Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ do chọn đề tài
Chương trình sách giáo khoa (SGK) THPT chỉnh lí mới đã được thực hiện
trên cả nước trong một thời gian không ngắn nhưng vẫn còn rất nhiều mới mẻ đối
với học sinh và đặc biệt là với người giảng dạy cả đội ngò giáo viên cũ và mới.
Với những sinh viên năm cuối, chuẩn bị ra trường và chính thức giảng dạy thì
chương trình SGK thực sự là một mối quan tâm lớn và cần thiết.
Trong bộ môn Văn trước đây còng nh bé môn Ngữ văn bây giê thì
phân môn tiếng Việt bao giê cũng là một khó khăn đối với cả người học và
người dạy. Nhất là khi những kiến thức rất mới mẻ được đưa vào chương
trình như bây giê thì dạy học tiếng Việt càng cần thiết được nghiên cứu một
cách kĩ càng. Nội dung chuyên đề hướng vào những bài học tiếng Việt có nội
dung ngữ dụng chính là một cách tìm hiểu những nội dung kiến thức mới mẻ
phục vụ thiết thực cho những bài giảng sau này.
II. Phạm vi, giới hạn đề tài
Bài tập chuyên đề thử đi vào tìm hiểu những bài học thuộc phân môn
tiếng Việt có nội dung Ngữ dụng học thuộc chương trình SGK PTTH líp 10,
11, (bộ cơ bản) và líp 12 (ban KHXH, bé 2 sách thí điểm), bao gồm ba đơn vị
kiến thức: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ (líp 10), Ngữ cảnh (líp 11),
Hàm ý hội thoại (líp 12).
Chuyên đề chủ yếu thử nhận xét việc xây dựng các đơn vị kiến thức
trên có những ưu điểm và tồn tại gì rồi tìm hướng khắc phục phù hợp nhất để
học sinh có thể tiếp nhận hiệu quả nhất. Do phạm vi của một chuyên đề
không cho phép nên chúng tôi chỉ khảo sát về cách xây dựng nội dung lí
thuyết của ba đơn vị kiến thức nêu trên. Trên cơ sở đó thử đưa ra một đề bài
tập trắc nghiệm cho một đơn vị kiến thức đó là bài Hoạt động giao tiếp bằng
1
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
ngôn ngữ để có thể thử áp dụng kiểm tra và khảo sát hiệu quả tiếp nhận của
học sinh sau khi đã tiến hành những khắc phục về các mặt còn tồn tại.
III. Kết quả đề tài và phương pháp sử dụng
Chuyên đề này có thể trở thành một tài liệu khá bổ Ých cho những
người giảng dạy, nhất là những người mới bước vào nghề. Nó có thể không
phải là những phát hiện hoàn toàn đúng đắn về chương trình SGK nhưng
những kết quả mà chuyên đề đã rót ra được sẽ là những định hướng nhất định
để tiếp cận kiến thức một cách toàn diện và khoa học. Từ những kết quả này
chúng ta có thể áp dụng phương pháp này để tiến hành nghiên cứu các mảng
kiến thức khác.
IV. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của chuyên đề
gồm có 3 phần lớn chia làm 3 phần:
Phần I: Cơ sở lí thuyết
Phần II: Nhận xét chương trình SGK
Phần III: Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm và nâng cao cho bài Hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ.
2
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lí thuyết
Xem xét những bài học có nội dung ngữ dụng học trong chương trình
SGK Ngữ văn THPT chóng ta phải tiếp xúc với những khái niệm của bộ môn
ngữ dụng học . Cô thể trong những cụm bài tiếng Việt đã giới hạn ở trên đó
là những khái niệm: Hoạt động giao tiếp, nhân vật giao tiếp, ngữ cảnh, hội
thoại, hàm ý… Những khái niệm trên thực ra là những khái niệm của các lí
thuyết dụng học rất chặt chẽ nhưng để học sinh dễ tiếp nhận và thông hiểu nên
chúng đã được đơn giản hóa và tách rời ra thành những đơn vị nhỏ. Để tiến
hành một bài dạy tiếng Việt thực sự có hiệu quả người giáo viên cần nắm chắc
các khái niệm đó để làm cơ sở triển khai cách xây dựng hệ thống câu hỏi còng
nh bài tập cho phù hợp và hiệu quả nhất. Những khái niệm sau đây là một
trong những khái niệm và lí thuyết nền tảng của Ngữ dụng học mà người viết
coi đó như cơ sở để tiến hành nhận xét, xây dùng câu hỏi trắc nghiệm cũng
như tạo cái nền kiến thức chung cho thực tế giảng dạy. Tuy nhiên ở đây chỉ
đưa ra những khái niệm mà chương trình chưa có điều kiện đi sâu để học sinh
nắm bắt chứ không tham vọng giới thuyết được tất cả các lí thuyết liên quan.
1. Nhân tố giao tiếp
Các nhân tố giao tiếp được hiểu là các nhân tố có mặt trong một cuộc
giao tiếp, chi phối cuộc giao tiếp đó và chi phối diễn ngôn về hình thức cũng
như về nội dung. Các nhân tố giao tiếp là: ngữ cảnh, ngôn ngữ và diễn ngôn.
Ở đây chỉ xem xét đến khái niệm ngữ cảnh.
Ngữ cảnh là những nhân tốt có mặt trong một cuộc giao tiếp nhưng
nằm ngoài diễn ngôn. Ngữ cảnh là một tổng thể những hợp phần sau đây:
Nhân vật giao tiếp: là những người tham gia vào một cuộc giao tiếp
bằng ngôn ngữ, dùng ngôn ngữ để tạo ra các lời nói, các diễn ngôn qua đó mà
3
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
tác động vào nhau. Đó là những người tương tác bằng ngôn ngữ. Giữa các
nhân vật giao tiếp có quan hệ vai giao tiếp và quan hệ liên cá nhân.
Vai giao tiếp: trong một cuộc giao tiếp có sự phân vai, vai phát ra diễn
ngôn tức là vai nói (viết), kí hiệu là SP1 và vai tiếp nhận diễn ngôn tức vai
nghe (đọc), kí hiểu SP2. Trong cuộc giao tiếp nói, mặt đối mặt, hai vai nói va
nghe thường luân chuyển, SP1 sau khi nói xong chuyển thành vai nghe SP2
và ngược lại.
Tuy nhiên trong một cuộc giao tiếp bàng lời trừ thuyết ngôn, các vai
giao tiếp trên có thể có mặt hoặc vắng mặt tiếp ngôn hoặc đích ngôn (nói
chung là người nhận) có thể ở tình trạng chủ động (có thể đáp ngay lời của
người nói) mà cũng có thể bị động (chỉ tiếp nhận không phản hồi tại chỗ).
