Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Vận dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng giải thích cuộc khủng hoảng năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.56 KB, 35 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1
2

LỜI MỞ ĐẦU
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 là cuộc khủng hoảng lịch sử, là đợt suy
thoái kinh tế kéo dài nhất và nghiêm trọng nhất kể từ Đại Khủng hoảng thập niên 1930.
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ từ cuối năm 2007, lan
rộng ra các nước Châu Âu và ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế toàn cầu. Năm 2008 trôi
qua với nhiều sự kiện kinh tế đáng chú ý, tiêu biểu nhất là nền kinh tế thế giới trải qua 3 cú
sốc liên tiếp: khủng hoảng lương thực, khung hoảng dầu mỏ và nội bật là cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers vào
15/09/2008 là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử thế giới. Ngày hôm sau vụ giải cứu lớn
nhất một công ty tư nhân được thông qua, khi chính phủ Mỹ nắm đến 80% cổ phần trong
công ty bảo hiểm khổng lồ toàn cầu AIG. Hình ảnh phố WALL – trượng đài cho sự phồn
vinh, nơi hàng loạt các ngân hàng lớn, các nhà đầu tư, bảo hiểm bị thua lỗ nặng nề và phải
tuyên bố phá sản trong thời gian ngắn. Và hiệu ứng domino này đã đánh một đòn tâm lý
nặng nề vào thị trường tài chính của các quốc gia, trong đó Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
không nhỏ từ dư chấn của cuộc khủng hoảng tài chỉnh toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã nêu lên một số vấn đề cơ bản trong kinh tế
vĩ mô bao gồm vai trò của tình trạng bất cân đối kinh tế toàn cầu mà nguyên nhân cơ bản
nhất chính là vấn đề thông tin bất cân xứng gây ra.

1


Tóm lại vấn đề khủng hoảng tài chính toàn cầu đã và đang là đề tài thu hút được rất


nhiều sự quan tâm, chú ý không chỉ của các chuyên gia kinh tế mà của mỗi cá thể trong
nền kinh tế toàn cầu bởi những hậu quả nặng nề do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
gây ra. Năm bắt được tầm quan trọng của vấn đề, nhóm chúng tôi đã chọn đề tài: “ Vận
dụng lý thuyết thông tin bất cân xứng để giải thích cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu năm 2008. Đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng này đến Thị trường tài chính
Việt Nam”.

2


PHẦN 1 LÝ THUYẾT VỀ THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
1.1. THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG LÀ GÌ?
Trong mọi nền kinh tế, các giao dịch về tài chính đều hướng đến mục tiêu cuối
cùng là chuyển nguồn vốn nhàn rỗi đến những dự án đầu tư hiệu quả nhất với chi phí
thấp nhất có thể. Khi sản xuất hàng hóa và dịch vụ của xã hội liên tục phát triển sẽ làm
gia tăng không ngừng giá trị thặng dư. Những chủ nhân của phần giá trị thặng dư đó luôn
tìm kiếm các cơ hội đầu tư tốt nhất nhằm giảm thiểu chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
Những người muốn thành lập hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh, luôn tìm kiếm các
nguồn vốn đầu tư có chi phí thấp nhất. Sự gặp nhau của hai luồng nhu cầu tr ên tạo nên
các giao dịch về tài chính và tổng hợp tất cả các giao dịch tài chính đó hình thành thị
trường tài chính.Tuy nhiên sẽ không đơn giản để các giao dịch về tài chính đạt đến mục
tiêu cuối cùng trên. Nguyên nhân là do sự tương hợp về yêu cầu giữa người cho vay và
người đi vay không phải bao giờ cũng đạt được. Các giao dịch tài chính luôn xuất hiện
một mâu thuẫn cơ bản và cố hữu, một mâu thuẫn tạo nên cơ sở tồn tại của các điều kiện
cho vay, đó là sự không cân xứng thông tin giữa người cho vay và người đi vay. Tóm lại,
trong các giao dịch tài chính thường có sự chênh lệch về thông tin giữa các bên tham
gia, đó chính là hiện tượng thông tin không cân xứng.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) lần đầu tiên xuất hiện
vào những năm 1970 và đã khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế học hiện đại
bằng sự kiện năm 2001, các nhà khoa học nghiên cứu lý thuyết này là George Akerlof,

Michael Spence và Joseph Stiglitz cùng vinh dự nhận giải Nobel kinh tế. Như vậy, bất
cân xứng về thông tin có ba đặc điểm cơ bản sau:


Thứ nhất, có sự khác biệt về thông tin giữa các bên giao dịch



Thứ hai, có nhiều trở ngại trong việc chuyển thông tin giữa các bên



Thứ ba, trong hai bên có một bên có thông tin chính xác hơn.

1.2. CÁC DẠNG BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN TRONG THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Sự lựa chọn đối nghịch

3


1.2.1.1. Khái niệm
Sự lựa chọn đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng giữa các bên khi
tham gia giao dịch, hoặc một trong các bên thiếu thông tin và hiểu biết phục vụ cho quá
trình đàm phán, thực hiện hợp đồng. Bất cân xứng thông tin càng lớn nguy cơ lựa chọn
đối nghịch càng cao.
1.2.1.2. Tác động của bất cân xứng thông tin và lựa chọn đối nghịch
Trên thị trường các hàng hóa hữu hình, đặc biệt các thị trường của loại sản phẩm
có mức chất lượng biến thiên rộng, sự xuất hiện của bất cân xứng thông tin là yếu tố quan
trọng kìm hãm giao dịch. Người bán luôn có thông tin tốt hơn người mua nên sự nghi ngờ
về chất lượng sản phẩm của người mua là không thể tránh khỏi. Điều đó đẩy người mua

đến hai con đường: hoặc là chọn mặt hàng thay thế, hoặc là tìm cách có thêm thông tin về
hàng hóa đó ( mua thông tin, thuê chuyên gia thẩm định…). Tuy nhiên, việc làm này tăng
chi phí giao dịch mà người mua phải trả thêm. Những yếu tố này làm giảm nhu cầu của
người mua và kết quả là trên những thị trường như thế, doanh số giao dịch sẽ không cao.
Chẳng hạn như, trên thị trường tín dụng, người cho vay thường không thể nắm bắt
đầy đủ thông tin về người vay tiền nên sẽ tính một mức lãi suất cho vay có phần bù rủi ro.
Những dự án kinh doanh có rủi ro thấp, lợi nhuận sẽ không đủ trả lãi, chỉ còn lại những
dự án rủi ro cao mới có thể chấp nhận vay mức lãi suất cao. Chính vì tình trạng thông tin
không cân xứng về dự án kinh doanh giữa người cho vay và người đi vay, nên cuối cùng
người cho vay chỉ toàn cho vay những dự án có rủi ro cao hoặc sẽ không chấp nhận cho
vay. Điều này đương nhiên sẽ thu hẹp thị trường tín dụng. Khi đó, người cho vay đã thực
hiện một lựa chọn đối nghịch thay vì cho vay những khách hàng có mức tín nhiệm cao thì
họ lại chọn những khách hàng có mức tín nhiệm thấp vay.
Trên thị trường chứng khoán, lựa chọn đối nghịch xảy ra khi những nhà đầu tư
không biết thông tin về cổ phiếu của các công ty khác nhau do đó có thể định giá cổ
phiếu không chính xác hoặc mua phải cổ phiếu của công ty hoạt động kém, rủi ro cao.
TTCK không minh bạch thông tin hoặc thông tin không đầy đủ, nhà đầu tư thường có
khuynh hướng trả mức giá trung bình cho các loại chứng khoán khác nhau để phòng ngừa

