, đồng thời có nhiều cơ hội được nhận những thành tích trong
3


ngành như thành tích lớp tiên tiến, có học sinh học giỏi chuyển hoá được sản
phẩm dạy học của giáo viên thành các giải học sinh giỏi, mang lại thành tích cho
bản thân các em, cho nhà trường và cho cả giáo viên chủ nhiệm cũng là giáo
viên dạy bộ môn lớp đó.
Ngược lại nếu chủ nhiệm lớp có học sinh ‘‘chậm tiến’’ thì giữ được các em ở
lại trường, níu được tay các em ở trên bờ vực thẳm của hư hỏng, ngăn được
những việc xấu có thể xảy ra, thay đổi cuộc đời một con người từ hư nhiều đến
hư ít, từ có nguy cơ hư hỏng đến chỗ các em trở thành những công dân bình

thường đã là rất khó khăn nên giáo viên chủ nhiệm phải có lương tâm nghề
nghiệp, tinh thần trách nhiệm cao.
Tâm lí lứa tuổi học sinh THPT
Học sinh THPT là lứa tuổi có đặc điểm tâm lý rất phức tạp, có biến động rất
lớn cả về thể chất lẫn tâm hồn, tình cảm, ý chí, trí tuệ cũng như nhân cách. Các
em có khuynh hướng cơ bản là thiên hướng bắt chước, dễ cảm xúc, thiếu kinh
nghiệm sống, chưa biết đánh giá đúng một số hiện tượng. Lứa tuổi này ham
sống độc lập, thích biểu dương tính can đảm, muốn đặt mình vào vị trí những
nhân vật trong sách báo, phim ảnh.
Về thể chất cũng có sự thay đổi lớn như dễ xúc động, cáu gắt hay phản ứng gay
gắt hoặc quá mặc cảm tự ti. Dưới vẻ mặt lạnh lùng, vô cảm là sự hụt hẫng tình
thương, là sự lo lắng, bất an và sợ hãi.
Nếu giáo viên chủ nhiệm nắm bắt kịp thời phối hợp tốt với gia đình, giáo viên
bộ môn và các tổ chức xã hội để có hành động phù hợp để khơi dậy lòng trắc ẩn,
mong muốn tiến bộ của các em thì đa phần các em sẽ nhận ra sai lầm của mình
và tự điều chỉnh hành vi phù hợp dần dần.
Cơ sở pháp lí của nhà trường và pháp luật.
Khó khăn nhiều nhưng cũng có những thuận lợi như :
Trường THPT Nguyễn Hoàng năm nay đã có nhiều hoạt động ngoại khóa bổ ích
với học sinh cả trường nhằm giáo dục kỹ năng sống, tạo hứng thú đến trường
cho học sinh.
Ban giám hiệu nhà trường giúp đỡ giải quyết những vi phạm lớn của học sinh.
Những học sinh vi phạm nghiêm trọng sẽ được hội đồng kỷ luật đưa ra xem xét
và quyết định hình thức giáo dục ở phù hợp.

2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Huyện Hà Trung có ba trường THPT, trong đó trường THPT Nguyễn Hoàng
được thành lập sau cùng với tên gọi ban đầu là trường Bán công số I Hà Trung.
Đối tượng tuyển sinh lúc đầu của nhà trường là những thí sinh không đậu vào 2
trường công lập trong huyện là trường THPT Hà Trung và THPT Hoàng Lệ Kha.

Hiện nay trường đã được chuyển đổi thành loại hình trường công lập bình đẳng
như các trường còn lại. Tuy nhiên nhận thức của nhiều người dân vẫn chưa thay
đổi và do mới được thành lập 18 năm, sau các trường khác đến cả nhiều chục
4