Trong một cuộc giao tiếp người tham gia này phải xây dựng nên một
hình ảnh tinh thần về các đặc điểm, trạng thái năng lực của người kia theo
đích giao tiếp của mình để rồi căn cứ vào các hình ảnh tinh thần đó mà định
ra chiến lược hay kế hoạch giao tiếp, kế hoạch này là một tổ chức gồm các
hành động chủ yếu bằng lời để đạt đến đích của mình.
Quan hệ liên cá nhân: quan hệ vai giao tiếp là quan hệ giữa các nhân
vậy giao tiếp đối với chinh sự phát, nhận trong giao tiếp. Quan hệ liên cá
nhân là quan hệ so sánh xét trong tương quan xã hội, hiểu biết, tình cảm giữa
các nhân vật giao tiếp với nhau.
Quan hệ liên cá nhân giữa các nhân vật giao tiếp có thể xét theo 2 trục:
trục tung là trục vị thế xã hội còn gọi là trục quyền uy, trục hoành là trục của
quan hệ khoảng cách, còn gọi là trục thân cận. Quan hệ này có thể thay đổi
Ýt hoặc nhiều trong quá trình giao tiếp. Thường thì quan hệ quyền uy sẽ giữ
nguyên trong quá trình giao tiếp còn quan hệ khoảng cách có thể thay đổi.
Quan hệ liên cá nhân chi phối cả tiến trình giao tiếp, cả nội dung và
hình thức diễn ngôn. Trong các ngôn ngữ, đặc biệt là trong tiếng Việt, xưng
hô chịu áp lực rất mạnh của áp lực liên cá nhân.
4
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Hiện thực ngoài diễn ngôn: trừ nhân vật giao tiếp, tất cả những yếu tố
vật chất, xã hội, văn hoá có tính cảm tính và những nội dung tinh thần
tương ứng không được nói đến trong diễn ngôn trong quá trình giao tiếp được
gọi là hiện thực ngoài diễn ngôn (đối với ngôn ngữ thì là hiện thức ngoài
ngôn ngữ).
Tuy gồm cả những yếu tố vật chất và tinh thần nhưng hiện thực ngoài
diễn ngôn phải được nhân vật giao tiếp ý thức. Khi đã trở thành hiểu biết của
những người giao tiếp (và của những người sử dụng ngôn ngữ) thì hiện thực
ngoài diễn ngôn hợp thành tiền giả định bách khoa hay tiền giả định giao tiếp
của ngôn ngữ.
Hiện thực ngoài diễn ngôn bao gồm: Hiện thực đề tài của diễn ngôn,
hoàn cảnh giao tiếp và thoại trường.
Hiện thực - đề tài của diễn ngôn: khi giao tiếp các nhân vật giao tiếp sử
dụng diễn ngôn của mình để nói về một cái gì đó. Cái được nói tới là hiện
thực - đề tài của diễn ngôn. Hiện thực – đề tài của diễn ngôn trước hết bao
gồm những cái tồn tại, diễn tiến trong hiện thực ngoài ngôn ngữ và ngoài
diễn ngôn; cái thuộc tâm giới của con người như cảm xúc, tư tưởng, nguyện
vọng Hiện thực - đề tài của diễn ngôn còn là bản thân ngôn ngữ.
Hoàn cảnh giao tiếp bao gồm hoàn cảnh giao tiếp rộng và hoàn cảnh giao
tiếp hẹp. Hoàn cảnh giao tiếp rộng bao gồm những hiểu biết về thế giới, vật lý,
sinh lý, tâm lý, xã hội, văn hoá, tôn giáo, lịch sử các ngành khoa học, nghệ
thuật ở thời điểm và ở không gian trong đó đang diễn ra cuộc giao tiếp.
Thoại trường: được hiểu là cái không – thời gian cụ thể ở đó cuộc giao
tiếp diễn ra. Mỗi thoại trường quy định một cách thức sử dụng ngôn ngữ phù
hợp với nó.
2. Hội thoại
Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến của ngôn ngữ,
nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác. Hội thoại được
5
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
diễn ra theo những quy tắc nhất định. Những quy tắc Êy khá mềm dẻo, linh
hoạt và gắn bó chặt chẽ với ngữ cảnh.
Các quy tắc hội thoại bao gồm: quy tắc điều hành luân phiên lượt lời,
quy tắc điều hành nội dung của hội thoại và quy tắc chi phối quan hệ liên cá
nhân – phép lịch sự.
6
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
II. Nhận xét chương trình tiếng Việt có nội dung Ngữ dụng học
trong chương trình SGK THPT.
1. Cấu trúc chương trình:
Trong chương trình THPT, kiến thức ngữ dụng được phân chia đồng
đều cho cả ba khối líp 10, 11,12. Không chỉ được giảng dạy trực tiếp trong
các bài dạy thuộc phân môn Tiếng Việt, nội dung ngữ dụng còn được tích
hợp trong mét sè bài dạy thuộc phân môn Làm văn. Đây là kết quả của xu
hướng tích hợp kiến thức trong giảng dạy Ngữ Văn trong nhà trường phổ
thông. Học sinh sẽ có cơ hội tiếp cận với kiến thức ngữ dụng ở nhiều chiều,
nhiều góc độ kiến thức. Trong phạm vi chuyên đề này chỉ xem xét những bài
dạy tiếng Việt. Cấu trúc chương trình ngữ dụng ở bậc trung học phổ thông
được thể hiện cụ thể trong bảng thống kê dưới đây:
STT Líp Nội dung dạy ngữ dụng Ghi chó
1.
SGK 10 – T1.
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ (thế nào là hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ).
- Hoạt động giao tiếp bằng ngôn
ngữ (tiếp theo) (Luyện tập).
Bài 1 –
trang 14.
Bài 2 –
trang 20.
2.
SGK 11 – T1.
- Ngữ cảnh
+ Khái niệm.
+ Các nhân tố của ngữ cảnh.
+ Vai trò của ngữ cảnh.
+ Luyện tập.
Bài 10 –
trang 102.
3.
SGK 12 – T1.
Ban KHXH
Sách thí điểm.
- Hàm ý hội thoại (khái niệm
hàm ý hội thoại).
- Hàm ý hội thoại (tiếp theo) (tác
dụng của hàm ý).
Bài - trang
183.
Bài - trang
236.
Dùa vào bảng thống kê, có thể thấy cấu trúc chương trình ngữ dụng ở
bậc trung học phổ thông khá đồng đều. Nội dung ngữ dụng được phân bố
7
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
đảm bảo cho mỗi khối líp đều có điều kiện giảng dạy kiến thức ngữ dụng.