4


rủi ro, vì thế những công ty hoạt động kém nhưng biết cách “tiếp thị” sẽ sẵn sàng phát
hành chứng khoán với mức giá trung bình mà nhà đầu tư muốn mua, trong khi những
công ty hoạt động tốt đòi hỏi một mức giá cao thì có thể phát hành sẽ không thành công.
Giao dịch chứng khoán trong điều kiện thị trường bất cân xứng thông tin, những người
tham gia có thể đẩy thị trường đến một trạng thái lựa chọn đối nghịch, đó là việc mua
chứng khoán của những công ty hoạt động kém và đẩy khỏi thị trường những chứng
khoán chất lượng cao. Trong thực tế, những nhà đầu tư sẽ dần ý thức được khả năng lựa
chọn đối nghịch bất lợi của mình nên sẽ không tiếp tục mua bất kỳ một loại chứng khoán

nào nữa, trong khi đó những cổ phiếu tốt do bị trả giá thấp ngang bằng với giá của cổ
phiếu trung bình nên cũng không bán ra nữa,… nếu những diễn biến trên xảy ra thì nhà
đầu tư sẽ quay lưng với thị trường, TTCK sẽ mất tính thanh khoản và ngày càng bị thu
hẹp, hàng hóa chỉ còn những loại chứng khoán chất lượng kém,và như vậy thị trường
chứng khoán đã không làm tốt vai trò chu chuyển vốn cho nền kinh tế.
Những phân tích trên đây, giải thích một thực tế đang diễn ra tại hầu hết các thị
trường chứng khoán trên thế giới rằng, chứng khoán trao đổi được không phải là công cụ
huy động vốn hàng đầu của các công ty. Trên thực tế, chỉ những thị trường chứng khoán
rất mạnh, có hệ thống thông tin và gíam sát thông tin tốt mới có khả năng là kênh dẫn vốn
quan trọng cho nền kinh tế.
1.2.2. Rủi ro đạo đức
1.2.2.1. Khái niệm
Rủi ro đạo đức là hậu quả của thông tin không cân xứng. Khác với lựa chọn đối
nghịch, rủi ro đạo đức xuất hiện sau các cuộc giao dịch khi một bên thực hiện những
hành động ẩn giấu và có ảnh hưởng đến lợi ích của phía đối tác.
Rủi ro đạo đức có những đặc điểm chính sau đây:
• Thứ nhất, có sự xuất hiện của hành động ẩn giấu. Một bên tham gia giao dịch
không thể giám sát hành động của phía bên kia.
• Thứ hai, bên có hành động ẩn giấu dù vô tình hay cố ý sẽ làm tăng xác suất xảy

5


ra hậu quả xấu.
1.2.2.2. Tác động của bất cân xứng thông tin và rủi ro đạo đức
Trong thực tế, vấn đề rủi ro đạo đức xuất hiện trong rất nhiều thị trường, chẳng
hạn: Có một số thị trường mà tình trạng bất cân xứng thông tin dễ được nhận thấy như thị
trường bảo hiểm (y tế, tài sản, tai nạn), thị trường cho vay tín dụng, thị trường chứng
khoán.
Trong thị trường cho vay tín dụng, người vay tiền biết nhiều thông tin hơn người

cho vay về hiệu quả của phương án kinh doanh, khả năng quản lý vốn và mức độ rủi của
dự án hơn người cho vay tiền, thậm chí anh ta còn hiểu rõ về uy tín của bản thân và biết
chắc rằng mình có sử dụng khoản tiền vay đúng mục đích cam kết hay không. Nói tóm
lại, trong thị trường cho vay tín dụng bất cân xứng thông tin sẽ dẫn đến cả lựa chọn bất
lợi và rủi ro đạo đức.
Trên thị trường chứng khoán, Công ty phát hành chứng khoán biết nhiều thông tin
hơn người mua chứng khoán về kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng vốn, khả năng
sinh lợi của tài sản, mức độ rủi ro của dự án,… Công ty phát hành có thể che dấu những
thông tin bất lợi của công ty, thay vào đó là việc trưng ra những kế hoạch kinh doanh và
sổ sách kế toán đã được làm đẹp. Sau khi huy động được vốn thì công ty có thể dùng vốn
vào những mục đích khác với cam kết ban đầu để thu lợi và chuyển dịch rủi ro cho nhà
đầu tư, nhà đầu tư dù muốn cũng không thể kiểm soát được rủi ro này vì biết ít thông tin
hơn công ty hoặc năng lực can thiệp hạn chế. Một trường hợp dễ nhận thấy của rủi ro đạo
đức trên TTCK là tình trạng thao túng các mặt hoạt động của công ty cổ phần và giá cổ
phiếu. Các cổ đông lớn hoặc những người nằm trong ban điều hành công ty do có được
thông tin về công ty hoặc tạo ra những sự kiện rồi liên kết mua bán để đẩy giá cổ phiếu
tăng cao, kéo những nhà đầu tư nhỏ ít kinh nghiệm vào cuộc, khi những cổ đông lớn đã
rút ra khỏi thị trường thì những cổ đông nhỏ nắm giữ những cổ phiếu giá cao (chọn lựa
bất lợi). Trên một TTCK có thông tin không cân xứng thì những người mua bán trung
thực thường chịu nhiều thiệt hại hơn những người đầu tư mua bán với thông tin nội bộ,
nhà đầu tư cá nhân là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Khi những người mua bán

6


trung thực bị thua lỗ kéo dài thì chắc chắn họ sẽ rút lui khỏi thị trường vì không ai muốn
chơi trong cuộc chơi mà mình luôn ở thế bất lợi, hậu quả là thị trường bị thu hẹp.
1.3. TÁC ĐỘNG CỦA BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.3.1. Đối với nhà đầu tư


