Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Vận dụng kĩ thuật khăn phủ bàn vào dạy học bài hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (ngữ văn 10) (2018)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.9 KB, 58 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THU PHƢƠNG

VẬN DỤNG KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN
VÀO DẠY HỌC BÀI
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
(NGỮ VĂN 10)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành:Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

Hà Nội, 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
======

NGUYỄN THU PHƢƠNG

VẬN DỤNG KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN
VÀO DẠY HỌC BÀI
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
(NGỮ VĂN 10)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành:Phƣơng pháp dạy học Ngữ văn

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học


TS. PHẠM KIỀU ANH

Hà Nội, 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự hướng dẫn
nhiệt tình và chu đáo của cô giáo TS. PHẠM KIỀU ANH- giảng viên tổ
phương pháp dạy học Ngữ văn, cùng sự ủng hộ đóng góp ý kiến của toàn thể
các thầy cô trong khoa Ngữ văn- trường đại học sư phạm Hà Nội 2.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới các thầy cô giáo
trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là TS. PHẠM KIỀU ANH, người đã giúp tôi
hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2018
Tác giả khóa luận

Nguyễn Thu Phƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn trực tiếp của cô giáo
Phạm Kiều Anh. Tôi xin cam đoan:
- Khóa luận là kết quả nghiên cứu, tìm tòi của riêng tôi.
- Các tài liệu được trích dẫn trong khóa luận là trung thực.
- Kết quả công bố chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nghiên
cứu nào.Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 29 tháng 04 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Thu Phƣơng



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GV

Giáo viên

HS

Học sinh

PP

Phương pháp

PPDH

Phương pháp dạy học

KT

Kĩ thuật

KTDH

Kĩ thuật dạy học

KPB

Khăn phủ bàn


THPT

Trung học phổ thông

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề....................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu............................................................... 5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu................................................................ 5
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
6. Bố cục của khóa luận .............................................................................. 6
NỘI DUNG ............................................................................................... 7
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ
DỤNG KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN VÀO DẠY HỌC BÀIHOẠT
ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ ................................................... 7
1.1. Cơ sở lí luận về kĩ thuật dạy học trong giáo dục..................................... 7
1.1.1. Kĩ thuật dạy học ................................................................................ 7
1.1.2. Kĩ thuật khăn phủ bàn trong dạy học .................................................. 8
1.1.2.1. Khái niệm ...................................................................................... 8

1.1.2.2. Đặc trưng của kĩ thuật khăn phủ bàn................................................ 8
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa kĩ thuật khăn phủ bàn và phương pháp dạy học..... 9
1.2. Cơ sở lí luận về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ............................. 10
1.2.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ .................................. 10
1.2.2.Quá trình hoạt động giao tiếp ............................................................ 11
1.2.3. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp ................................................. 11
1.2.3.1. Nhân vật giao tiếp......................................................................... 11
1.2.3.2. Hoàn cảnh giao tiếp ...................................................................... 12
1.2.3.3. Nội dung giao tiếp ........................................................................ 13
1.2.3.4. Mục đích giao tiếp ........................................................................ 13
1.2.3.5. Phương tiện giao tiếp .................................................................... 14
1.2.4. Vai trò của ngôn ngữ đối với hoạt động giao tiếp của con người ........ 16


1.3. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
................................................................................................................ 17
1.3.1. Nội dung dạy học về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong SGK
Ngữ văn-THPT......................................................................................... 17
1.3.2. Thực trạng dạy ................................................................................ 17
1.3.3. Thực trạng học ................................................................................ 18
1.3.4. Nhận xét chung ............................................................................... 19
Chƣơng 2: DẠY HỌC BÀI HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN
NGỮ (Ngữ văn 10) CÓ SỬ DỤNG KỸ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN ....... 20
2.1. Mục đích của việc dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ...... 20
2.1.1.Về kiến thức..................................................................................... 20
2.1.2.Về kĩ năng: ...................................................................................... 20
2.1.3.Về thái độ ........................................................................................ 20
2.2. Xác định nội dung dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ có sử
dụng kĩ thuật khăn phủ bàn ....................................................................... 21
2.2.1. Sử dụng khăn phủ bàn khi dạy các nhân tố của hoạt động giao tiếp.... 21

2.2.2. Sử dụng khăn phủ bàn tổ chức luyện tập thực hành ........................... 21
2.3.Cách tiến hành .................................................................................... 22
2.3.1. Sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn để dạy học các nhân tố của hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ ............................................................................ 22
2.3.1.1 Chuẩn bị của GV và HS ................................................................. 22
2.3.1.2. Quy trình thực hiện ....................................................................... 22
2.3.2. Sử dụng khăn phủ bàn tổ chức luyện tập thực hành ........................... 24
2.3.2.1. chuẩn bị của GV và HS................................................................. 24
2.3.2.2. Quy trình thực hiện ....................................................................... 24
2.4. Một số lưu ý khi sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn trong dạy học nội dung
bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ ..................................................... 27
2.4.1. Một số khó khăn còn tồn tại khi sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn ......... 27
2.4.2. Giải pháp khắc phục ........................................................................ 28