năm, nên bề dày lịch sử và bề dày thành tích chưa nhiều. Đồng thời trường
THPT Nguyễn Hoàng lại nằm ngay cạnh trường THPT Hà Trung, có lịch sử
hơn năm mươi năm, nên tâm lí của học sinh và phụ huynh có con học tốt và có
đạo đức tốt sẽ đăng kí vào trường THPT Hà Trung. Những học sinh có lực học
trung bình và yếu mới nghĩ đến việc đăng kí tuyển sinh vào trường THPT
Nguyễn Hoàng, vì lo lắng không thi đậu vào trường THPT Hà Trung.
Dù không muốn tôi vẫn phải thừa nhận một mối liên quan là những học sinh có
học lực trung bình và yếu thì tỉ lệ ‘‘chậm tiến’’ cả về học tập và nhận thức càng
cao.
Nhiều giáo viên khi tiếp xúc với học sinh chậm tiến thiên về hành xử theo
nguyên tắc cứng nhắc, chưa linh hoạt, chưa quan tâm đến cảm xúc của các em
dẫn đến các em có biểu hiện cực đoan như chống đối hoặc các em không phục
nên ngày càng trở nên lì hơn. Chính vì vậy "Cảm hóa học sinh chậm tiến" trở
nên vô cùng cần thiết

3. Giải pháp để giải quyết vấn đề.
3.1.1 Nhận diện học sinh chậm tiến:
Những học sinh có thái độ hành vi không phù hợp với giá trị, nội quy, truyền
thống của tập thể, không thực hiện tròn bổn phận và trách nhiệm của người học
sinh, hoặc thiếu văn hóa, đạo đức trong quan hệ ứng xử với mọi người, đồng
thời không có động cơ học nên kết quả học tập yếu, kém…được lặp lại thường
xuyên và trở thành hệ thống, được coi là chậm tiến.
3.1.2 Tìm hiểu về biểu hiện, cá tính học sinh chậm tiến
- Học sinh không có mục đích học tập rõ ràng. Thậm chí có học sinh chậm tiến

đi học chỉ vì bố mẹ bắt buộc, các em chỉ đi học cho có mặt chứ không nhận thức
được học để làm gì, có tác dụng như thế nào đối với cuộc sống của mình. Lười
học nên kết quả học tập thất thường, sút kém, luôn xếp “đội sổ”, dẫn đến chán
học. Việc đi học đối với các em chỉ là đối phó, chỉ để vừa lòng cha mẹ, thầy cô,
để được gặp bạn, để không phải làm việc nhà, để có cơ hội ra khỏi nhà đi chơi
những thú chơi không lành mạnh…
- Một số em có niềm tin sai lệch về giá trị con người và cuộc sống.
Tính cách ngang bướng, có có em cố tình gây cười làm ồn trong lớp. Cũng có
học sinh đến lớp để vỗ ngực dương dương tự đắc “nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là…
ta đây”.
Ý thức tổ chức kỉ luật kém như : càn quấy, thích chơi trội, hay lí sự cùn, tỏ thái
độ không hợp tác trước sự nhắc nhở, giáo dục của thầy cô. Những học sinh này
thích ăn chơi phá phách hơn là học hành tử tế.
Có học sinh chậm tiến còn là những thế lực “đen” đe dọa khống chế những
nhân tố tích cực dám đấu tranh, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ điều tốt ở trong lớp, trong
trường.
5


3.1.3 Tìm hiểu hoàn cảnh
Khi tìm hiểu về hoàn cảnh sống của các em thì mỗi em một cuộc đời, một hoàn
cảnh.
Tổng kết lại tôi thấy hoàn cảnh các em thường là :
Một số em có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ các em gửi các em cho ông
bà, họ hàng để đi làm thuê xa quê hương kiếm sống. Các em ở nhà không có sự
quản lí chặt chẽ.
Một số phụ huynh sống cùng con nhưng nhận thức hạn chế nên nuông chiều
con quá đà, không quản lí con, mải làm ăn để con xem các loại băng hình kích
động bạo lực…
Một số phụ huynh còn chưa thực sự gương mẫu, còn sa vào các tệ nạn xã hội