Việc phân chia cấu trúc chương trình như vậy sẽ giúp học sinh tiếp nhận kiến
thức ngữ dụng một cách hệ thống. Các kiến thức ngữ dụng trong chương
trình học THPT ở mức độ chuyên sâu hơn, nội dung bài học đa dạng và
phong phú hơn, bài tập đưa ra có số lượng lớn hơn so với những líp dưới, tạo
điều kiện cho học sinh thực hành kiến thức.
Ở chương trình sách giáo líp 10, kiến thức ngữ dụng phân bố trong một
bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” được giới hạn trong hai tiết. Nội
dung ngữ dụng trong chương trình líp 10 chiếm 7,56% chương trình Tiếng
Việt (kể cả phần Ôn tập cuối năm). Nhìn chung đây là một tỉ lệ hợp lí, kiến
thức ngữ dụng đưa vào không quá dài cũng không quá ngắn. Với hai tiết dạy
này, học sinh hoàn toàn có thể nắm được những kiến thức cơ bản, đồng thời
có thời gian luyện tập về những nội dung kiến thức vừa lĩnh hội.
Ở chương trình sách giáo líp 11, kiến thức ngữ dụng có trong một bài
“Ngữ cảnh”, giới hạn trong một tiết, chiếm gần 5,5% cấu trúc chương trình
Tiếng Việt (kể cả bài Ôn tập). So với líp 10, tỉ lệ nội dung ngữ dụng đưa vào
sách giáo khoa ở líp 11 có giảm đi. Nhưng trên thực tế, trong một tiết học Êy,
học sinh được tiếp cận với rất nhiều kiến thức (khái niệm, các nhân tố của
ngữ cảnh, vai trò của ngữ cảnh) đồng thời phải giải quyết một khối lượng bài
tập nhất định. Do vậy, có thể thấy kiến thức ngữ dụng đưa vào líp 11 là cũng
đáng kể.
Ở chương trình sách giáo líp 12, kiến thức ngữ dụng được giới thiệu
trong một bài “Hàm ý hội thoại”, giới hạn trong ba tiết. Cấu trúc chương trình
ngữ dụng líp 12 chia đều cả lí thuyết và luyện tập ở ba tiết. Trong từng tiết
học, học sinh vừa được tiếp cận với các nội dung kiến thức vừa được thực
hành. Nh vậy học sinh sẽ không bị giãn cách trong việc tiếp nhận, kiến thức
vừa được lĩnh hội sẽ được củng cố lại qua thực hành. Việc phân chia cấu trúc
chương trình như vậy còn phù hợp với nội dung kiến thức, bởi trong hai tiết,
8
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
học sinh được tiếp cận với một khối lượng kiến thức khá lớn (khái niệm hàm
ý hội thoại, cách thức tạo câu có hàm ý).
Nhìn chung kiến thức ngữ dụng được đưa vào phân môn tiếng Việt
trong chương trình THPT được phân bố khá hợp lí, vừa tầm nhận thức và
cũng vừa đủ tầm để có thể vận dụng được.
2. Nội dung kiến thức.
Trong bố cục của một bài tiếng Việt bao giê cũng gồm hai phần: lí
thuyết và luyện tập. Đi vào xem xét nội dung kiến thức được đưa ra trong
chương trình người viết cũng đi theo hướng đó.
2.1. Nội dung kiến thức
2.1.1 Bài “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” (tiết 1)
a. Ưu điểm
Cấu trúc bài học được chia làm 2 phần: lí thuyết về Thế nào là hoạt
động giao tiếp bằng ngôn ngữ” và “Luyện tập” vào 2 tiết tách rời nhau giúp
học sinh có thời gian nắm chắc lí thuyết và chuẩn bị bài tập ở nhà trước, giê
học bởi thế sẽ có hiệu quả hơn, học sinh sẽ phát huy được tính chủ động tích
cực trong giê học.
Nội dung kiến thức về ngữ dụng được đưa vào chương trình líp 10 là
vừa sức với học sinh. Những kiến thức về hoạt động giao tiếp, nhân vật giao
tiếp, vai giao tiếp, lượt lời, hoàn cảnh, nội dung giao tiếp, mục đích giao
tiếp đều đã được trình bày cho học sinh tiếp cận từ các líp dưới.
Về ngữ liệu: trong phần 1, ngữ liệu Hội nghị Diên Hồng ngắn gọn, rõ
ràng, bảo đảm đủ thông tin để phân tích cho học sinh nắm được hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ. Văn bản đưa ra cũng đã quen thuộc với học sinh từ
chương trình THCS nên dễ tiếp cận. Trên nền văn cảnh quen thuộc, học sinh
sẽ dễ dàng trả lời chính xác các câu hỏi do SGK đặt ra.
Câu hỏi để phân tích ngữ liệu rõ ràng, dễ hiểu, có kèm theo câu hỏi gợi
mở để học sinh tiếp cận vấn đề từng bước là rất khoa học. Câu hỏi đặt ra ở
9
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
hai phần, nhìn chung không có câu nào đặt học sinh vào tình thế quá khó để
lùa chọn câu trả lời. Mỗi câu hỏi đề cập đến một vấn đề của hoạt động giao
tiếp, có logic trình tự hợp lí, đi từ đối tượng thực hiện hoạt động giao tiếp
(nhân vật giao tiếp), qua sự luân phiên lượt lời của hoạt động giao tiếp đến
hoàn cảnh giao tiếp để từ đó hiểu nội dung cuộc giao tiếp, nhằm mục tiêu
cuối cùng là hiểu mục đích giao tiếp, kết quả giao tiếp. Phân bố câu hỏi theo
trình tự Êy, học sinh sẽ có được tâm thế nhận thức về hoạt động giao tiếp một
cách logic và khoa học.
b. Tồn tại
Trong phần ghi nhớ tổng kết cuối tiết học, SGK chia ra 3 nội dung cơ
bản rất rõ ràng: khái niệm về hoạt động giao tiếp, hai quá trình hình thành
hoạt động giao tiếp và các nhân tố chi phối đến hoạt động giao tiếp. Tuy
nhiên, phần đề mục của tiết học lại chỉ đề cập đến “Thế nào là hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ” rất dễ khiến học sinh hiểu rằng bài học chỉ tìm hiểu
về khái niệm hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Do đó, để thống nhất với
nội dung bài học cũng như kiến thức cơ bản cần nắm cuối bài, nên sửa mục I
thành “Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ” sẽ khái quát đúng được các nội
dung trong bài học.