2.5. Xác định một số phương pháp sử dụng kết hợp kĩ thuật khăn phủ bàn khi
dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ......................................... 29
2.5.1 Phương pháp thảo luận nhóm ............................................................ 29
2.5.2. Sử dụng phương pháp đóng vai ........................................................ 30
2.5.3. Sử dụng một số phương pháp dạy học tích cực ................................. 31
Chƣơng 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ................................................ 33
3.1. Mục đích thực nghiệm ........................................................................ 33
3.2. Đối tượng thực nghiệm....................................................................... 33
3.3. Địa bàn thực nghiệm .......................................................................... 34
3.4. Thời gian thực nghiệm ....................................................................... 34
3.5. Nội dung và cách tiến hành thực nghiệm ............................................. 34
3.6. Kết quả thực nghiệm .......................................................................... 47
KẾT LUẬN ............................................................................................. 48
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) Ngữ văn
theo hướng dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm đã, đang được triển
khai rộng rãi trong nhà trường. Không ngoại lệ hoạt động dạy học Ngữ văn
cũng đang có bước chuyển mình nhất định theo quan điểm này. Mặc dù hoạt
động dạy học đã thu được nhiều kết quả đáng kể song thực tế nhiều giáo viên
(GV) và học sinh(HS) vẫn gặp phải những khó khăn, vướng mắc nhất
định.Vậy làm thế nào để có thể ứng dụng tốt phương pháp dạy học Ngữ văn
theo hướng dạy - học tích cực lấy HS làm trung tâm.
Việc vận dụng linh hoạt các PPDH là môi trường thuận lợi để HS bàn
bạc, thảo luận những vấn đề về nội dung, ý nghĩa của một văn bản văn học
hay một đơn vị ngôn ngữ, là biện pháp tích cực để khai thác những
hướng khác nhau trong cảm nhận văn chương, giúp HS cảm, hiểu sâu sắc,
thấu đáo giá trị tác phẩm, có cách tiếp cận độc lập sáng tạo, đảm bảo mỗi HS
đều được đối thoại, được tôn trọng, được bình đẳng trước tác phẩm, đơn vị
ngôn ngữ. Mặt khác, về phía HS việc tự học, tự trau dồi vốn kiến thức còn
hạn chế nên trong giờ học Ngữ văn chưa thật sự phát huy được năng lực vốn
có. Với GV việc đầu tư thiết kế bài dạy học theo hướng tích cực cũng còn hạn
chế. Có nhiều biện pháp giáo dục khác nhau nhưng việc sử dụng các kỹ thuật
dạy học tích cực có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực
của HS vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác
làm việc của HS.
Trong các kĩ thuật dạy học hiện đại thì “khăn phủ bàn” là một trong
những kĩ thuật sử dụng khá phổ biến.Đây là kĩ thuật (KT) tổ chức hoạt động
học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm nhằm kích

1



thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực, tăng cường tính độc lập, trách nhiệm cuả
cá nhân HS, phát triển mô hình hợp tác giữa các HS.
1.2. Như chúng ta đã biết,giao tiếp là một hoạt động đóng vai trò rất
quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Dù trong cuộc sống hay trong công
việc, giao tiếp đều là cầu nối giữa con người với con người giúp chúng ta hiểu
nhau hơn. Đối với trong quá trình dạy học muốn HS có thể giao tiếp tốt thì
việc dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là quan trọng và cần
thiết. Cũng vì thế, trong chương trình Ngữ văn THPT, bài Hoạt động giao
tiếp bằng ngônngữ là nội dung không thể thiếu. Tuy nhiên để chủ thể học tập
có thể hiểu đúng và có ý thức vận dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, trong
thực tế giao tiếp của bản thân thì trong quá trình dạy học GV cần có những
biện pháp giáo dục phù hợp để giúp người học định hướng được khả năng
giao tiếp.Trong thực tế, không ít em còn cảm thấy lúng túng và khó khăn khi
giao tiếp với thầy cô, với bạn bè và xã hội. Mặt khác trong giờ Tiếng Việt ở
các trường phổ thông hiện nay chủ yếu được GV giảng dạy nghiêng theo
hướng lí thuyết,HS chưa chủ động trong học tập. Để hoạt động dạy học phân
môn này thực sự hiệu quả, GV cần biết vận dụng linh hoạt các PPDH và kĩ
thuật dạy học (KTDH) phù hợp với nội dung học tập.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: Vận
dụng kĩ thuật khăn phủ bàn vào dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ(Ngữ văn 10), nhằm mục đích giúp cho việc dạy và học Tiếng Việt
ở THPT đạt được hiệu quả cao hơn.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Dạy học tiếng Việt theo quan điểm giao tiếp là vấn đề được nhiều
người quan tâm. Theo tác giả Lê A, “quan điểm giao tiếp là quan điểm cơ bản
nhất trong việc tổ chức dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông” [1, tr.35].