như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút, nói năng chưa chuẩn mực… Đôi lúc say rượu
còn đánh vợ, chửi con làm cho các con vừa không phục, không sợ bố mẹ, vừa
ngại với bạn bè.
Số học sinh đã tiến bộ ít, đã có ý thức cầu tiến nhưng do định kiến của một số
bạn bè, thầy cô, xã hội. Họ đã vô tình đối xử không công bằng, không ghi nhận
sự tiến bộ của học sinh đó, đẩy các em đến chán nản và lâm vào tình cảnh ‘‘ngựa
quen đường cũ ’’.
3.1.4 Hướng phối hợp xử lí, lưu trữ và khai thác thông tin của học sinh chậm
tiến. Lựa chọn phương pháp thích hợp để giáo dục, cảm hóa các em.
Mỗi học sinh sinh ra và lớn lên trong môi trường khác nhau, môi trường đó ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển nhân cách của các em đồng thời ý thức và bản lĩnh
của các em cũng khác nhau.
Lúc đầu khi quyết tâm giáo dục các em tôi nghĩ mình chỉ thay đổi cuộc đời các
em nhưng trong quá trình tìm hiểu về các em thì tôi còn bị thôi thúc bởi những
bóng dáng lầm lũi, những ánh mắt thất thần, bất lực của người thân các em
3.1.5 Đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh chậm tiến sau khi
được giáo dục:
Sau khi được giáo dục thì hầu hết các em học sinh chậm tiếnđã có những
chuyển biến tích cực trong nhận thức, hành động đã và đang hoàn thiện bản
thân, nhiều em không còn là học sinh chậm tiến. Các em nhận ra trách nhiệm
của mình, tìm ra được mục tiêu cần phấn đấu, cố gắng để không phụ lòng các
thầy cô.
3.2. Một số trường hợp cụ thể
Trong khuôn khổ sáng kiến tôi không thể nêu đầy đủ, chi tiết những việc đã
làm, những kinh nghiệm đã áp dụng đối với từng học sinh mà chỉ nêu điển hình
một số trường hợp, một số sự việc như sau:
3.2.1. Trường hợp Em Lê Ngọc Tú
( Là học sinh lớp C2 khóa 2006-2009)
6



a. Biểu hiện của em Tú :
Em Tú có biểu hiện thường hay bỏ học, bỏ tiết, ít nói. Đến lớp ghi bài không
đầy đủ, không làm bài tập, trong giờ học thường ngủ gật. Khi các thầy cô nhắc
nhở thì có thái độ thờ ơ. Không cãi lại cũng không trả lời. Thái độ của em lầm lì
và bất hợp tác.
b. Hoàn cảnh của em Tú :
Bố em Tú mất do bệnh ung thư từ khi Tú chỉ mới 4 tuổi. Mẹ em Tú là công
nhân làm đường, cứ phải đi theo những công trình, để Tú ở lại nhờ mọi người
trong khu tập thể trông. Để bù đắp cho sự thiếu thốn của người cha và sự bận
rộn của người mẹ nên mẹ Tú cưng chiều con. Lúc nhỏ Tú tỏ ra rất ngoan. Khi
lớn mẹ bận đi làm, lúc không phải đi học thì Tú đi chơi rồi em sa đà vào chơi và
nghiện game.
Đặc thù công việc của mẹ em phải đi xa nên không còn cách nào khác phải
chuyển trường cho em từ huyện Đông Sơn -Thanh hóa về huyện Hà Trung là
quê mẹ để nhờ bác chăm sóc và quản lí.
Những tưởng tách em ra khỏi nhóm bạn ham chơi và có người giám sát thì em
sẽ thay đổi hẳn, nhưng chỉ được một thời gian ngắn, trò chơi lại thôi thúc em và
em lại tìm đến các quán điện tử.
c. Biện pháp giáo dục
Nhiều lần em bỏ học đi chơi, khi không thấy em lên lớp thì tôi báo ngay cho
bác em để bác em đi tìm rồi đưa em trở lại trường học. Có một lần em bỏ đi đã
một ngày đêm, mẹ em phải nghỉ làm về quê tìm con. Chúng tôi tìm em ở nhiều
nơi, rồi cuối ngày thứ hai mẹ em tìm thấy em đang chơi trò chơi điện tử ở quán
trên địa bàn thị trấn Hà Trung. Trong suốt thời gian đó em cày game gần như
liên tục. Mẹ em đến đón em về nhưng em nhất quyết không đứng lên ra về, em
nói với mẹ ‘‘mẹ về trước đi rồi con về’’. Chị sợ khi rời bước đi thì con chị lại
trốn mất nên chị đứng ở của quán đợi, sau 3 tiếng em vẫn không ra về, bất lực
chị nhờ tôi ra quán gọi em về. Khi tôi ra đến nơi em cúi thấp xuống gầm bàn để
trốn. Tôi đưa em về nhà mình, nói chuyện và động viên em tôi giữ em lại nhưng