Không chỉ có sự không thống nhất giữa đề mục và ghi nhớ, mà giữa
nội dung bài học và những kiến thức cần ghi nhớ cũng tồn tại một số chênh
lệch. Mục đầu tiên của ghi nhớ nêu khái niệm hoạt động giao tiếp là “hoạt
động trao đổi thông tin của con người trong xã hội, được tiến hành chủ yếu
bằng phương tiện ngôn ngữ (dạng nói và dạng viết), nhằm thực hiện những
mục đích về nhận thức, về tình cảm, về hành động”. Mục 2 của ghi nhớ nêu
lên: “Mỗi hoạt động giao tiếp gồm hai quá trình: tạo lập văn bản (do người
nói, người viết thực hiện) và lĩnh hội văn bản (do người nghe, người đọc thực
hiện). Hai quá trình này diễn ra trong quan hệ tương tác”. Nhưng trong cả
hai phần hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu không có một câu nào đề cập
10
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
đến “hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ là gì” và quá trình thiết lập hoạt
động giao tiếp.
Để “nâng cao kĩ năng phân tích, lĩnh hội và tạo lập văn bản trong
giao tiếp” nh phần Kết quả cần đạt đưa ra, trước hết cần giúp học sinh
“nắm được kiến thức cơ bản về hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”. Nếu
những kiến thức Êy chỉ được đưa ra trong quá trình giáo viên giảng hoặc ở
phần ghi nhớ, học sinh sẽ bị đặt vào thế bị động, áp đặt tiếp nhận kiến thức,
làm giảm vai trò tích cực chủ động của học sinh. Do đó cần thiết phải đưa ra
câu hỏi để học sinh tự phát hiện và lĩnh hội hai vấn đề trên.
Chẳng hạn, trước khi đưa ra 2 ngữ liệu 1 và 2 cùng các hệ thống câu
hỏi phân tích ngữ liệu, giáo viên có thể yêu cầu học sinh chia làm 2 nhóm,
thực hiện giao tiếp với nhau bằng hai dạng nói và viết về một nội dung nhất
định: một nửa líp giao tiếp bằng ngôn ngữ nói về thời tiết; nửa líp còn lại giao
tiếp bằng ngôn ngữ viết bằng cách viết một tờ đơn xin nghỉ học. Sau đó chọn
bất kì và đưa ra câu hỏi để học sinh tiếp cận vấn đề:
- Hoạt động bàn bạc về thời tiết và viết đơn xin nghỉ học là hoạt động
giao tiếp. Hoạt động đó được tạo lập nh thế nào? Nhằm mục đích gì?
- Khi thực hiện một hoạt động giao tiếp, chúng ta đã thực hiện những
hành động gì? Sử dụng phương tiện gì là chủ yếu? Ngoài ra còn dùng những
phương tiện nào?
Đưa thêm hoạt động này vào, học sinh vừa hiểu rõ được về hoạt động
giao tiếp, vừa được áp dụng kiến thức vào thực tiễn để bước đầu hoàn thành kĩ
năng.
Tuy nhiên, với nội dung kiến thức này, yêu cầu rèn luyện, nâng cao kĩ
năng phân tích, lĩnh hội và tạo lập văn bản trong giao tiếp là trọng yếu. Do
đó, cần bố trí câu hỏi phân tích về các nhân tố chi phối hoạt động giao tiếp
vối số lượng lớn như SGK đã đưa là hợp lí.
11
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Về kĩ năng, ở mục 2, ngữ liệu được chọn là bài Tổng quan văn học
Việt Nam có dung lượng quá dài và ở mức độ khó so với học sinh đang tìm
hiểu về hoạt động giao tiếp. Việc đưa ngữ liệu dài sẽ làm học sinh phân tán,
khó tập trung vào kiến thức cần nắm. Ngữ liệu này khó ở chỗ người tạo lập
và người tiếp nhận văn bản đều không thể xác định cụ thể, hoàn cảnh tạo lập
giao tiếp cũng không rõ ràng, học sinh khó trả lời một cách chính xác các câu
hỏi. Nên chọn một đoạn trong văn bản hoặc thay bằng một ngữ liệu ngắn
hơn: một bài thơ, một bài ca dao hoặc một truyện cười dân gian
2.1.2 Bài Ngữ cảnh
a. Ưu điểm.
Phần nội dung lí thuyết của bài học Ngữ cảnh được phân bố rất rõ
ràng, rành mạch từ đề mục lớn đến các đề mục nhỏ. Trình tự của các phần (từ
phần lớn đến phần nhỏ) cũng được sắp xếp, đảm bảo tính logic và khoa học:
đi từ khái niệm đến các nhân tố cấu thành và cuối cùng là vai trò của ngữ
cảnh. Trình tự này hoàn toàn phù hợp với quy luật tiếp nhận và nhận thức của
học sinh. Nội dung kiến thức đưa vào bài học là vừa sức với học sinh. Bài
học gần như là một sự hệ thống lại kiến thức cho học sinh dễ có cái nhìn khái
quát về kiến thức, tránh sự nhỏ lẻ vụn vặt và nhầm lẫn các khái niệm như ở
các líp dưới, chứ không mang tính chất trình bày kiến thức hoàn toàn mới.
Các nội dung của Ngữ cảnh được đưa ra rất linh hoạt và không gây
nhàm chán. Cụ thể nh sau:
Trong mục “Khái niệm”, kiến thức được đưa ra theo hình thức quy
nạp: đi từ ví dụ cụ thể để đưa ra khái niệm. Ngay trong cách đưa ngữ liệu đã
có thể gây hứng thó cho học sinh, đó là cách đưa ra hàng loạt các câu hỏi và
khẳng định theo lối phản đề: “Nếu đột nhiên nghe được câu nói này, không
biết bối cảnh sử dụng của nó thì khôn mét ai có thể trả lời được những câu
hỏi trên”. Cách đặt vấn đề này gây chú ý và học sinh sẽ tập trung vào phần
trả lời và phân tích ngữ liệu ở mục sau.
12
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Đến mục “Các nhân tố của ngữ cảnh”: kiến thức lại được đưa ra theo
hình thức diễn dịch. Nghĩa là, SGK đưa ra khái niệm trước, sau đó mới lấy
ngữ liệu và phân tích ngữ liệu để mình hoạ làm sáng rõ.
Về ngữ liệu được lùa chọn: mang tính chất tích hợp giữa ngữ và văn,
lại là những ngữ liệu quen thuộc, dễ tiếp vận và phân tích, rèn luyện khả năng
phân tích tác phẩm văn chương từ góc độ của ngữ dụng học, của hoạt động
giao tiếp bằng ngôn ngữ.
Phần ghi nhớ đưa ra 3 điểm tương ứng với 3 phần lớn trong nội dung
bài học rất súc tích, rõ ràng và thể hiện được sự nhất quán cao. Các nội dung
đưa ra đều hướng tới và phục vụ cho kiến thức cần ghi nhớ ở cuối bài.
b. Tồn tại.