2


Trong bài viết Lý thuyết hoạt động ngôn ngữ và việc dạy tiếng Việt ở
nhà trường phổ thông, tác giả Lý Toàn Thắng cũng cho rằng: Trong dạy học
tiếng Việt, dù là dạy phần gì, cần phải quán triệt quan điểm “hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ”, luôn luôn cần phải xuất phát từ hoạt động giao tiếp để
định hướng việc dạy về từ, về câu; nhằm tới việc rèn luyện những kĩ năng
dùng từ, đặt câu; chú trọng việc thực hành, tạo lập các sản phẩm giao tiếp
(câu văn, đoạn văn, lời văn) với những thao tác như xây dựng câu, rút gọn
câu…Với những kết luận nêu trên, có thể khẳng định giao tiếp là quan điểm
chỉ đạo việc lựa chọn, tổ chức nội dung dạy học tiếng mẹ đẻ.
Tuy có nhiều công trình bàn về giao tiếp nhưng phần lớn các tài liệu mới
chỉ bàn một cách chung chung về nội dung và mục đích dạy lí thuyết về hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ mà chưa có những gợi dẫn cụ thể về cách tổ
chức các hoạt động dạy và học bài này có sử dụng các PP, KTDH hiện đại
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.
Những định hướng trong SGV Ngữ văn 10, 11, 12 về phương pháp và
tiến trình tổ chức dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ thể hiện khá
rõ quan điểm giao tiếp. Đó là hướng dẫn tiến hành bài học theo hướng qui nạp:
từ ngữ liệu cụ thể về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, HS tìm hiểu để hình
thành kiến thức và nâng cao kĩ năng giao tiếp. Để làm được điều đóGVphải
hướng dẫnHS phân tích các ngữ liệu theo hệ thống câu hỏi rồi rút ra nhận định
như ở phần ghi nhớ trong SGK. Để củng cố, nâng cao kiến thức, kĩ năng đã
học, chủ thể học tập cần làm các bài tập thực hành ở phần luyện tập.Sau đó,
GVtổ chức cho HS giải bài tập theo từng cá nhân hoặc theo nhóm, tổ và cuối
cùng chốt lại theo hướng dẫn giải bài tập trong SGK. Ngoài ra, quan điểm giao
tiếp còn được thể hiện qua việc GV được khuyến khích sử dụng các ngữ liệu
gần gũi với lời ăn, tiếng nói của HS từng vùng, miền mà không bắt buộc dùng
các ngữ liệu trong SGKđể các em tiếp thu bài học dễ dàng hơn. SGKvà sách


3


bài tập Ngữ văn tạo điều kiện cho HS được thực hành, được làm, được giao
tiếp thể hiện qua việc dành phần lớn thời lượng cho luyện tập, thực hành dù
đây là các bài thiên về hình thành tri thức mới. Nội dung luyện tập trong
SGKvà sách bài tập khá đa dạng và phong phú giúp người học nâng cao cả bốn
kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Tuy nhiên, định hướng tổ chức dạy học bài Hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ theo quan điểm giao tiếp mới được thể hiện một
cách khái quát,mà không có những gợi dẫn cụ thể cho việc chiếm lĩnh từng
vấn đề lí thuyết theo yêu cầu dạy học hiện nay.
2.2.Lịch sử nghiên cứu kĩ thuật khăn phủ bàn trong dạy học Tiếng Việt
Theo quan điểm dạy học tích cực, khi muốn đào tạo những con người
tự chủ, năng động, sáng tạo thì cần có phương pháp giáo dục phải hướng vào
rèn luyện và phát triển khả năng nghĩ và làm việc một cách tư duy, tự chủ
năng động và sáng tạo. Cũng vì thế, dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt
động học tập của HS không phải là vấn đề mới mà nó đã được nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu từ rất lâu.
Ở Việt Nam, từ năm 1993 dạy học theo hướng tích cực được thử
nghiệm và qua nhiều công trình nghiên cứu về PPDH, về giáo dục học và tâm
lí học.Có thể thấy rằng, đây là những công trình lý luận khá đầy đủ về PPDH
tích cực được rất nhiều giáo viên quan tâm. Các công trình trên đặc biệt quan
tâm là: Các phương pháp giáo dục phải đa dạng, hệ thống câu hỏi phong phú,
nội dung dạy học phải luôn mới nhưng phải gần gũi với HS, bám sát yêu cầu
và gắn liền với thực tiễn… Theo đó, các công trình cũng đã giới thiệu một số
PPDH và KTDH hiện đại có thể sử dụng để phát huy tính tích cực học tập của
HS. Trong hầu hết các công trình đó, các nhà nghiên cứu đều đề cập đến KT
khăn phủ bàn, cách thực hiện nó nhưng lại chưa hướng dẫn cách sử dụng KT
này trong khi dạy những bài học cụ thể.Đây chính là những gợi ý để chúng tôi