em nói sẽ về nhà cùng mẹ. Đã hơn 10 giờ đêm, hai mẹ con em ra về trên đường
đê dài hun hút và vắng vẻ, trời lại đang mưa . Tôi cứ nhìn dáng chị nhợt nhạt,
ướt sũng, lầm lũi dắt xe chở con về mà tôi thấy lòng mình quặn lại- người phụ
nữa đó đã bước đi chông chênh trong cuộc đời vì thiếu đi người chồng thì nay
càng trở nên cô quạnh, hoang mang khi vừa phải làm mẹ, vừa phải làm cha của
đứa con trai đang tuổi vị thành niên khó nói.
Sau nhiều lần nhỏ to, cuối cùng tôi viết cho em một lá thư tâm sự về cảm nhận
của tôi về mẹ em. Trong thư tôi đã nói với em về một người phụ nữ trẻ có nhan
sắc là mẹ em, ở vậy nuôi con vất vả, hi sinh hạnh phúc riêng tư của bản thân như
thế nào giữa cuộc đời nhiều cạm bẫy. Chắc em đọc cũng suy nghĩ nhiều nên dần
thay đổi.
7


Tôi nghĩ con đường em đi hình như đã có tia sáng le lói chứ không mịt mù
hoang mang và vô định như thế nữa.
d. Kết quả :
Đã 5 năm, học sinh Tú đã tốt nghiệp THPT, em đi học trung cấp nghề và giờ đã
trưởng thành. Nhưng bóng hình lầm lũi dắt xe quay trở về giữa đêm khuya vắng
vẻ của chị Liên- mẹ em Tú vào cái giờ mà những gia đình hạnh phúc đang quây
quần dưới mái nhà ấm cúng ngày hôm đó vẫn còn ám ảnh tôi như vừa xảy ra
ngày hôm qua thôi.
3. 2.2. Trường hợp Nguyễn Thanh Bình
( Là học sinh lớp C7 khóa 2009-2012)
a. Biểu hiện của em Bình :
Hàng ngày em Bình đến lớp khá hòa nhã với các bạn và thực hiện tương đối
đảm bảo các nội quy. Có một lần em Bình lấy trộm của bạn lớp trưởng.
b. Hoàn cảnh của em Bình :
Cả gia đình em Bình gồm năm người người chen chúc trong một ngôi nhà ngói
nhỏ. Bình là con đầu, Bình có một em gái thường xuyên bị động kinh nên phải