Bài học Ngữ cảnh được thiết kế trên hình thức diễn giải là chủ yếu.
Nhìn vào nội dung lí thuyết này học sinh không có cơ hội để phát huy tính
chủ động, tính tích cực trong lĩnh hội kiến thức. Các khái niệm về ngữ cảnh
không phải là những khái niệm đơn giản nên việc đưa trực tiếp khái niệm để
học sinh nắm bắt là hợp lí, song cần thiết phải phân tích rõ ràng ngữ liệu, để
tránh học sinh ghi nhớ máy móc.
Phần 1 đưa ra cách khẳng định phản đề gợi sự chú ý và tò mò của học
sinh. Phần 2, khi đưa ra bối cảnh phát sinh của câu: “Giờ muộn thế này mà
họ chưa ra nhỉ?” nên bỏ phần phân tích ngữ liệu mà thay vào đó là yêu cầu
học sinh dùa vào bối cảnh trên hãy trả lời các câu hỏi mà phần 1 đã đưa ra để
thấy được vai trò của bối cảnh và nhận diện về bối cảnh. Nh thế khi đưa ra
khái niệm bối cảnh, học sinh sẽ dễ dàng hiểu rõ bản chất. Có thể để nguyên
phần khái niệm vì rót ra khái niệm chính xác là một yêu cầu hơi khó đối với
học sinh THPT
Ở phần 2 và 3 còng vậy. Nên xây dựng theo cách đưa khái niệm ra và yêu
cầu học sinh từ khái niệm cơ bản đó phân tích ngữ liệu trên để thấy trong ngữ
liệu Êy đâu là nhân vật giao tiếp, đâu là bối cảnh ngoài ngôn ngữ, đâu là văn
13
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
cảnh để từ đó rót ra vai trò của ngữ cảnh đối với người nói (người viết) và người
nghe (người đọc). Nh vậy, vừa kiểm tra được mức độ hiểu khái niệm của học
sinh vừa phát huy được tính tích dực, chủ động của học sinh trong giê học.
Về ngữ liệu, từ phần “Khái niệm”, đến mục 1 và 2 đều sử dụng ngữ
liệu là câu nói của chị Tí và lời kể của tác giả trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”
của Thạch Lam. Nhưng đến mục 3 lại dùng ngữ liệu là bài thơ “Câu cá mùa
thu” của Nguyễn Khuyến làm mất đi tính hệ thống của ngữ liệu trong bài. Do
đó hoặc là mục 3 dùng ngữ liệu thống nhất với các mục khác. Hoặc là mỗi
mục lấy một cứ liệu khác nhau cho phong phú nội dung bài học. (Có thể lấy
truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao để phân tích khái niệm nhân vật giao
tiếp, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du để phân tích bối cảnh ngoài ngôn ngữ).
Về thuật ngữ cũng có một số tồn tại nhỏ. Đó là sự không thống nhất
giữa thuật ngữ cũng trong mục 3 khi viết về văn cảnh, sau khi đưa ra khái
niệm và phân tích ngữ liệu thì sách giáo khoa lại kết luận rằng: “Các từ ngữ
này, và nói chung, tất cả các từ ngữ, câu thơ trong bài tạo nên ngữ cảnh cho
từ cần, ngữ cảnh đó làm cơ sở cho người viết dùng từ cần và người đọc hiểu
được nó”. Khi đang minh hoạ làm rõ khái niệm văn cảnh thì ở trường hợp
này phải sửa thành văn cảnh chứ không phải là ngữ cảnh.
Cũng về mặt thuật ngữ, do để phù hợp với tầm nhận thức của học sinh
phổ thông, các khái niệm ngữ dụng đã được đơn giản hoá và biến đổi Ýt
nhiều so với lí thuyết dụng học. Ở đây là khái niệm “hiện thực được nói tới”.
Như ở cơ sở lí thuyết đã trình bày phía trên, một trong các yếu tố của Ngữ
cảnh là hiện thực ngoài diễn ngôn, trong đó bao gồm hiện thực đề tài của diễn
ngôn (hiện thực ngoài ngôn ngữ), hoàn cảnh giao tiếp (hoàn cảnh giao tiếp
rộng) và thoại trường (hoàn cảnh giao tiếp hẹp). Khái niệm “bối cảnh ngoài
ngôn ngữ” tương đương với khái niệm “hiện thực ngoài ngôn ngữ”, hoàn
cảnh giao tiếp và thoại trường tương đương với bối cảnh giao tiếp rộng và bối
cảnh giao tiếp hẹp. Nhưng khái niệm “hiện thực được nói tới” lại có phần
14
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
không tương đồng với hiện thực - đề tài của diễn ngôn (của ngôn ngữ). Quy
chiếu sang khái niệm này dễ làm học sinh nhầm lẫn với “nội dung được nói
tới trong diễn ngôn” chứ không phải là “hiện thực bên ngoài các nhân vật, có
thể hiện thực tâm trạng của con người” như đã nêu về khái niệm. Do đó nên
dùng đúng thuật ngữ của dụng học đi kèm theo những giải thích của giáo
viên hơn là đơn giản hoá nhưng dễ nhầm lẫn này.
2.3 Bài Hàm ý hội thoại
Trong SGK líp 12, với dung lượng thời gian là 3 tiết, trong đó mỗi tiết
được chia đều cả phần lí thuyết và thực hành, do vậy học sinh có điều kiện ôn
tập ngay những kiến thức vừa học.
a. Ưu điểm
Nội dung bài học Hàm ý hội thoại được chia thành 3 tiết học. Mỗi tiết
học có kết cấu 2 phần: Phân tích ngữ liệu và Luyện tập. Thiết kế bài học như
trên giúp học sinh có thể tiếp cận kĩ càng được kiến thức về hàm ý hội thoại ở
từng khía cạnh, từng góc độ của vấn đề, từ khái niệm hàm ý hội thoại, tác
dụng của hàm ý hội thoại cho đến một số cách thức tạo câu có hàm ý. Những
phương diện của hàm ý hội thoại được lùa chọn đưa vào bài học vừa cung
cấp hiểu biết cho học sinh về hàm ý hội thoại, vừa rèn luyện và nâng cao kĩ
năng sử dụng hàm ý trong hội thoại, trong giao tiếp.
Các khái niệm cũng như vấn đề được đưa vào bài học đều là những
khái niệm và kiến thức học sinh đã được học ở líp dưới, nhưng ở mức độ thấp
hơn. Ví dụ như bài Các phương châm hội thoại trong chương trình SGK líp 9,
tập 1; bài nghĩa tường minh và hàm Èn trong chương trình SGK líp 9, tập 2.