lựa chọn và triển khai đề tài này.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, chúng tôi hướng đến mục đích:
- Bước đầu nghiên cứu, tìm hiểu cách thức vận dụng KTDH tích cực
vào quá trình dạy học Tiếng Việt thông qua một bài dạy cụ thể là bài Hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Từ đó tìm ra những biện pháp giáo dục thích
hợp, linh hoạt sử dụng vào quá trình dạy học Ngữ văn nhằm phát huy tính tích
cực học tập cho chủ thể học tập, để hoạt động dạy học Ngữ văn đạt hiệu quả.
- Vận dụng kĩ thuật dạy học khăn phủ bànnhằm tìm ra những biện pháp
giáo dục có thể áp dụng trong thực tiễn dạy học, nâng cao hiệu quả dạy học
bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu của đề tài, khóa luận tập trung vào
những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng hợp những tri thức cơ bản về kĩ thuật khăn phủ bàn trong dạy
học, hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Khảo sát cơ sở thực tiễn của đề tài
- Đề xuất cách ứng dụng kĩ thuật khăn phủ bàn vào dạy học hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ.
- Bước đầu kiểm chứng tính khả thi của những đề xuất được nêu ra.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận tập trung tìm hiểu về khăn phủ bàn và sự vận dụng của KT
này vào quá trình dạy học Ngữ văn nói chung, Tiếng Việt nói chung ở trường
THPT.


5


4.2.Phạm vi nghiên cứu
Gắn với nội dung đề tài, chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề
tài là nội dung Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, được dạy cho HS lớp 10SGK Ngữ văn 10. Tại trường THPT Tiên Hưng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng những phương pháp chính sau:
5.1. Phƣơng pháp thống kê
Phương pháp này được sử dụng để phân loại và phân tích kết quả khảo
sát thực trạng của HS trước khi tiến hành thực nghiệm
5.2. Phƣơng pháp hệ thống hóa
Sử dụng phương pháp này nhằm hệ thống hóa các tri thức, lí thuyết về
kĩ thuật khăn phủ bàn, về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
5.3. Phƣơng pháp thực nghiệm
Phương pháp này được sử dụng khi tổ chức thực hiện để chứng minh
tính khả thi của thiết kế, từ đó rút ra kết luận, cần thiết cho những đề xuất
được nêu ra ở chương 2.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận,tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của khóa luận được triển khai cụ thể thành 3 chương:
- Chương 1:Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc sử dụng kĩ thuật
khăn phủ bàn vào dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
- Chương 2: Dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ(Ngữ văn
10) có sử dụng kĩ thuật khăn phủ bàn
- Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6



NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ
DỤNG KĨ THUẬT KHĂN PHỦ BÀN VÀO DẠY HỌC BÀI
HOẠT ĐỘNG GIAO TIẾP BẰNG NGÔN NGỮ
1.1. Cơ sở lí luận về kĩ thuật dạy học trong giáo dục
1.1.1. Kĩ thuật dạy học
Trong giáo dục, KTDH là những biện pháp, cách thức hành động của
của GV và HS trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều
khiển quá trình dạy học. Có những KTDH chung và cũng có những KT đặc thù
của từng PPDH, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta
chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực,
sáng tạo của người học như động não, tia chớp, bể cá, XYZ, Bản đồ tư duy,...
Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt
trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích
thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS.Các kĩ thuật dạy học
chưa phải là các PPDH độc lập mà nó thường được sử dụng kết hợp với các
PPDH và phương tiện dạy học nhằm tăng hiệu ứng của hoạt động giáo dục.
Khi nghiên cứu về KTDH , các nhà nghiên cứu đều cho rằng: các
KTDH tích cực đều hướng tới việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
cho người học.Thông qua các cách thức hoạt động cụ thể, HS được động viên,
khích lệ tạo cho học sinh những điều kiện, cơ hội ,và được GV giao nhiệm vụ
để tiến hành các hoạt động học tập một cách hứng thú, say mê và đạt kết quả
cao. Sử dụng KTDH tích cực, học sinh được lôi cuốn vào quá trình giải quyết
các vấn đề học tập, tranh luận,thảo luận, trình bày và vận dụng…

7


1.1.2. Kĩ thuật khăn phủ bàn trong dạy học

1.1.2.1. Khái niệm
Khăn phủ bàn là một trong những KTDH đã và đang được nhiều GV
sử dụng trong quá trình dạy học Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập
mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm.
KT KPB bàn đơn giản, dễ thực hiện, có thể tổ chức trong các môn học,
bậc học khác. Đối với GV giúp cho tiết dạy nhẹ nhàng, sinh động, mà không
cần giảng nhiều. Đối với HS, các em được thực hành hợp tác giữa cá nhân,
nhóm, đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý
kiến cá nhân của mình trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa
hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Từ đó, các cuộc thảo luận thường có
sự tham gia của tất cả các thành viên và các thành viên có cơ hội chia sẻ ý
kiến, kinh nghiệm của mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình
một cách tích cực. Nhờ vậy hiệu quả học tập được nâng cao và không mất
thời gian, giữ được trật tự trong lớp học.
Kĩ thuật nàygiúp cho HS tiếp cận được nhiều giải pháp và chiến lược
khác nhau,rèn kĩ năng suy nghĩ, quyết định và giải quyết vấn đề.Tăng cường
sự phối hợp làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm nhỏ, tạo cơ hội nhiều
hơn cho học tập, nâng cao mối quan hệ giữa HS.Tăng cường sự hợp tác, giao
tiếp, học cách chia sẻ kinh nghiệm và tôn trọng lẫn nhau, nâng cao hiệu quả
học tập.
Kĩ thuật KPB có thể tổ chức giống như học theo nhóm nhưng lại khắc
phục được những hạn chế của học theo nhóm. Khi GV tổ chức cho HS học
theo nhóm nếu GV không tổ chức tốt,HS sẽ thường hay bị thụ động, ỷ lại,
trông chờ vào các thành viên khác trong nhóm do đó dẫn đến việc mất nhiều
thời gian và hiệu quả học tập không cao.
1.1.2.2. Đặc trưng của kĩ thuật khăn phủ bàn