nghỉ học sớm ở nhà và một em trai còn nhỏ chừng 1 tuổi.
Bố em đi làm thợ xây lúc nông nhàn, còn mẹ ở nhà trông em nhỏ và để ý đến
em gái bị bệnh, làm ruộng.
Ở nhà em Bình luôn tỏ ra là một người con ngoan, hay gần gũi mẹ.
c. Biện pháp giáo dục :
Trong giờ sinh hoạt 15 phút đầu buổi học, em Ngọc - lớp trưởng vừa nói vừa
khóc về việc đã bị mất một phần tiền. Em cho rằng bị mất tiền trong khi để cặp
sách có tiền trên lớp, xuống sân Thể dục học môn Thể dục vì tất cả các tiết còn
lại em đều ở trong lớp, ngay khi về đến nhà em liền mang tiền ra kiểm thì thấy
thiếu. Tôi hoàn toàn tin tưởng về nhân cách của em Ngọc lớp trưởng nên tôi đã
loại trừ khả năng em lấy tiền rồi báo là mất. Đã qua một ngày nên việc tìm kiếm
là khá khó khăn.
Tôi bắt đầu rà soát các đối tượng nghi vấn. Em Bình chỉ ở trong lớp ít phút đầu
tiết thể dục để đi giầy. Có 2 học sinh khác ở lại lớp cả tiết với lí do các em trình
bày là mệt. Tôi gặp 2 em ở lại lớp để nói chuyện về việc mất tiền và các em
khăng khăng là không lấy. Đến khi trao đổi lần thứ ba các em nhận trả lại tiền
cho bạn lớp trưởng nhưng trước khi đi tra khỏi phòng ném lại một câu “ Em sẽ
đền vì tiền mất trong lúc em ở lại lớp”. Tôi cảm thấy không ổn khi nhìn thấy ánh
mắt bất cần và mệt mỏi của em. Tôi thấy lo vì khi xử lí việc này không khéo sẽ
để lại tiếng oan cả đời em với các bạn là em lấy trộm tiền. Chỉ còn một đối
tượng là em Bình, thời gian trong lớp ít nhất và ít có khả năng nhất. Đến khi gặp
em Bình thì em không nhận. Sau 3 lần gặp riêng em. Tôi thấy em có biểu hiện
bất an, bồn chồn và lúng túng. Bằng kinh nghiệm của bản thân tôi có niềm tin
8


em chính là người lấy tiền. Tôi muốn em thừa nhận sai lầm của mình để sửa
chữa nhưng em vẫn cố phủ nhận đến cùng. Tôi quyết định mời mẹ em nói
chuyện riêng tư và kín đáo cho tế nhị. Tôi không muốn nhiều người biết về việc
của em vì tôi không muốn để tiếng xấu trong một phút không kiềm chế của em

đeo đẳng suốt phần đời còn lại của em nếu em biết lỗi và sửa chữa.
Khi tôi nói chuyện với mẹ em, thì vì lòng tin con trai tuyệt đối, vì kỳ vọng vào
con trai mình, chưa nghe hết câu chuyện chị đã tỏ rõ thái độ gay gắt và có lời lẽ
xúc phạm tôi rồi đứng lên ra về.
Tôi biết đã chạm vào lòng tự tôn quá lớn của một người mẹ. Trong lòng người
mẹ ấy, đứa con trai là trong suốt, thánh thiện, là niềm hi vọng sống của người
mẹ nông thôn đã quá nhiều vất vả. Có lẽ niềm tin chính là thứ duy nhất giúp chị
có động lực để cố gắng vượt qua nỗi cực nhọc hàng ngày. Dường như chị bị bấn
loạn đến mức không còn bình tĩnh trước sự thật.
Tôi quyết định gặp chồng chị vào ngày hôm sau. Anh bình tĩnh hơn nghe tôi nói
hết và anh hứa sẽ cộng tác.
Hai ngày tiếp theo, tôi chờ đợi phản hồi một cách căng thẳng, hai ngày đó tôi
vẫn đối xử với em bình thường như những em khác.
Đến ngày thứ ba, tôi thấy em Bình cùng bố đến gặp tôi. Em cúi gằm mặt, bố em
để chúng tôi nói chuyện riêng với nhau. Em kể lí nhí về việc lấy tiền của bạn.
Khi em vào lớp em nói 2 bạn trông lớp ra ngoài đi cho em chỉnh lại trang phục
quần lót. Chỉ trong ít phút em đến cặp của bạn lớp trưởng để lấy một phần tiền
vì em nghĩ chắc bạn lớp trưởng học thể dục lên mà kiểm tra thấy vẫn còn tiền thì
bạn không đếm lại, sang ngày mai là rất khó để biết được dù có báo với cô. Em
tưởng cô không tìm ra thì coi như thôi. Sau khi nghe xong tôi nói rõ là tôi biết
chắc chắn em lấy tiền. Tôi muốn em nhận lỗi, trả lại tiền và hứa với tôi là không
bao giờ lặp lại hành động lấy trộm bất kỳ lần nào nữa.
d. Kết quả :
Sau khi học xong THPT em Bình đi nghĩa vụ quân sự. Trong thời gian tại ngũ
em đã phấn đấu rèn luyện và học tập rồi được cử đi học thêm. Hiện nay em đã là
người lính trong lực lượng vũ trang.
Là một giáo viên, tôi rất buồn, rất thất vọng khi có học sinh hư nhưng tôi đã
nhận ra không nỗi thất vọng, đau đớn và giằng xé nào bằng lòng người mẹ khi
có con hư.
3.2.3. Trường hợp em Dương Thị Hường