Do đó nội dung lí thuyết đưa ra là vừa sức. Mỗi tiết học đi sâu vào một khía
cạnh ở mức độ chi tiết và cao hơn, khó hơn so với các líp dưới cũng là phù
hợp với tầm nhận thức của học sinh líp 12 THPT.
15
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Về ngữ liệu, tất cả các ngữ liệu trong bài học đều thuộc chương trình
SGK 12 thí điểm, giúp học sinh thấu hiểu ngữ liệu để dễ dàng trả lời một
cách chính xác những câu hỏi phân tích ngữ liệu. Ngữ liệu trích dẫn trong bài
có một ưu điểm lớn là ngắn gọn, rõ ràng và được lùa chọn rất phù hợp để học
sinh tiếp nhận kiến thức về hàm ý hội thoại. Ngữ liệu đưa ra đều là những tác
phẩm văn chương đặc sắc, sẽ phát huy được phương pháp tích hợp trong dạy
học ngữ văn. Từ hướng khai thác các tác phẩm văn chương ở góc độ ngôn
ngữ, ngữ dụng học này, học sinh có cái nhìn toàn diện hơn, kĩ càng hơn về
tác phẩm và rèn luyện thêm cách hiểu văn bản nghệ thuật.
Về câu hỏi phân tích ngữ liệu, cả 3 tiết câu hỏi đặt ra đều rất rõ ràng,
rành mạch. Câu hỏi phần lớn đúng với nội dung kiến thức cần đạt được mà
phần ghi nhớ đã tổng kết:
Trong tiết 2 (Tác dụng của hàm ý), phần ghi nhớ nêu lên bốn tác dụng
cơ bản thường gặp của hàm ý trong hội thoại, thì hệ thống câu hỏi phân tích
ba ngữ liệu đều hướng vào bốn tác dụng đó, giúp học sinh hiểu và ghi nhớ
kiến thức dễ dàng. Ví dụ từ ngữ liệu 1, học sinh có thể thấy từ một câu nói
ngắn gọn của ông Lí mà chứa rất nhiều Èn ý bên trong; ở ngữ liệu 2 câu trả
lời của Mai trước thái độ quát tháo của bà Án: “Thưa cụ, đây là nhà tôi, chứ
không phải là dinh quan tri huyện, xin cụ nhí cho” vừa thể hiện được tính
lịch sự trong giao tiếp, vừa có thể dự đoán được hiệu quả mạnh mẽ của câu
nói hàm ý đối với người nghe; ở ngữ liệu 3 các câu hỏi không nhằm mục đích
hỏi của Từ đều tìm “sự vô can, không phải chịu trách nhiệm” về những nội
dung rất tế nhị và khó nói mà Từ nói với Hé.
Trong tiết 3 (Một số cách tạo câu có hàm ý) hệ thống câu hỏi phân tích
ngữ liệu cũng thể hiện ưu điểm này. Bốn ngữ liệu và bốn hệ thống câu hỏi
hướng vào 4 cách cơ bản để tạo câu có hàm ý mà phần ghi nhớ nêu lên. Chẳng
hạn: câu trả lời của nhân vật anh thanh niên tuyên truyền cách mạng trong Đôi
mắt (Nam Cao) ở ngữ liệu 1 là minh chứng cho sự cố ý vi phạm một phương
16
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
châm hội thoại: đi chệch khỏi đề tài của cuộc thoại để tạo hàm ý. Câu trả lời
của A Phủ trong ngữ liệu 2: “Tôi về lấy súng, thể nào cũng bắt được con hổ
này to lắm” vừa là chủ ý nói thừa thông tin, vừa nói thiếu lượng tin để tạo hàm
ý. Trong ngữ liệu 3 lời kể lể dài dòng của lão Hạc về việc con Vàng bị bắt
cũng là sự cố ý thừa lượng tin nhằm thể hiện nỗi đau đơn, dằn vặt của ông lão
đối với con chã Vàng. Trong phần 4, câu hỏi của Bá Kiến minh chứng cho lối
nói gián tiếp, thực hiện hành động nói gián tiếp khi chủ ý tạo hàm ý hội thoại.
Mỗi ngữ liệu đưa ra đều có thể chứa đựng tất cả các khía cạnh của hàm ý
hội thoại. Người biên soạn đã chọn nhiều ngữ liệu để tạo sự phong phú đem lại
hứng thó cho học sinh. Hơn nữa, hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu cũng lại rất
sắc sảo khi tùy từng mục đích mà khai thác ngữ liệu ở mỗi góc độ khác nhau.
b. Tồn tại.
Tiết 1:
Hai ngữ liệu được dẫn ra là hai ngữ liệu rất hợp lí minh chứng cho khái
niệm hàm ý hội thoại. Tuy nhiên, hệ thống câu hỏi phân tích hai ngữ liệu này
chưa thực sự hướng vào nội dung được tổng kết trong ghi nhí.
Phần ghi nhớ của tiết 1 viết: “Hàm ý hội thoại là những nội dung, ý
nghĩ mà người nói không trực tiếp nói ra bằng từ ngữ, tuy vẫn có ý định
thông báo đến người nghe, còn người nghe phải dùa vào nghĩa tường minh
của câu và tình huống giao tiếp của câu để suy ra thì mới hiểu hết, hiểu đúng
được ý người nói.” Để học sinh có thể từ ngữ liệu nhận biết hai vấn đề trên
cần khắc phục một số câu hỏi phân tích ngữ liệu.
Ở ngữ liệu 1, câu hỏi a cần sửa thành: “Ở lượt lời mở đầu cuộc thoại,
Bá Kiến có nói câu “Tôi không phải là cái kho”. Đây có phải nội dung đích
thực mà Bá Kiến muốn thông báo không? Nói thế có hàm ý gì”. Đưa ra câu
hỏi này kết hợp với câu b sẽ hướng nhận thức của học sinh vào ý thứ nhất của
ghi nhớ. Để giúp học sinh tù rót ra được cách mà người nghe suy ra hàm ý
như ý thứ hai mà ghi nhớ nêu lên, cần bổ sung thêm câu hỏi nhận biết, có tể
17
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
sửa câu hỏi c về lượt lời của Chí Phèo để hướng học sinh đến nội dung này:
“Ở lượt lời thứ nhất và thứ hai của mình, Chí Phèo chưa nói hết ý mình. Dùa
vào đâu để có thể nhận ra điều đó. Phần hàm ý còn lại được tường minh hóa
(được nói rõ) ở lượt lời nào? Vì sao có cách nói đó?”
* Tiết 2: Tác dụng của hàm ý.