8



GV giao nhiệm vụ học tập cho HS, các nhóm HS thể hiện nhiệm vụ hoạt động
đó nhằm tìm ra hệ thống kiến thức và tất cả HS đều phải làm việc. Khi sử dụng kĩ
thuật này, các nhóm đều được trang bị các phương tiện để làm việc (giấy A0, bút dạ,
phiếu học tập...). Trong quá trình dạy học, việc sử dụng khăn phủ bàn nhằm hướng
tới các mục tiêu sau: Kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực; tăng cường tính
độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS. Qua đó phát triển mô hình có sự tương
tác giữa HS với HS.
Để sử dụng kĩ thuật này, GV tiến hành theo các thao tác sau:
- Chia HSthành các nhóm và phát cho mỗi nhóm một tờ giấy AO.
- Trên giấy A0 chia thành các phần, gồm phần chính giữa và các phần
xung quanh. Phần xung quanh được chia theo số thành viên của nhóm (ví dụ
nhóm 4 HS).
- Mỗi HS ngồi vào vị trí tương ứng với từng phần xung quanh. Mỗi cá
nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, tập trung suy nghĩ trả lời câu hỏi
theo cách nghĩ, cách hiểu riêng của mỗi cá nhân và viết vào phần giấy của
mình trên tờ giấy AO.
-Trên cơ sở những ý kiến của mỗi cá nhân, HSthảo luận nhóm, thống nhất
ý kiến và viết vào phần chính giữa của tờ giấy AO. Khi HS thực hiện trình
bày đầy đủ các nội dung kiến thức vào A0, các em còn phải trình bày nội
dung kết luận mà nhóm đã thực hiện.
1.1.2.3. Mối quan hệ giữa kĩ thuật khăn phủ bàn và phương pháp dạy học
Trong quá trình dạy học, cùng với việc sử dụng KT khăn phủ bàn, GV
còn phải phối hợp với các PPDH khác.
Trước hết, KT khăn phủ bàn có mối quan hệ mật thiết với phương pháp
thảo luận nhóm. KT khăn phủ bàn được hiểu là phần cụ thể hóa của phương
pháp thảo luận nhóm, là phương thức thực hiện phương pháp thảo luận nhóm.
Phương pháp thảo luận nhómlà PPDH mà ở đó GV có thể tổ chức cho HSlàm

9



việc nhóm bằng cách đưa ra những vấn đề cụ thể giao cho từng nhóm HS. Khi
dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, GV có thể sử dụng PP này
để hướng dẫn HStìm hiểu những kiến thức mới là hoạt động giao tiếp bằng
ngôn ngữ; trong quá trình hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ có những nhân
tố nào chi phối vào hoạt động giao tiếp. Thông qua việc thảo luận nhóm cùng
với khăn phủ bàn,chủthể học tập sẽ chủ động thực hành giao tiếp giữa các
thành viên trong nhóm Phát huy cao độ vai trò chủ thể, tính tự giác, tích cực,
sáng tạo, năng động, tinh thần trách nhiệm của HS, tạo cơ hội cho các em tự
thể hiện, tự khẳng định khả năng, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Còn
đối với KT KPB, HS cần phải hoạt động cá nhân, suy nghĩ, tìm hiểu sau đó
trình bày ý kiến của mình trước khi thảo luận cùng các bạn để tìm ra đáp án
chung của cả nhóm.
Bên cạnh đó, khăn phủ bàn có thể kết hợp được với phương pháp vấn
đáp, đàm thoại.PP đàm thoại là phương pháp trong đó người dạy tổ chức đối
thoại, trao đổi ý kiến, tranh luận giữa thầy với cả lớp hoặc giữa những người
học với nhau, thông qua đó người học được củng cố, bổ sung, mở rộng kiến
thức, có được tri thức mới, cách nhận thức mới, cách giải quyết vấn đề mới.
1.2. Cơ sở lí luận về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.2.1. Khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Cùng với tư duy, ngôn ngữ được hình thành trong quá trình con người
lao động và phát triển để thoát khỏi tình trạng tiếp xúc mang tính động vật.
Con người khi giao tiếp với nhau đã tạo ra xã hội có đặc thù tổ chức riêng,
trong đó ngôn ngữ không chỉ đóng vai trò là sợi dây liên kết các thành viên
trong cộng đồng mà nó còn đóng vai trò là yếu tố xúc tác, tác động, thúc đẩy
xã hội phát triển. Như vậy, ngôn ngữ vừa là yếu tố cấu thành vừa có vai trò là
động lực tạo ra sự hình thành và phát triển của giao tiếp.