• Việc thiếu thông tin, các nhà đầu tư không hiểu biết đầy đủ tình hình sản
xuất kinh doanh, tình hình tài chính, thành phần ban lãnh đạo và cũng như
cơ cấu sở hữu trong công ty. Điều này dẫn đến những quyết định sai lầm
của nhà đầu tư, quyền lợi nhà đầu tư bị thiệt hại.
• Các nhà đầu tư không có đầy đủ thông tin về tình hình chung của doanh
nghiệp, thông tin toàn ngành, thông tin của các ngành khác, điều này làm
cho các nhà đầu tư không có cơ sở để so sánh, dự báo cũng như định giá
doanh nghiệp muốn đầu tư. Dẫn đến những quyết định đầu tư không chính
xác.
• Việc thiếu minh bạch thông tin của các tổ chức niêm yết và các tổ chức
không niêm yết làm mất niềm tin trong nhà đầu tư, dẫn đến việc rời bỏ thị
trường.
1.3.2. Đối với các doanh nghiệp
 Bất cân xứng thông tin và chi phí đại diện
Chi phí đại diện là những khoản chi phí phát sinh do nhà quản lý không thực hiện
mục tiêu tối đa hóa giá trị tài sản cổ đông, nguyên nhân phát sinh chi phí này chủ yếu là
do sự mâu thuẫn trong mục tiêu của chủ sở hữu và nhà quản lý. Chi phí này gia tăng cùng
với mức độ bất cân xứng thông tin trong doanh nghiệp.
Các thay đổi trong chi trả cổ tức tiêu biểu cho đánh gía của ban điều hành về lợi
nhuận và dòng tiền tương lai của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp phát hành chứng
khoán mới, sự kiện này có thể được coi là đang cung cấp một tín hiện cho thị trường tài

7


chính về viễn cảnh tương lai của doanh nghiệp hay các hoạt động tương lai do các giám
đốc của doanh nghiệp hoạch định. Các nghiên cứu về thay đổi cấu trúc vốn đều cho rằng
các cung ứng chứng khoán mới đưa tới các đáp ứng chứng khoán giảm. Việc mua lại cổ
phần thường sẽ đưa tới các lợi nhuận được công bố lớn hơn từ cổ phần thường của doanh

nghiệp. Các hành động làm tăng đòn bẩy tài chính có thể làm gia tăng thu nhập cuả mỗi
cổ đông ( EPS). Một doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính quá mức, doanh nghiệp
phải đối mặt với chi phí kiệt quệ tài chính và chính khoản chi phí này mà các chủ nợ
thường đòi hỏi một lãi suất hứa hẹn cao hơn. Vì vậy, khi một doanh nghiệp thực hiện
quyết định thay đổi cấu trúc vốn, doanh nghiệp phải chú ý đến tín hiệu có thể có về viễn
cảnh thu nhập tương lai và hiện tại của doanh nghiệp cũng như các dự định của các giám
đốc mà giao dịch đề xuất chuyển dịch đến thị trường.
Mặc dù ý thức được vấn đề này nhưng không dễ dàng để nhà đầu tư có thể kiểm
soát được, bởi trên thực tế còn tồn tại tình trạng thông tin không cân xứng giữa nhà đầu tư
và nhà quản lý. Nhà quản lý có những thông tin mà nhà đầu tư không thể có hoặc do chi
phí để thu nhập các thông tin đó là quá cao. Nhà quản lý có thể biết được mức độ nỗ lực
của mình trong khi nhà đầu tư không biết được; Nhà quản lý nhờ trực tiếp điều hành công
ty nên có những thông tin nội bộ mà nhà đầu tư không biết được hoặc biết nhưng không
hiểu được đầy đủ.
Trong mối quan hệ người chủ và người đại diện, thường thì người chủ phải trả thù
lao cho người điều hành thay mình để làm công việc đó và đưa ra những quyết định theo
hợp đồng. Một hợp đồng hoàn chỉnh có thể loại bỏ khả năng xảy ra mâu thuẫn giữa người
chủ và người thừa hành, hay xung đột giữa những người có liên quan trong cùng một tổ
chức. Tuy nhiên, thực tế khó có thể thiết kế một hợp đồng và người thừa hành không phải
lúc nào cũng hành động vì lợi ích cao nhất của người chủ. Do đó, người chủ phải theo dõi
người thừa hành và phải tốn chi phí giám sát ( monitoring cost - bao gồm cả chi phí kiểm
toán, chi phí của hợp đồng thù lao cho nhà quản lý và chi phí khuyến khích nhà quản lý),
khoản chi phí này sẽ được chủ trừ vào khoản tiền công trả cho người thừa hành. Còn
người thừa hành thấy khả năng tiền lương của mình bị giảm đi, họ sẽ chấp nhận gánh
chịu chi phí ràng buộc ( bonding cost – chi phí để thiết lập và duy trì những cơ chế để cho

8


thấy là họ đang hành động vì lợi ích tốt nhất của cổ đông.) nhằm đảm bảo với phía chủ

rằng anh ta sẽ cố gắng hạn chế những hành động có thể gây thiệt hại cho người chủ. Mâu
thuẫn về lợi ích cũng tạo ra những thiệt hại phụ trội ( residual loss - các thiệt hại xuất
phát từ mâu thuẫn lợi ích) do phúc lợi không tối đa hóa được.
Tổng chi phí theo dõi, ràng buộc và thiệt hại phụ trội được gọi là chi phí đại diện
vì chúng xuất phát từ các mối liên hệ giữa người chủ và người đại diện và xuất phát từ
thông tin bất cân xứng trong các mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý. Tóm lại,
chi phí đại diện cho dù hình thức này hay hình thức khác cuối cùng cũng sẽ làm thiệt hại
trong giá trị tài sản cổ đông.
 Bất cân xứng thông tin và chính sách cổ tức

Một công trình lý thuyết rất nổi tiếng nghiên cứu về chính sách cổ tức của M.H
Miler và Mocligliani (được gọi là thuyết MM). Theo MM trong một thị trường vốn hoàn
hảo, chính sách cổ tức không tác động đến giá trị doanh nghiệp.
Thực tế, việc tăng cổ tức hoặc mua lại cổ phần thường được coi là một thông tin
tốt dẫn đến việc tăng giá cổ phiếu, và ngược lại khi các công ty giảm hoặc không trả cổ
tức nữa thì giá cổ phiếu sẽ sụt gỉam. Nếu quả thực chính sách cổ tức không quan trọng thì
tại sao lại có những phản ứng như vậy trên thị trường? Theo nghiên cứu của Bhattachar
(1979), Miler và Rock (1985) thì các nhà đầu tư không phản ứng với chính sách cổ tức
mà phản ứng với các thông tin chứa đựng bên trong chính sách cổ tức. Việc tăng cổ tức
có thể là một tín hiệu cho rằng các nhà quản trị công ty rất lạc quan về dòng thu nhập
tương lai của công ty. Như vậy, theo các nhà nghiên cứu này thì chính sách cổ tức có chứa
đựng thông tin và có thể coi là một tín hiệu về khả năng phát triển trong tương lai của
công ty. Vì thế, thay đổi trong chính sách cổ tức là một tín hiệu có độ tin cậy cao và ràng
buộc trách nhiệm của nhà quản lý công ty nhiều hơn các tín hiệu khác. Từ đó làm thay
đổi giá trị thị trường của doanh nghiệp.