+ Câu hỏi b trong ngữ liệu 1 hái:
“Lời đáp của ông Lí có hàm ý gì? Hãy chọn những nội dung sau đây
mà anh (chị) cho là thích hợp:
- Khẳng định một cách mạnh mẽ và cứng rắn thái độ không khoan
nhượng, không tha cho bác Phô.
- Bộc lé được một cách đắc ý quyền uy của mình
- Bộc lé được sự mỉa mai, khinh miệt sự tuỳ tiện, cảm tính của đàn
bà.”
Xuất hiện 2 tồn tại trong cách đặt câu hỏi phân tích ngữ liệu ở đây:
Thứ nhất, nội dung những phương án đưa ra cho học sinh lùa chọn ở
đây là chưa toàn diện. Vì trong câu trả lời của ông Lí còn bộc lé cả sự hống
hách, hách dịch của bề trên chứ không chỉ là đắc ý hay khinh miệt và từ chối.
Do đó đặt học sinh trong tình huống lùa chọn này là không thực sự tối ưu.
Có thể khắc phục bằng cách đưa thêm một phương án lùa chọn nữa
bao hàm được đủ các hàm ý của câu nói hơn: “Khẳng định sự từ chối, bộc lé
sự hống hách, quyền uy của mình và mỉa mai bác Phô gái”
Thứ hai, đây không phải là một văn bản lạ, học sinh đã được đọc hiểu
trong chương trình Văn thí điểm líp 12. Hơn nữa đối tượng tiếp nhận ở đây là
học sinh líp 12 THPT, tầm tiếp nhận cũng như khả năng tư duy, phân tích đã
phát triển ở mức độ tương đối cao, do đó trước câu hái: “Lời đáp của ông Lí
có hàm ý gì?” về một văn bản đã quen thuộc, học sinh hoàn toàn có thể trả
lời được. Có thể không trọn vẹn nhưng việc đưa ra phương án lùa chọn cho
học sinh trong trường hợp này làm giảm cơ hội rèn luyện tư duy còng nh khả
18
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
năng phân tích của học sinh. Hơn nữa các ý kiến khác cũng như giáo viên
hoàn toàn có thể bổ sung cho câu trả lời đầy đủ. Vì vậy ở câu hỏi này cũng
hoàn toàn có thể cất bỏ phần lùa chọn để học sinh chủ động khai thác và tiếp
cận kiến thức.
Câu hái c còng trong ngữ liệu 1 hái: “Có phải ông Lí nói một câu mà
Èn chứa nhiều hàm ý không?” là hoàn toàn thừa. Vì khi giải quyết câu hỏi b
ở trên học sinh đã có thể tự nhận ra được rất nhiều hàm ý trong câu nói của
ông Lí. Mặt khác, một câu hỏi mà câu trả lời chỉ đòi hỏi đúng hoặc sai với
trình độ của học sinh líp 12 là hoàn toàn không phù hợp. Do đó nên cắt bỏ
câu hỏi c để hệ thống câu hỏi phân tích ngữ liệu 1 được hợp lí.
Trong ngữ liệu 2, câu a đưa ra câu hỏi về hàm ý trong câu trả lời của
Mai nhưng lại để lé phần trả lời ngay trong lời hái: “nhưng Mai đã ôn tồn
đáp lại một cách nhẹ nhàng và lịch sù nh thế nào?”. Cách đặt câu hỏi mang
tính chất mớm lời này khiến học sinh không phải tư duy nhiều, hạn chế tính
tích cực chủ động của học sinh trong tiết học. Do đó chỉ nên hái: “Bà Án
quát tháo và ra lệnh cấm đoán Mai, nhưng Mai đã trả lời nh thế nào?…” là
đủ.
Tiết 3 (Một số cách thức tạo câu có hàm ý).
Câu hái b để phân tích ngữ liệu 1, cũng được xây dựng theo hướng lùa
chọn. Cũng giống nh đã phân tích ở trên về hình thức câu hỏi lùa chọn, có thể
khắc phục bằng cách cắt bỏ phần lùa chọn, câu hỏi khi Êy chỉ còn: “Theo anh
(chị), anh thanh niên có ý gì khi nói dài dòng nh vậy?” để học sinh tự trả lời.
Nếu vẫn muốn lùa chọn hình thức câu hỏi lùa chọn thì cần chỉnh sửa
lại nội dung của các phương án lùa chọn. Bởi lệnh câu hỏi đưa ra là: “đánh
dấu vào khả năng anh (chị) tán thành” nhưng hai phương án lùa chọn lại
không toàn diện. Cần đưa ra một phương án thứ ba gộp cả hai nội dung đó để
học sinh lùa chọn.
19
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Trường hợp cũng tương tù nh vậy với câu hỏi b của phần ngữ liệu 3.
Nên cắt bỏ cụm lệnh: “chọn trong các khả năng” đi để những ý còn lại:
thanh minh cho bản thân, thể hiện sự ân hận và lòng thương yêu con chã,
biểu lé sự đồng cảm với con chó… trong dấu ngoặc đơn nh mét số gợi ý để
học sinh trả lời.
Nh vậy, về cơ bản nội dung lí thuyết được đưa vào giảng dạy trong
chương trình SGK THPT là tương đối rõ ràng, rành mạch, phát huy được khả
năng tích cực và chủ động tư duy của học sinh. Một số tồn tại đã chỉ ra ở trên
hoàn toàn có thể khắc phục dễ dàng trong quá trình giảng dạy thực tế.
III. Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm cho bài Hoạt động giao tiếp
bằng ngôn ngữ.
Trên cơ sở nhận diện được những tồn tại cũng như ưu điểm của phần
nội dung kiến thức Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ đã phân tích ở trên,
người viết thử xây dựng một phiếu trắc nghiệm kiểm tra nhanh mức độ nắm
bài của học sinh ngay sau giê lên líp theo ma trận sau:
Nội
dung
trắc
nghiệm
Mức độ đánh giá
Hoạt
động
giao
tiếp
bằng
ngôn
ngữ
Nhận
biết
Thông
hiểu
Vận
dông
Phân tích Tổng
hợp
Đánh giá
TN TL TN TL TN TL TN TL TN TL TN TL
4 0 1 0 4 0 3 0 1 1 1 0
Những câu ở mức độ đánh giá phân tích, tổng hợp, đánh giá là những
câu nâng cao. Đặc biệt là câu tự luận ngắn nhằm phân hóa học sinh ngay sau
giê lên líp. Vì là phiếu đánh giá nhanh nên số lượng câu hỏi không nên quá
nhiều và quá khó.
Phiếu trắc nghiệm nhanh
Câu 1: Đọc kĩ đoạn chèo Quan Âm Thị Kính và thực hiện các yêu cầu sau:
20
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Thị Kính( khóc): Lạy cha, lạy mẹ! Cho con được trình cha mẹ…
Sùng Bà: Thôi câm đi! Lại còn dám mở mồm nữa à?