10



Ngôn ngữ là một là một hệ thống tín hiệu từ ngữ chức năng là một
phương tiện để giao tiếp và là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ được hình thành
trong quá trình hoạt động và giao lưu của mỗi cá nhân với người khác trong
xã hội.Ngôn ngữ mang bản chất xã hội,lịch sử và tính giai cấp.
Hoạt động giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên giữa mọi người
trong xã hội. Giao tiếp có ở mọi nơi, mọi lúc, có thể ở dạng lời nói nhưng cũng
có khi tồn tại ở dạng viết. Giao tiếp cũng có thể được tiến hành bằng nhiều
phương tiện “ngôn ngữ” khác như: Cử chỉ, điệu bộ, hành động, nét mặt, các
phương tiện kĩ thuật (tất cả được gọi là các hành vi siêu ngôn ngữ). Tuy nhiên
phương tiện quan trọng nhất, phổ biến nhất và hiệu quả tối ưu nhất vẫn là ngôn
ngữ. Nhờ ngôn ngữ và giao tiếp, con người trao đổi thông tin, bộc lộ tình cảm,
thái độ, quan hệ... để tổ chức xã hội hoạt động.Có nhiều cách hiểu khác nhau về
giao tiếp, song có thể hiểu giao tiếp một cách đơn giản nhất:
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là hoạt động trao đổi thông tin của con
người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ (nói, viết),
nhằm thực hiện những mục đích về nhận thức, tình cảm, hành động…
1.2.2.Quá trình hoạt động giao tiếp
Hoạt động giao tiếp bao gồm hai quá trình: tạo lập văn bản (do người
nói, người viết thực hiện), lĩnh hội văn bản (do người nghe, người đọc thực
hiện). Hai quá trình này diễn ra đồng thời, trong sự tương tác với nhau.Hoạt
động giao tiếp chịu sự chi phối của các nhân tố: Nhân vật giao tiếp, hoàn cảnh
giao tiếp, nội dung giao tiếp, mục đích giao tiếp, phương tiện và cách thức
giao tiếp.
1.2.3. Các nhân tố của hoạt động giao tiếp
1.2.3.1. Nhân vật giao tiếp
Nhân vật giao tiếp là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra lời nói, các diễn ngôn qua đó mà tác

11



động vào nhau.đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ. Giữa các nhân
vật giao tiếp có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
Trong giao tiếp luôn có sự phân vai: Vai người nói (Người viết-là vai
tạo ra văn bản) và vai người nghe (Người đọc-vai tiếp nhận văn bản). Hai vai
phát và nhận này luôn chuyển hóa cho nhau trong suốt cuộc giao tiếp tạo ra
quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp.
1.2.3.2. Hoàn cảnh giao tiếp
Hoàn cảnh giao tiếp chính là môi trường diễn ra hoạt động giao tiếp. Đó
chính là nơi chốn, thời gian và những đặc điểm của hoạt động giao tiếp.Hoàn
cảnh giao tiếp được chia làm hai loại:
Thứ nhất là hoàn cảnh giao tiếp rộng: Hoàn cảnh giao tiếp rộng là toàn
bộ những hiểu biết về hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, tôn
giáo…chung của dân tộc của đất nước thậm chí là cả của thế giới vào thời
điểm và không gian đang diễn ra cuộc giao tiếp.Tất cả những hiểu biết trên
tạo thành tiền giả định bách khoa và nó được huy động một cách khác nhau
tùy theo các nhân vật giao tiếp và tùy từng cuộc giao tiếp cụ thể. Cuộc giao
tiếp chỉ có thể được tiến hành khi các nhân vật giao tiếp có chung một lượng
tiền giả định nào đó.
Bên cạnh hoàn cảnh giao tiếp rộng, ta còn có hoàn cảnh giao tiếp hẹp
mà Đỗ Hữu Châu gọi là ngữ huống, thoại trường.
Hoàn cảnh giao tiếp hẹp là nơi chốn cụ thể, thời gian cụ thể trực tiếp
trong đó cuộc giao tiếp đang xảy ra tại không gian, thời gian thoại trường có
những đặc trưng chung đòi hỏi các nhân vật giao tiếp phải có những ứng xử
phù hợp với nó.Ngôn ngữ phong phú, đa dạng, cũng như người sử dụng ngôn
ngữ cũng đa dạng, phong phú, vì vậy để có thể hiểu được dụng ý của người
nói thì ngoài có chung tiền giả định bách khoa ra, người nghe cần phải hiểu
được câu nói đó được phát ra trong hoàn cảnh nào tức là đâu và vào lúc nào.