Bất cân xứng thông tin và cấu trúc vốn
Chúng ta trở lại mô hình cổ điển của MM dựa vào những giả thuyết thị trường


hoàn hảo, MM kết luận rằng cấu trúc vốn – tỷ lệ nợ và vốn chủ sỡ hữu độc lập với giá trị

9


doanh nghiệp.
Liên quan đến tỷ lệ nợ trên tổng vốn, S. Ros (1977) còn tìm ra một nghịch lý, giá trị
công ty thông qua giá trị thị trường sẽ tăng lên cùng với mức vay nợ tăng. Ông lập luận
rằng:


Thứ nhất, tỷ lệ nợ cao là dấu hiệu chứng tỏ điểm tín dụng công ty được cải
thiện, vì chỉ có như thế thì các tổ chức tín dụng mới cho vay thêm


Thứ hai: Tỷ số nợ cũng như cho thấy các nhà quản lý
ước đoán rằng thu nhập tương lai của doanh nghiệp đủ
khả năng thanh toán những chi phí tài chính đáng kể
phát sinh từ những khoản nợ này. Tỷ số nợ càng cao
thì ban lãnh đạo càng đáng tin cậy.

Bất cân xứng thông tin ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị doanh nghiệp. Chính sự
tách biệt trong quyền sở hữu và quyền quản lý làm cho bất kỳ thay đổi nào trong cấu trúc
vốn có thể tác động tốt hoặc xấu đến nhà đầu tư về kỳ vọng về dòng tiền, thu nhập trong
tương lai. Vì vậy, minh bạch thông tin là yếu tố chủ chốt trong việc định giá tài sản hiệu
quả và phân bổ nguồn vốn. Giúp doanh nghiệp giảm đi chi phí sử dụng vốn và thuận lợi
trong việc tiếp cận các nguồn vốn khác nhau, làm gia tăng mức vốn hóa thị trường của
doanh nghiệp và tạ đươc lòng tin cho các nhà đầu tư.
1.3.3. Đối với thị trường trong và ngoài nước
Bất cân xứng thông tin làm hạn chế tính hiệu quả của thị trường, nó làm cho môi

trường đầu tư cũng như kinh doanh trở nên khó dự đoán được những rủi ro và cơ hội đầu
tư. Giá cả hàng hóa trên thị trường phản ánh không đúng giá trị thực của nó.
Việc định giá không hiệu quả cản trở sự phân bổ các nguồn lực quốc gia và nguồn
lực toàn cầu bằng cách bóp méo tín hiệu giá cả mà nhà đầu tư dựa vào và vì thế làm ảnh
hưởng không chỉ nền kinh tế đó mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu. Như chúng
ta đã biết, nền kinh tế thị trường chủ yếu dựa trên giá chứng khoán để phản ánh một cách
chính xác giá trị cơ sở cũng như đảm bảo sự phân bổ hợp lý của những dòng vốn mới đến
những khu vực hiệu quả nhất của nền kinh tế. Như là một kết quả của việc định giá

10


không hiệu quả, những nguồn vốn đó có thể được phân bổ một cách tiết kiệm nhưng
không hiệu quả.
Ngoài ra, bất cân xứng thông tin trên thị trường chứng khoán dẫn đến việc đầu tư
chứng khoán theo kiểu “ hiệu ứng domino”, “ hiệu ứng đàn cừu”, kinh doanh bầy đàn, họ
dễ bị lung lay trước những thông tin bên lề, tin đồn, tin mật được cung cấp bởi những
người viết bản tin, hoặc những người thân trong nội bộ công ty, mà không quan tâm
nhiều đến tính xác thực hay độ tin cậy thông tin.
Rõ ràng để thị trường phát triển cả chiều sâu và chiều rộng, thu hút sự quan tâm
của nhà đầu tư trong và ngoài nước, chúng ta cần loại bỏ những tác động của tình trạng
bất cân xứng thông tin gây nên.

11


PHẦN 2: VẬN DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG GIẢI
THÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008
2.1


Những yếu tố tác động đến khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008
Có 5 yếu tố trong môi trường kinh tế có thể gây tồi tệ hơn một cách căn bản

cho vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức trong các TTTC và đưa đến cuộc
khủng hoảng tài chính (1) tăng lãi (2) Sụt giảm thị trường cổ phiếu (3) sự sụt giảm
bất ngờ về mức giá tổng hợp (4) tình trạng không chắc chắn tăng lên (5) sự hoảng
loạn ngân hàng.
Dựa trên cơ sở nghiên cứu 5 yếu tố có thể gây ra sự đổ vỡ nghiêm trọng
trong các thị trường tài chính, nhóm chúng em phân giải cuộc khủng hoảng tài
chính năm 2008 như sau:
Khủng hoảng khinh tế toàn cầu 2008 -2009 là khủng hoảng lịch sử, là đợt
suy thoái kinh tế kéo dài nhất và nghiêm trọng nhất kể từ đại khủng hoảng thập
niên 19930. Sự sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lelmon Brothers vào 15/09/2008 là vụ
phá sản lớn trong lịch sử thế giới.
Khủng hoảng tài chính năm 2008 cũng giống như hầu hết các cuộc khủng
hoảng tài chính khác tại Mỹ, đã bắt đầu bằng sự tăng giảm lãi suất, một sự tụt dốc
thị trường cổ phiếu, sự tăng tính không chắc chắn – hậu quả thất bại của những
công ty tài chính và phi tài chính quan trọng. Trong giai đoạn khủng hoảng này, sự
tăng tính không chắc chắn, sự tăng lãi suất và sự sụt giảm của thị trường cổ phiếu
đã làm tăng tính khắc nghiệt của những vấn đề lựa chọn đối nghịch trong các thị
trường tín dụng. Sự sụt giảm ở thị trường cổ phiếu cũng làm tăng vấn đề rủi ro đạo
đức khi đó đã làm cho người cho vay ít muốn cho vay hơn và dẫn đến một sự sụt
giảm hoạt động đầu tư và hoạt động kinh tế tổng hợp.
Do những điệu kiện kinh doanh xấu đi và tính chất không chắc chắn và sự
vũng mạnh của các ngân hàng của họ, những người gửi tiền bắt đầu rút vốn khỏi
12


các ngân hàng. Sự rút tiền hàng loạt ở các ngân hàng dẫn đến những vụ khủng
hoảng ngân hàng. Hậu quả của việc này làm, giảm số lượng ngân hàng, làm tăng lãi

suất hơn nữa và giảm các hoạt động trung gian tài chính cdo ngân hàng thực hiện.
Việc làm xấy thêm các vến đề vốn dĩ so lựa chionjs đối nghịc và ruti ro gại đức gay
a nên đã đưa tới sự co hẹp nền kinh tế hơn nữa.
2.2