(Tiến lại phía Thiện Sĩ): úi chao! Hú hồn hú vía cho con tôi! Giải kiếp!
Giải kiếp! (quay lại Thị Kính)(nói lệch):
Cả gan! Cả gan! Con này thật cả gan!
May cho con tao chợt tỉnh giấc vàng,
Tỉnh tình tinh nữa còn gì không chết
Này con kia! Mày có trót say hoa đắm nguyệt
Đã đến trên dâu dưới bộc hẹn hò…
Thị Kính(vật vã khóc): Trời ơi! Mẹ ơi, oan cho con lắm mẹ ơi…
Yêu cầu: Điền vào chỗ trống để hoàn thành các câu sau:
1. Các nhân vật giao tiếp trong đoạn chèo trên có quan hệ với nhau
như thế nào?
a. Thị Kính-Sùng Bà:
b. Thị Kính-Thiện Sĩ:
c. Thiện Sĩ-Sùng Bà:
2. Các nhân vật giao tiếp sử dụng ngôn ngữ như thế nào, và điều
đó thể hiện vị thế gì ở họ?
a. Ngôn ngữ của Thị Kính:
b. Ngôn ngữ của Sùng Bà:
3. Hoạt dộng giao tiếp của đoạn trích trên hướng vào những mục
đích gì?
a. Mục đích của Thị Kính:
b. Mục đích của Sùng Bà:
Câu 2: Chức năng nào là quan trọng nhất trong giao tiếp bằng ngôn ngữ:
a. Thông tin
b. Tình cảm
c. Suy nghĩ
d. Hành động
Câu 3: Trong giao tiếp, ngôn ngữ có những chức năng cơ bản nào?
a. Chức năng thông báo
21
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
b. Chức năng bộc lé
c. Chức năng tác động
d. Cả a,b,c
Câu 4: Một bản dự báo thời tiết trên mạng có chức năng cơ bản là:
a. Chức năng thông báo
b.Chức năng bộc lé
c.Chức năng tác động
d.Cả a,b,c
Câu 5: Trong giao tiếp, nhân tố nào chủ yếu chứa đựng thông tin giao tiếp:
a. Nhân vật giao tiếp
b. Công cô giao tiếp
c. Nội dung giao tiếp
d. Hoàn cảnh giao tiếp
Câu 6: Để giao tiếp với người người nước ngoài mới gặp lần đầu có
hiệu quả, thông tin nào sau đây về đối tượng giao tiếp là quan trọng nhất:
a. Tâm lí của đối tượng
b. Văn hoá, tôn giáo của đối tượng
c. Sở thích, thãi quen của đối tượng
d. Đặc điểm khí chất của đối tượng
Câu 7: Để giao tiếp với tác giả văn học, ta phải có thái độ gì?
a. Đồng tình
b. Đồng lòng
c. Đồng cảm
d. Đồng ý
Câu 8: Để giao tiếp theo phương châm “nói có sách mách có chứng”,
người giao tiếp phải sử dụng phương tiện biểu đạt nào:
a. Lập luận
b. Biểu cảm
c. Tụ sù
d. Thuyết minh
22
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
Câu 9: Câu tục ngữ “Lời nói chẳng mất tiền mua-Lựa lời mà nói cho
vừa lòng nhau” khuyên chúng ta điều gì trong giao tiếp:
a. Lùa chọn đối tượng giao tiếp
b. Lùa chọn hoàn cảnh giao tiếp
c. Lùa chọn ngôn ngữ giao tiếp
d. Lùa chọn công cụ giao tiếp
Câu 10: Ca dao chủ yếu ra đời trong hoàn cảnh giao tiếp nào:
a. Trong chiến đấu
b. Trong lao động
c. Trong nghi lễ
d. Trong học tập
Câu 11: Dòng nào sau đây không phải là các quá trình của hoạt động
giao tiếp:
a. Sản sinh và lĩnh hội
b. Tạo lập và tiếp nhận
c. Tâm tư và kí thác
d. Mã hóa và giải mã
Câu 12: Nhân vật giao tiếp (người nói) trong bài ca dao sau là ai?
Hôm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn trông sao sao mê
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mê
a. Chàng trai
b. Chàng trai và cô gái
c. Cô gái, người cha và người mẹ
Câu 13: Đối tượng giao tiếp hướng tới trong bài ca dao trên là ai:
a. Cá
b. Nhện
c. Sao
23
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
d. Ai
Câu 14: Nội dung được thể hiện trong bài ca dao trên là:
a. Miêu tả cảnh đêm
b. Miêu tả những thời điểm trong đêm
c. Bộc lé nỗi nhớ nhung của người đang yêu
d. Bộc lé nỗi cô đơn của người đang yêu
Câu 15: Dòng nào nói đúng về nhân vật người nghe trong bài ca dao trên:
a. Không xuất hiện
b. Xuất hiện trong tâm tưởng của cô gái
c. Đang đối thoại cùng cô gái
d. Chỉ là nhân vật có tính giả định
Đáp án:
Câu 1: 1a Con dâu – mẹ chồng
1b Vợ – chồng
1c Con trai – Mẹ
2a Nhún nhường, nể sợ, van lơn. Vị thế của người dưới
2b Ghê gớm, nạt nộ. Vị thế kẻ trên
3a Thanh minh cho nỗi oan giết chồng
3b Vu vạ, đổ tội cho Thị Kính giết chồng.
Câu 2: a
Câu 3: d
Câu 4: a
Câu 5: c
Câu 6: b
Câu 7: c
Câu 8: a
Câu 9: c
Câu 10: b
Câu 11: d
Câu 12: b
Câu 13: d
Câu 14: c
Câu 15: b
24
Bài tập chuyên đề Lưu Huyền Trang - K54D
Ngữ văn
PHẦN KẾT LUẬN
Những thử nghiệm bước đầu xem xét về cấu trúc cũng như cách xây
dựng nội dung lí thuyết bài dạy tiếng Việt có nội dung ngữ dụng học trong
chương trình SGK THPT nói trên Ýt nhiều đem lại tiện Ých cho những
người sẽ giảng dạy về phần kiến thức này. Chuyên đề có thể trở thành một tài
liệu công cụ để rút kinh nghiệm bài dạy và công cụ kiểm tra sau bài dạy thực
tiễn. Phần bài tập của những đơn vị kiến thức kể trên cũng là một mảnh đất
còn nhiều cơ hội để khai thác, học tập còng nh rót kinh nghiệm theo hướng
mà chuyên đề đã làm, nhằm đóng góp xây dựng một giê học hiệu quả nhất.
25