12


1.2.3.3. Nội dung giao tiếp
Nội dung giao tiếp chính là điều được đề cập đến trong giao tiếp. Nó
bao gồm một phạm vi khái quát, bao trùm và những nội dung cụ thể. Nội
dung giao tiếp có thể là hiện thực của thế giới khách quan ngoài ngôn ngữ, có
thể là những sản phẩm tinh thần của tư duy con người, có thể là cả những tình
cảm, cảm xúc và thái độ của con người đối với điều được nói đến, hoặc đối
với người tham gia hoạt động giao tiếp hay đối với chính hoạt động giao tiếp.
Nếu như nhân tố nhân vật giao tiếp trả lời cho câu hỏi “nói (viết) trong hoàn
cảnh nào”? thì nhân tố nội dung giao tiếp trả lời cho câu hỏi “nói (viết) cái
gì?” hoặc “nói (viết) về cái gì?” [4; tr.25]
Theo Đỗ Hữu Châu thì “về nội dung, diễn ngôn có hai thành tố: Nội
dung thông tin, bị quyết định bởi tính đúng – sai logic, cũng là nội dung trí
tuệ, hình thành do quan hệ giữa diễn ngôn và hiện thực được nói tới. Thứ hai
là nội dung liên cá nhân bao gồm tất cả các nội dung của diễn ngôn không bị
qui định bởi tính đúng – sai logic. Hai thành tố nội dung này có thể hiện diện
một cách tường minh trong diễn ngôn, qua câu chữ của diễn ngôn, nó cũng có
thể tồn tại một cách hàm ẩn, những người giao tiếp phải suy từ nội dung
tường minh của diễn ngôn mới nắm bắt được nó” [4; tr.37]
1.2.3.4. Mục đích giao tiếp
Mục đích giao tiếp là cái mà người nói hướng tới trong quá trình giao
tiếp. Mục đích của các hoạt động giao tiếp có thể khác nhau trong từng hoàn
cảnh khác nhau và “ý định hay mục đích giao tiếp sẽ cụ thể hóa thành đích
của diễn ngôn thông qua các thành tố nội dung của diễn ngôn. Nói một cách
tổng quát, diễn ngôn có đích tác động. Người nói nói ra một diễn ngôn là
nhằm tác động đến người nghe của mình qua các thành tố nội dung của diễn
ngôn” [4;37]


13


Giao tiếp bao giờ cũng có mục đích. Đích trong giao tiếp người ta còn
gọi là đích tác động. Tác động có nghĩa là tạo ra một sự biến đổi về mặt nhận
thức, về tình cảm, về hành động ở người tiếp nhận so với trước khi giao tiếp
diễn ra. Đích tác động có thể chia làm ba loại:
Thứ nhất, đích tác động về mặt nhận thức: Giao tiếp nhằm mục đích
thể hiện những hiểu biết, những nhận thức của người nói (viết) và truyền đạt
nó đến người nghe (đọc), làm thay đổi trạng thái nhận thức của nhau.
Tiếp theo là đích tác động về mặt tình cảm: Giao tiếp nhằm mục đích
bộc lộ những cảm xúc, thái độ, tình cảm của con người xác lập hay củng cố
những mối quan hệ giữa các nhân vật giao tiếp. Qua đó các nhân vật giao tiếp
có thể hiểu về tình cảm, quan hệ đối với nhau hay đối với điều được nói đến.
Cuối cùng là đích tác động về mặt hành động: Giao tiếp nhằm tác động
đến người nghe (đọc) làm cho người đó phải thực hiện những hành động cần
thiết.
Tác động về mặt nhận thức do thành tố nội dung thông tin đảm nhiệm,
còn hai đích tác động về mặt tình cảm và tác động về mặt hành động thì do
thành tố nội dung liên cá nhân đảm nhiệm. Vì sự thân tình, xa lạ, vị thế giao
tiếp cao hay thấp có ảnh hưởng lớn đến đích truyền cảm hay hành động của
diễn ngôn.Các hoạt động giao tiếp có thể thực hiện cùng lúc nhiều mục đích
nhưng không đều nhau có những cuộc giao tiếp chủ yếu hướng tới mục đích
nhận thức nhưng cũng có những cuộc giao tiếp lấy mục đích bộc lộ tình cảm
là chủ yếu.
1.2.3.5. Phương tiện giao tiếp
Phương tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể
hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và những tâm lý khác của mình trong một
cuộc giao tiếp. Trong cuộc sống hằng ngày, con người sử dụng nhiều phương
tiện giao tiếp khác nhau.Có thể khái quát thành 2 loại phương tiện sau:


14


Thứ nhất là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ:Ngôn ngữ là phương
tiện giao tiếp chủ yếu của con người.Bằng ngôn ngữ con người có thể truyền
đi bất cứ một loại thông tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật.
Nó thực hiện được những điều trên là dựa vào các yếu tố sau:
Ý nghĩa của ngôn ngữ hay chính là thành phần thông tin mà ngôn ngữ
biểu thị. Nghiên cứu về ngôn ngữ, người ta xác lập có hai hình thức để tồn tại
là:Thông tin khách quan và thông tin chủ quan. Hiểu được ý cá nhân là cơ sở
tạo nên sự đồng điệu trong giao tiếp, còn được gọi là khả năng đồng cảm.
Tính chất của ngôn ngữ: Gồm nhịp điệu, âm điệu ngữ điệu… Có vai trò
hết sức quan trọng trong giao tiếp, nó tạo lợi thế cho ta để giao tiếp được
thành công. Điệu bộ khi nói sẽ phụ họa theo lời nói để giúp thêm ý nghĩa cho
nó. Tuy nhiên, điệu bộ phải phù hợp với phong tục tập quán, nền văn hóa, do
đó đừng gò ép mình bằng cách bắt chước điệu bộ của người khác, vì điệu bộ
tự nhiên là đáng yêu nhất.
Thứ hai là phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ:Nghiên cứu phương
tiện giao tiếp phi ngôn ngữ rất quan trọng nó giúp ta nhạy cảm hơn trong giao
tiếp. Trong giao tiếp hằng ngày người ta sử dụng các yếu tố sau:
Nét mặt: Biểu lộ thái độ cảm xúc của con người, các công trình nghiên
cứu thống nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ 6 cảm xúc: Vui mừng,
buồn, ngạc nhiên, tức giận, sợ hãi, ghê tởm. Ngoài ra, nét mặt còn cho ta biết
về cá tính của con người.
Nụ cười: Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình
cảm, thái độ của mình. Con người có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá
tính. Do đó, trong giao tiếp ta phải biết tinh nhạy quan sát nụ cười của đối
tượng giao tiếp.


15


Ánh mắt: Nó phản ánh trạng thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm trạng và
ước nguyện của con người. Trong giao tiếp, nó phụ thuộc vào vị trí xã hội của
mỗi bên.
Các cử chỉ: Gồm các chuyển động của đầu, bàn tay, cánh tay…Vận
động của chúng có ý nghĩa nhất định trong giao tiếp.
Tư thế: Nó liên quan mật thiết với vai trò vị trí xã hội của cá nhân, thông
thường một các vô thức nó bộc lộ cương vị xã hội mà cá nhân đảm nhận.
Diện mạo: Là những đặc điểm tự nhiên ít thay đổi như: Dáng người,
màu da và những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, trang điểm trang sức...
1.2.4. Vai trò của ngôn ngữ đối với hoạt động giao tiếp của con người
Trong đời sống và con người hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ đóng
một vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết:
Trước hết, đối với xã hội hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chính là
điều kiện của sự tồn tại xã hội.Xã hội là tập hợp những mối quan hệ giữa
người và người với nhau.
Đối với cá nhân mỗi người hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ chính là
điều kiện để tâm lí, nhân cách phát triển bình thường. Nhờ có giao tiếp mà
con người có thể tham gia vào các mối quan hệ xã hội, gia nhập cộng đồng,
phản ánh các quan hệ xã hội, kinh nghiệm xã hội và chuyển thành tài sản cho
riêng mình. Trong quá trình tham gia vào hoạt động giao tiếp nhiều phẩm chất
của con người, nhất là những phẩm chất đạo đức được hình thành và phát
triển.Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, ta nhận thức
được chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội,tức là
những nguyên tắc ứng xử , chúng ta biết được cái gì tốt, xấu, đẹp và không
đẹp, cái gì cần nói và cần làm…
Ngoài ra, hoạt động giao tiếp còn thỏa mãn nhiều nhu cầu của con
người như nhu cầu thông tin, nhu cầu được thừa nhận, nhu cầu được những


16


người xung quanh quan tâm chú ý, nhu cầu được hòa nhập vào một nhóm xã
hội nhất định…Nhờ có ngôn ngữ, con người có thể đạt được những mong
muốn, những ngu cầu của bản thân.
1.3. Cơ sở thực tiễn của việc dạy học bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
1.3.1. Nội dung dạy học về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong SGK
Ngữ văn-THPT
Trong SGK Ngữ văn- THPT, bài Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
được triển khai thông qua 2 tiết học.
Ở tiết 1, SGK Ngữ văn 10 triển khai theo hướng cung cấp cho HS
những kiến thức về:Khái niệm cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ:
mục đích (trao đổi thông tin về nhận thức, tư tưởng tình cảm, hành
động,...);hai quá trình trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ: Tạo lập văn
bản (nói hoặc viết) và lĩnh hội văn bản (nghe hoặc đọc);Các nhân tố giao tiếp:
Nhân vật, hoàn cảnh, nội dung, mục đích, phương tiện và cách thức giao tiếp.
Sang tiết 2, SGK Ngữ văn 10 triển khai những nội dung thực hành
luyện tập nâng cao kĩ năng phân tích, tạo lập văn bản trong giao tiếp,qua đó
vừa hệ thống, vừa mở rộng, nâng cao những hiểu biết cho HS về hoạt động
đặc thù của con người.
1.3.2. Thực trạng dạy
Có thể thấy, trong chương trình Ngữ văn THPT hiện hành,Hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ là một nôi dung khá quen thuộc. Nhưng trên thực tế,
trong quá trình giảng dạy GV mới chỉ bám sát vào SGK và SGV để vừa dạy
kiến thức, vừa rèn luyện kĩ năng thực hành cho HS.
Qua khảo tại trường THPT Tiên Hưng, trong giờ dạy phần lý thuyết
Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, GV thực hiện các nội dung SGK theo
định hướng trong SGV. Thông thường người dạy đưa ra các câu hỏi gợi ý,


17


×