BẤT CÂN XỨNG THÔNG TIN – NGUYÊN NHÂN CỐT LÕI CỦA

CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008
Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ 2008 bùng nổ do sự tác động kết hợp của nhiều
nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên khi phân tích kỹ chúng ta sẽ thấy, nguyên nhân cốt
lõi của vấn đề là do bất cân xứng thông tin và hai vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro
đạo đức kết hợp với tài chính hành vi của các chủ thể kinh tế gây ra.
Mầm móng của mọi việc có lẽ bắt đầu khi FED cắt giảm lãi suất xuống mức 1%
để kích thích tiêu dùng và ngăn chặn việc xuống dốc của nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, nếu
người ta không lạm dụng mức lãi suất thấp này quá mức, nếu người ta không phá vỡ các
chuẩn mực tín dụng và tìm mọi cách để “qua mặt” các cơ quan chức năng, nếu mọi việc
đều được công khai dưới sự kiểm soát của các cơ quan giám sát thì có thể một cuộc
khủng hoảng tồi tệ nhất đã được ngăn chặn kịp thời.
Khi lãi suất ở mức thấp, kể cả các ngân hàng cho vay cũng như những người đi
vay đều muốn thực hiện việc vay càng nhiều càng tốt. Giá nhà được kỳ vọng là sẽ tăng
cao hơn lãi vay phải trả, vì thế ai cũng muốn vay để đầu tư thêm nhiều căn nhà khác.
Theo cách này, khi đến hạn họ vừa trả được nợ, vừa “bỏ túi” được một khoản
chênh lệch. Với các ngân hàng, việc cho vay càng nhiều càng đem lại cho họ mức thu
phí cao hơn. Do đó họ tìm mọi cách để cho vay, thậm chí còn lún sâu hơn nữa khi họ tin
rằng sau 2 năm, lãi suất cao hơn có hiệu lực thì người ta sẽ đem nhà thế chấp ra đảo nợ,
lúc đó họ sẽ thu được hàng loạt phí phát sinh. Việc này dẫn đến kết quả là họ cho vay
một cách“vô tội vạ”, không có một chuẩn mực tín dụng nào chấp nhận việc cho những
người không nghề nghiệp, không thu nhập, không tài sản vay và có thể nhận xét là
không có một quy hoạch, định hướng nào chuẩn mực cho hoạt động tín dụng trong thời
13



gian này. Rõ ràng ở đây đã tồn tại bất cân xứng thông tin, nếu không không có lý do gì
mà các cơ quan chức năng lại để các ngân hàng làm vậy. Theo lý thuyết tài chính hành
vi, đây được gọi là sự tự tin thái quá, người cho vay đã đánh giá quá thấp những rủi ro
hàm chứa trong các khoản vay vô lý này.
Các ngân hàng và các tổ chức tài chính lại tiếp tục bưng bít thông tin bằng cách
bán hết những khoản vay có thế chấp nhiều rủi ro nhất của mình bằng cách đóng gói
chúng lại trong những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (Collateralized debt
obligations- CDO). Những giấy nợ này chuyển dòng tiền từ hàng ngàn khoản thế chấp
thành những lô trái phiếu được “khoanh vùng”, hay xếp hạng với đủ mức độ rủi ro và lợi
nhuận phù hợp với các dự án đầu tư khác nhau. Như vậy, với vỏ bọc bên ngoài là CDO
và được “dán tem bảo đảm” của các hãng xếp hạng Mỹ, các khoản vay xấu đã trở nên
tốt, an toàn và hấp dẫn trong mắt các nhà đầu tư, cho nên không một ai có thể nghĩ rằng
các khoản vay như trên cũng được chấp nhận và đem ra xếp hạng. Động thái tiếp theo
của ngân hàng một lần nữa chứng minh rằng những khoản cho vay của ngân hàng là bất
ổn. Lo ngại rủi ro sẽ xảy đến, các ngân hàng tìm cách chuyển rủi ro cho các tổ chức khác
(công ty bảo hiểm) thông qua hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng CDS, theo đó nếu bị vỡ
nợ, ngân hàng sẽ được tổ chức bảo hiểm này bồi thường, bù lại trước đó ngân hàng phải
đóng một khoản phí cố định cho tổ chức này. Việc che dấu thông tin thể hiện ở chỗ các
hợp đồng CDS này được ký kết thầm lặng giữa ngân hàng và tổ chức tài chính khác
(thường là các công ty bảo hiểm), mà không qua sự quản lí nào của cơ quan nhà nước,
cho nên không có cơ chế trung gian nào để xác định giá trị của chúng, chúng làm cho thị
trường chứng khoán trở nên u tối. Đến đây thì khoảng cách thông tin có được giữa các
tổ chức tài chính bên trong và công chúng bên ngoài đã quá lớn, có quá nhiều việc bị che
dấu. Hệ thống các tổ chức tài chính được vị chủ tịch FED đánh giá là có khả năng tự
phòng vệ tốt đang tồn tại quá nhiều rủi ro tiềm ẩn mà “chỉ cần một con cờ bị đổ thì cả
bàn cờ domino sẽ đổ theo”.
Câu hỏi được đặt ra là chẳng lẽ không một ai phát hiện ra được sự bất ổn này sao?
Và chẳng lẽ không có ai đã từng lên tiếng cảnh báo hay sao? Thực ra đã có rất nhiều lời

cảnh báo nhưng tất cả đều lần lượt bị bỏ qua. Thậm chí có nhiều quỹ đầu tư cảnh báo
14