( hiện là học sinh lớp C7-khóa 2012-2015)
a. Biểu hiện của em Hường:
Em Hường đến trường thì luôn trang điểm đậm, quần áo mặc tự do, bỏ học đi
chơi với các bạn, sẵn sàng tham gia bè cánh để đánh nhau. Sẵn sàng đánh bất kỳ
bạn nào báo cho thầy cô biết vi phạm của em.

9


b. Hoàn cảnh của em Hường :
Do gia đình ở xa trường nên buổi trưa gia đình hay cho em ở lại trường để tiếp
tục học buổi chiều. Chính thời gian ở lại buổi trưa khoảng 2 tiếng rưỡi em ra
khỏi trường đi chơi với nhóm bạn lớn tuổi. có buổi bỏ học la cà quán hàng ngoài
cổng trường.
c. Biện pháp giáo dục :
Dù được thầy cô nhắc nhở về việc mặc trang phục không phù hợp, hay bỏ học,
thì em không phản ứng nhưng cũng không thay đổi, sự cố chấp đến thách thức
của em làm cho em không muốn thay đổi. Tôi có cảm giác em mà thay đổi thì
em sợ mất vị trí chịu chơi trong mắt bạn bè em.
Sau nhiều lần nhắc nhở, giáo dục trực tiếp em không có sự chuyển biến thì tôi
gặp phụ huynh của em để trao đổi về quy định mặc đồng phục đến trường của
các em học sinh và yêu cầu phụ huynh quan tâm đến trang phục trước khi đến
trường. Quan tâm giám sát thời gian buổi trưa và tìm em kịp thời khi em ra khỏi
nhà để đi học nhưng không vào trong trường, Kết hợp giữa các gia đình có con
tham gia đánh nhau để giải quyết triệt để.
Tuy nhiên, có khó khăn là bố mẹ em đi làm sớm, nên khi em ngủ dậy đi học thì
bố mẹ đã không còn ở nhà nên chỉ nhắc nhở mà không giám sát được. Bố em
tính tình nóng nảy, khi con vi phạm được nhà trường trao đổi thì thường đánh
em rất đau, ông còn dùng những lời lẽ thậm tệ để mắng chửi em.
Sau nhiều lần trao đổi về phương pháp giáo dục, đặc điểm tâm lí lứa tuổi của

em thì gia đình em đã thay đổi phần nào quan niệm về giáo dục và có cách giáo
dục mền mỏng hơn, phối hợp hiệu quả hơn với nhà trường.
d. Kết quả :
Thời gian trôi qua, em đã thay đổi khá nhiều, lời nói, thái độ, trang phục cũng
đã được sửa đổi để phù hợp hơn trước. Năm học 2014-2015 em đã đạt thành tích
học sinh tiên tiến.
Qua trường hợp của em Hường tôi nhận ra bố mẹ em cho rằng chỉ cần cung
cấp đủ tiền cho con, không bắt con làm việc là đương nhiên con phải ngoan
ngoãn và học hành chăm chỉ. Cha mẹ các em chưa thực sự có kỹ năng phù hợp
trong việc giáo dục con cái, chưa biết cách quan tâm đến cảm nhận và suy nghĩ
của con.
3.2.4. Trường hợp em Vũ Ngọc Dương
( hiện là học sinh lớp C7-khóa 2012-2015)
a. Biểu hiện của em Dương :
Là học sinh hay nói chuyện riêng trong giờ, tỏ ra không hợp tác, tính nóng nảy,
dễ kích động nên đã đánh nhau với bạn.