không được đã đi đến hành động, họ đã đánh cược là giá nhà sẽ giảm, tuy nhiên họ thất
bại và phải chịu những khoản lỗ nặng, lý do là “bong bóng” vẫn chưa đủ lớn để có thể
vỡ, các quỹ đầu tư này đã không đủ mạnh để chống lại đám đông thị trường. Trong
trường hợp này, lý thyết tài chính hành vi giải thích rằng thị trường đang bị chi phối bởi
tâm lý bầy đàn, hành động đổ xô đi mua nhà của số rất đông các nhà đầu tư đã đẩy giá
nhà tăng cao và tạo ra bong bóng. Một phần trong số họ nhận thức được nhưng vẫn đi
theo đám đông để kiếm những khoản lãi nhất định, đa số nghĩ rằng giá nhà sẽ tăng mãi.
Nếu bất cân xứng thông tin và hành vi “bầy đàn” của thị trường đã đưa mọi việc lên đến
đỉnh điểm như thế nào thì cũng chính chúng đã kéo mọi thứ xuống tới đáy theo tương tự,
thậm chí còn với một tốc độ cực nhanh. Giá nhà sụt giảm đã kéo theo nhiều hệ lụy
nghiêm trọng, hàng loạt các con nợ không có khả năng trả nợ cho ngân hàng; Hệ thống
các công cụ phái sinh CDO, CDS dựa trên tài sản cơ sở là bất động sản theo đó cũng hỗn
loạn và nhanh chóng bộc lộ sự không thực vốn có dẫn đến mất dần giá trị; Tiếp theo đó
là tình trạng mất tính thanh khoản của hàng loạt các công ty bảo hiểm do không bồi
thường nổi số lượng quá lớn các vụ vỡ nợ trong cùng một lúc, thậm chí công ty bảo
hiểm có tầm ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ AIG cũng phải cần đến sự trợ giúp của chính
phủ Mỹ mới không bị phá sản; Hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác cũng
rơi vào tình trạng khủng hoảng tín dụng, mất tính thanh khoản và đứng trước nguy cơ
phá sản. Một sự sụp đổ của toàn hệ thống tài chính Mỹ. Điển hình có các vụ sau: Ngân
hàng đầu tư Lehman Brothers, lớn thứ tư ở Mỹ đã phải tuyên bố phá sản sau khi bị FED
từ chối giúp đỡ; Ngân hàng Washington Mutual Bank bị Ngân hàng đầu tư JP Morgan
Chase mua lại; Hai tổ chức tài chính lớn nhất của Mỹ Fannie Mae và Freddie Mac sau
khi tiếp nhận cứu trợ từ Chính phủ Mỹ đã được đặt dưới sự quản lý của Chính phủ…
2.3

DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM


2008
2.3.1 Khủng hoảng tài chính tại Mỹ và sự ảnh hưởng đến các quốc gia khác
Cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ "hàng trăm năm mới có một lần", theo
lời ông Alan Greenspan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang (FED), đã được dự báo từ

15


năm 2006. Tuy nhiên, dự đoán cũng như phân tích của nhiều nhà kinh tế đã không đủ
sức thuyết phục để các cơ quan tài chính quyền lực nhất tại Mỹ và châu Âu có biện
pháp đề phòng. Nguyên nhân trực tiếp của cơn địa chấn tài chính bắt nguồn từ khủng
hoảng tín dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã
đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu
vào thế nguy hiểm. Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại
thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới
khả năng chi trả của khách hàng. Dư nợ trong lĩnh vực này tăng mạnh từ 160 tỷ USD
năm 2001 lên 540 tỷ USD vào năm 2004 và bùng nổ thành 1.300 tỷ USD vào năm
2007. Theo ước tính vào cuối quý III năm 2008, hơn một nửa giá trị thị trường nhà đất
Mỹ là tiền đi vay với một phần ba các khoản này là nợ khó đòi. Trước đó, để đối phó
với lạm phát, FED đã liên tiếp tăng lãi suất từ 1% vào giữa năm 2004 lên 5,25% vào
giữa năm 2006 khiến lãi vay phải trả trở thành áp lực quá lớn với người mua nhà. Họ
không thể trả được nợ vay và nhà thì bị tịch biên. Thị trường bất động sản bắt đầu đóng
băng và giá nhà đất sụt giảm mạnh. Cuộc khủng hoảng từ đó lan từ thị trường bất động
sản sang thị trường tín dụng và cuối cùng dẫn đến khủng hoảng tài chính tại Mỹ và tràn
sang nhiều nước châu Âu, khiến nhiều công ty lớn phá sản.
Nạn nhân đầu tiên của cơn bão tài chính là Countrywide Financial, tập đoàn tài
chính từng nắm giữ 20% thị trường cho vay bất động sản Mỹ, chỉ trong vài tháng, đã bị
đẩy đến sát bờ vực phá sản do nợ khó đòi vào tháng 8/2007. Đến tháng 1/2008, ngân
hàng lớn nhất nước Mỹ về giá trị vốn hóa và tiền gửi, Bank of America, đã mua lại

Country Financial với giá 4 tỷ USD. Sau đó một tháng, đến lượt Northern Rock, ngân
hàng lớn thứ năm tại Anh, sau khi mất thanh khoản nghiêm trọng do thua lỗ từ cho vay
thế chấp bất động sản, đã phải cầu cứu Ngân hàng Trung ương Anh. Nhà đầu tư ùn ùn
kéo đến rút tiền khiến Chính phủ buộc phải tiếp quản tập đoàn ngân hàng này; và đến
ngày 17/2/2008, Nothern Rock chính thức bị quốc hữu hóa. Sự kiện Country Financial
và Nothern Rock là dấu hiệu báo trước cơn bão sắp đổ xuống thị trường tài chính toàn
cầu cũng như làn sóng sáp nhập, phá sản, và bị Chính phủ tiếp quản của các định chế tài
chính.
16


Cơn địa chấn tài chính thực sự nổ ra vào ngày 7/9/2008 khi hai Tập đoàn chuyên
cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là Freddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính
phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ phá sản. Sự kiện này tiếp tục châm ngòi cho vụ đổ
vỡ với những tên tuổi lớn khác. Ngày 15/9/2008, Ngân hàng đầu tư lớn thứ tư nước Mỹ
Lehman Brothers sau 158 năm tồn tại đã tuyên bố phá sản. Đúng 10 ngày sau,
Washington Mutual Inc., một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ, đã tạo nên vụ phá
sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử với tổng giá trị tài sản thiệt hại lên tới 307 tỷ USD.
Ngoài ra, do khủng hoảng tài chính, Ngân hàng đầu tư số một nước Mỹ, Merill Lynch
bị thâu tóm bởi Bank of America. Chính phủ đã buộc phải bơm 85 tỷ USD vào AIG,
Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới, để tránh cho thị trường tài chính nước này một kết
cục tồi tệ hơn.
Tháng 9 và 10/2008 trở thành giai đoạn đen tối với phố Wall khi chỉ số Dow
Jones sụt tới 25% giá trị chỉ sau một tháng kể từ ngày 15/9/2008. Biến động tại phố
Wall trở nên khó lường hơn với nhiều kỷ lục cả tăng và giảm tồn tại trong hàng chục
năm đã bị phá. Không chỉ ở phố Wall, tuần lễ từ 15 đến 21/9/2008 thị trường chứng
khoán của cả thế giới chao đảo, từ Tôkyô đến Thượng Hải, Seoul và Hồng Kông, các
chỉ số chứng khoán đều tuột dốc mạnh. Tại châu Âu, các thị trường chứng khoán Paris,
Luân Đôn, Franfurt, Amsterdam cùng chung số phận. Thị trường chứng khoán
Matxcơva cũng lâm vào tình trạng hoảng loạn đến nỗi phải tạm đóng cửa để chờ cho

cơn bão đi qua.
Xen giữa những sự kiện trên, 9 tháng đầu năm 2008 chứng kiến các cơn sốt giá
dầu, lương thực, và lạm phát làm khuynh đảo nền kinh tế toàn cầu. Đặc biệt là giá dầu,
từ mức 90 USD một thùng vào đầu năm 2008 đã leo lên trên 100 USD vào 20/2/2008
và lập kỷ lục trên 147 USD một thùng vào 11/7/2008. Giá dầu leo thang kéo giá hàng
hóa cơ bản và lương thực lên theo. Trong đó, vàng lập kỷ lục trên 1.000 USD một
ounce vào ngày 17/3/2008. Còn giá lương thực đắt đỏ lại tạo ra căng thẳng thực sự tại
nhiều nơi, thậm chí cả ở các quốc gia xuất khẩu lương thực. Nạn lạm phát từ đó cũng
xảy ra tràn lan tại nhiều quốc gia. Tuy nhiên, sau khi đạt đỉnh vào tháng 7/2008, giá dầu
17


bất ngờ lao dốc không phanh. Nguyên nhân của hiện tượng trên là nhu cầu sử dụng dầu
tại nhiều quốc gia, đặc biệt Trung Quốc và Ấn Độ, sụt giảm mạnh do khó khăn về kinh
tế. Hiện giá loại nhiên liệu này chỉ còn khoảng 40 USD một thùng, mất hơn 100 USD,
tương ứng gần 70%, so với mức giá kỷ lục trước đó vài tháng, bất chấp những nỗ lực
cắt giảm sản lượng của OPEC.
Bước vào quý IV/2008, suy thoái kinh tế toàn cầu biểu hiện rõ sau khi các trung
tâm kinh tế lớn nhất như Mỹ, Nhật Bản và EU cùng lần lượt rơi vào suy thoái. Kinh tế
Mỹ lâm vào suy thoái với tốc độ nhanh, khoảng âm 0,3% trong quý III/2008. Mức chi
tiêu của người tiêu dùng, vốn đóng góp tới hai phần ba vào sự tăng trưởng kinh tế Mỹ,
suy giảm mạnh nhất kể từ năm 1980. Thâm hụt ngân sách liên bang trong năm tài khóa
2008 tăng mạnh tới mức kỷ lục 454,8 tỷ USD, cao gấp ba lần mức thâm hụt 161,5 tỷ
USD trong tài khóa năm 2007, chủ yếu do chi phí quốc phòng tăng mạnh, nhất là phục
vụ cho hai cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan. Dự báo thâm hụt ngân sách liên
bang trong tài khóa năm 2009 có thể lên tới 1.000 tỷ USD. Theo Bộ Lao động Mỹ, tỷ lệ
thất nghiệp hiện nay của nước này lên đến 6,5% cao nhất trong 14 năm qua. Theo dự
báo, kinh tế Mỹ tiếp tục suy thoái trong năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp có thể lên 8%, trong
khi các khoản tiền dự trữ và giá trị bất động sản giảm mạnh, chỉ số lòng tin của người
dân Mỹ giảm xuống tới mức kỷ lục. Ðiều này càng làm cho nền kinh tế số một thế giới

lâm vào suy thoái trầm trọng hơn.
Tình trạng đóng băng của hệ thống tài chính tiếp tục dẫn đến sự giảm sút trong
các hoạt động sản xuất của doanh nghiệp cũng như chi tiêu của người dân. Hệ quả của
tình trạng trên là nhiều doanh nghiệp phá sản và đẩy tỷ lệ thất nghiệp tại nhiều quốc gia
tăng cao, chỉ số lòng tin của người tiêu dùng rơi xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Trong 3 tháng, tính tới đầu quý IV/2008, đã có hơn 30.000 doanh nghiệp Mỹ phá sản.
Chưa dừng lại ở đó, mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn nữa nếu ba nhà sản xuất xe
hơi hàng đầu là Ford, General Motors (GM), và Chrysler phá sản. Kể từ đầu năm đến
nay, ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ đã bị khủng hoảng tài chính "quật" cho tơi tả.
Với việc doanh số bán xe trong tháng 10/2008 của Mỹ tụt xuống mức thấp nhất trong
vòng 25 năm qua, và dự đoán sẽ tồi hơn do khủng hoảng tài chính, ba đại gia trên đang
18


phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, mà trước mắt là cạn kiệt tiền mặt. Chrysler từ ngày
18/12/2008 đã ngừng hoàn toàn hoạt động sản xuất tại khu vực Bắc Mỹ. Chính phủ Mỹ
đang cân nhắc kế hoạch cho GM và Chrysler, hai tập đoàn nguy ngập nhất, vay gấp 14
tỷ USD trong thời gian ngắn, được trích từ nguồn hỗ trợ 700 tỷ USD dành cho việc mua
nợ xấu của các ngân hàng. Tuy nhiên, khoản tiền trên có lẽ chỉ như một liều thuốc tạm
thời, đủ để hai hãng "sống sót" đến hết quý I/2009. Các kế hoạch dài hơi hơn nhằm giải
quyết khó khăn của ngành công nghiệp xe hơi khi đó được chuyển giao cho Chính phủ
mới của Tổng thống Barack Obama. Theo ước tính của các chuyên gia kinh tế, nếu các
công ty được coi là biểu tưởng của nền công nghiệp xe hơi Mỹ phá sản, sẽ có thêm
khoảng 2,5 triệu lao động mất việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ từ đó cũng sẽ leo
thang với tốc độ chóng mặt.
Lãnh đạo kinh tế Mỹ và châu Âu chưa hết khốn đốn vì khủng hoảng tài chính và
suy thoái kinh tế, thì đến ngày 11/12/2008, cả thế giới chấn động khi các nhà chức trách
Mỹ bắt giữ cựu Chủ tịch Thị trường Chứng khoán Nasdaq Mỹ, đồng thời là một nhà
giao dịch chứng khoán huyền thoại của nước này, ông Bernard Madoff. Ông Chủ tịch
Công ty Chứng khoán Bernard L. Madoff Investment Securities LLC này đã dùng