10


b. Hoàn cảnh của em Dương :
Bố mẹ em Dương làm ruộng. Không quan tâm nhiều đến việc kết hợp giáo dục
con cùng nhà trường. Khi em có những vi phạm thì bản thân tôi phải rất khó
khăn mới có thể gặp gỡ trao đổi về sai phạm của em.
c. Biện pháp giáo dục
Khi em Dương sử dụng điện thoại trong giờ học và tham gia đánh nhau với bạn
thì tôi mời phụ huynh của em đến trường để gặp gỡ, trao đổi và tìm biện pháp
giải quyết.
Lần thứ nhất tôi chờ đợi cả buổi không thấy phụ huynh của em đến. Lần thứ 2
tôi bố trí buổi khác mời nhưng phụ huynh của em vẫn không đến. Lần thứ ba tôi

phải báo cáo ban giám hiệu nhà trường kí giấy mời phụ phuynh và nhờ người
đưa đến tận nhà thì mẹ em đến. Khi tôi hỏi về việc vắng mặt 2 lần trước thì lí do
mẹ em đưa ra là bận phơi rơm, không có người trông nhà… Sự thiếu hợp tác,
phó mặc cho nhà trường của phụ huynh gây khó khăn rất lớn cho chúng tôi. Tôi
phân tích lo lắng về việc các em đã đánh nhau với bạn và sự việc có thể sẽ trầm
trọng, các em có thể sẽ trả thù nhau nếu không giải quyết dứt điểm. Tôi muốn
mời 2 phụ huynh có con tham gia đánh nhau để cùng tìm biện pháp ngăn chặn vì
chúng tôi chỉ có thể quản lí trong nhà trường thôi, cả quãng đường dài các em đi
học thì cần có sự quản lí của phụ huynh.
Tôi thừa nhận em Dương rất quân tử và sòng phẳng, nhưng có tư tưởng ăn
miếng trả miếng. Tôi tâm sự với em và mong em mềm mỏng, linh hoạt hơn
trong cách hành xử, hướng em chơi với những người bạn có tính điềm đạm hơn,
đồng thời tôi giao việc tập thể cho em, giám sát, nhắc nhở để em biết tiết chế
bản thân hơn.
d. Kết quả :
Thời gian qua, thấy cô bầy tỏ tin tưởng vào sự thay đổi của em nên em cũng cố
gắng. Hiện nay tính tình của em đã có sự chuyển biến. Trong lớp em ít nói tự do,
không còn cự cãi khi bị giáo viên nhắc nhở và đặc biệt không còn để xảy ra mâu
thuẫn đến mức đánh nhau với bạn.
3.2.5 Trường hợp em Nguyễn Văn Đức
(Học sinh lớp C1 khóa học 2015-2018)
a. Biểu hiện của em Đức
Em Đức là học sinh có học lực yếu.
Em đến lớp cứ lầm lũi ngồi ở góc, không hỏi han, trò chuyện với bất kỳ bạn học
nào. Khi thầy cô hỏi thì cũng chỉ ậm ừ cho qua chuyện hoặc im lặng. Em mặc
cảm về hoàn cảnh của mình.
b. Hoàn cảnh của em Đức
Hiện tại em ở với ông bà ngoại già yếu. Bố em nghiện ma túy, trong một lần
không kiềm chế được đã gây án nên hiện nay đang thụ án tù chung thân. Mẹ em
11



bỏ nhà đi đâu không rõ từ khi bố vào tù. Bà nội đã già yếu không có khả năng
nuôi dưỡng nên Đức và em trai còn nhỏ ở với ông bà ngoại để được đi học.
c. Biện pháp giáo dục
Do mặc cảm về hoàn cảnh của bản thân nên lúc nào em cũng lầm lì, dù rất cố
gắng tiếp cận em, trò chuyện với em nhưng không bao giờ em mở lòng tâm sự.
Cô nói gì em cũng chỉ trả lời gon lỏn một từ vâng và để đó.
Tôi tâm sự với các em khác trong lớp để mong các em chủ động nói chuyện,
gần gũi, giúp đỡ Đức trong học tập và rèn luyện. Bản thân tôi giao việc, quan
tâm động viên em, tâm sự với em về hoàn cảnh, về nghị lực và bản lĩnh sống,
bên cạnh đó tôi tạo ra không gian để em hòa nhập tự nhiên cũng tập thể lớp.
d. Kết quả:
Được sự quan tâm, dần dần em đã bớt mặc cảm, hiện nay em đã hòa đồng hơn,
trò chuyện với các bạn trong lớp. kết quả học tập cũng đã tiến bộ.
Qua trường hợp của em Đức tôi nhận thấy rất nhiều em sinh ra trong hoàn cảnh
khó khăn, luôn mang trong mình mặc cảm là con của tội phạm, trong mình chảy
dòng máu tội phạm. Bên cạnh đó có rất nhiều phụ huynh không muốn cho con
chơi cùng em, sự kỳ thị của mọi người có thể đẩy em đến con đường phạm tội
như hiển nhiên phải thế. Chỉ cần mọi người mở rộng tấm lòng, đón nhận và giúp
đỡ các em, đối xử với các em nhân ái thì các em vẫn còn niềm tin trong cuộc
sống, các em nhận ra còn nhiều điều tốt đẹp trong cuộc đời và các em sống tốt
hơn rất nhiều.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân đồng nghiệp và nhà trường.
Trong quá trình chủ nhiệm tôi đã cảm hóa được nhiều học sinh chậm tiếnmà
không thể nêu hết được ở đây.
Tuy nhiên bàn tay tôi quá nhỏ bé, cũng có khi tôi bất lực nhìn dòng đời cuốn
các em xa trường học. Tôi không biết làm gì khác ngoài việc cố gắng cho những
em còn lại.

Ý thức sâu sắc về vai trò giáo dục nhân cách cho học sinh THPT tôi luôn trau
dồi kinh nghiệm dạy học, kỹ năng sư phạm và nuôi dưỡng tinh thần trách nhiệm,
lương tâm nghề nghiệp.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
Trong quá trình giáo dục các em học sinh chậm tiến, thì nguyên tắc cứng nhắc
có thể sẽ đẩy các em đến thế phòng thủ, bất cần và sẵn sàng buông xuôi. Cần
nhất là "Cảm hóa học sinh chậm tiến" giúp các em thấu hiểu, có niềm tin vào
bản thân, có niềm tin vào xã hội.

12


2. Kiến nghị
Nhà trường cần quan tâm động viên, ghi nhận cố gắng của giáo viên chủ
nhiệm lớp có nhiều học sinh ‘‘chậm tiến’’
Về mặt tổ chức nên xếp những giáo viên có năng lực tốt dạy những lớp có học
sinh chậm tiếnvì những giáo viên này thường có kinh nghiệm trong giảng dạy và
quản lí học sinh. Hiểu và chấp nhận những mặt hạn chế trong khuôn khổ nhất
định và kích thích, phát huy điểm mạnh của học sinh. Đối với những học sinh
‘‘chậm tiến’’ thì khó có thể đòi hỏi các em trở nên gương mẫu mà chỉ có thể cố
gắng để điểm tốt nhiều hơn điểm xấu thôi.
Trong giáo dục THPT thì chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm đều quan trọng
như nhau, Một giáo viên ra trường thường công tác khoảng 30 năm, thời gian
này đủ để thay đổi nhiều thế hệ (có người dạy cha rồi đến dạy con) giáo viên tìm
hiểu nghiên cứu và tích cóp kinh nghiệm về sự phát triển tâm lí học sinh và
chuyển biến xã hội và cần được cung cấp thông tin từ những nhà nghiên cứu
chuyên nghiệp thì mới có được kết quả tốt.
Sáng kiến kinh nghiệm cũng nên chú trọng hơn về những việc làm cụ thể, giảm

bớt những lí luận chung chung.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là KKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.

Nguyễn Thị Lan

13



×