những thủ đoạn tinh vi để thu hút vốn của các nhà đầu tư, rồi thua lỗ tới 50 tỷ USD.
Danh sách “nạn nhân” của ông “trùm lừa” này trải dài từ Mỹ, sang châu Âu và cả châu
Á. Trong số những “nạn nhân” lớn nhất trong vụ này phải kể tới Công ty Quản lý tài
sản Fairfield Greenwich Group của Mỹ với thiệt hại 7,3 tỷ USD, Ngân hàng Banco
Santander với mức thiệt hại 3,6 tỷ USD, Công ty Kế toán và Tư vấn tài chính Ascot
Partners với thiệt hại 1,8 tỷ USD… Vụ scandal trên hiện vẫn chưa có hồi kết với những
câu hỏi lớn xoay quanh vai trò của hệ thống giám sát tài chính Mỹ cũng như sự dính líu
của quan chức tại Washington với Bernard Madoff.
Theo dự báo của các chuyên gia, kinh tế Mỹ nói riêng và thế giới sẽ tiếp tục đi
xuống cho tới giữa năm 2009. Cường quốc số một thế giới và nhiều nền kinh tế lớn
khác có xu hướng dần chuyển từ lạm phát sang giảm phát, trạng thái báo hiệu sự suy
giảm kéo dài của nền kinh tế, biểu hiện ở sự đi xuống của thị trường tín dụng, nhà đất,
19


lao động và hoạt động tiêu dùng. Một điều gây quan ngại cho cả thế giới là đói nghèo
đang gia tăng trên phạm vi toàn thế giới.
Nửa đầu năm nay, trong bối cảnh thị trường dầu thô liên tiếp lập kỷ lục và thiếu
chút nữa chinh phục mốc 150 USD/thùng, lạm phát là nỗi lo canh cánh của cả thế giới.
Tuy nhiên, càng về cuối năm, nỗi lo này càng giảm bớt cùng với sự đi xuống nhanh
chưa từng có của giá nhiên liệu. Mặc dù vậy, thế giới lại phải đương đầu với một mối đe
dọa mới là giảm phát - một vấn đề đáng ngại không kém gì lạm phát. Tại Mỹ, trong
tháng 11/2008, CPI giảm với tốc độ kỷ lục 1,7% sau khi đã giảm 1% trong tháng
10/2008. Từ đầu năm 2008 tới tháng 11/2008, CPI ở nước này chỉ tăng có 0,7%, so với
mức tăng 4,1% trong cả năm 2007. Tại châu Âu, lạm phát cũng đang giảm mạnh. Cơ
quan Thống kê EU (Eurostat) cho hay, lạm phát trong tháng 11/2008 của khu vực đồng
Euro đã giảm xuống còn 2,1% trong tháng 11/2008- mức thấp nhất trong vòng 14 tháng
trở lại đây - từ mức 3,2% trong tháng 10/2008. Tại Trung Quốc- nền kinh tế hồi đầu
năm còn đặt nhiệm vụ hàng đầu là “giảm nhiệt” tăng trưởng- lạm phát tháng 11/2008
cũng đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 22 tháng qua.

Tầng lớp dân nghèo của thế giới là một trong những đối tượng hứng chịu nhiều
tác động nặng nề của sự biến động giá cả và khủng hoảng tài chính. Tính toán của Tổ
chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy, giá lương thực tăng cao và kinh tế suy
thoái đã làm số người bị đói năm 2008 tăng thêm 40 triệu, nâng tổng số người thiếu đói
toàn cầu lên 960 triệu người. Nếu như lạm phát tất yếu đe dọa nghiêm trọng cuộc sống
của họ, thì giảm phát cũng có khả năng gây tác động tai hại không kém, vì giá cả lương
thực giảm, dẫn tới hạn chế đầu tư phát triển diện tích trồng trọt, nguồn cung eo hẹp.
2.1.2 Khủng hoảng tài chình trên thế giới
 Khủng hoảng tài chính tại châu Âu
Khu vực đồng tiền chung Euro cũng lần đầu tiên rơi vào suy thoái kể từ khi hình
thành năm 1999. Đến ngày 28/2/2008, Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào
danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài
sản mất giá là 1,36 tỷ Euro. Chưa đầy một tháng sau, chính xác là ngày 17/3/2008, sự
sụt giá không kiểm soát nổi của các khoản đầu tư tài chính- bất động sản đã buộc Tập
20


đoàn môi giới chứng khoán Bear Stearns của Mỹ tê liệt và chấm dứt hoạt động sau 85
năm tồn tại. Bear Stearns phải chấp nhận bán lại cho đối thủ JP Morgan Chase với giá
240 triệu USD, bao gồm cả trụ sở của hãng này. Tại thời điểm đó, giá mỗi cổ phiếu của
Bear Stearns là 2 USD, trong khi giá trước đó một năm là 170 USD.
Chưa dừng lại ở đó, đến ngày 29/4/2008, Deutsche Bank lần đầu tiên trong 5
năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ
USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp
bất động sản. Đến ngày 31/7/2008, ngân hàng này công bố khoản trích lập dự phòng
tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD, và
Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín
dụng toàn cầu. Trước đó, ngày 11/7/2008, Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm
soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn
nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng

11 ngày.
Số liệu thống kê cho thấy GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung Euro đã
tăng trưởng âm liên tiếp trong quý II và quý III/2008. Đức là nền kinh tế lớn nhất châu
Âu và đứng thứ ba thế giới chính thức rơi vào cuộc suy thoái lớn nhất trong vòng 12
năm qua, kinh tế Anh cũng lâm vào suy thoái, theo dự báo năm 2009 sẽ chịu mức sút
giảm mạnh nhất kể từ gần hai thập niên qua, số người thất nghiệp có thể lên tới 3 triệu
người vào năm 2010. Số liệu thống kê của Italia cho biết nền kinh tế nước này đang rơi
vào cuộc suy thoái nặng nề nhất kể từ năm 1992.
Các nền kinh tế châu Âu cũng không thoát khỏi vòng xoáy khủng hoảng. Nhiều
ngân hàng, tổ chức tín dụng châu Âu cũng chịu chung số phận ngân hàng Northern Rock
bị Anh quốc hữu hóa. Deutche Bank của Đức và UBS của Thụy Sỹ phải tăng mức trích
dự phòng do những thất thoát liên quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố.
 Khủng hoảng tài chính tại châu Á
Các nước có nền kinh tế phát triển là những nước ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc
khủng hoảng trên.

21


Nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Nhật Bản đã chính thức công bố lâm vào suy
thoái kinh tế ngày 18/11/2008 sau khi tăng trưởng âm liên tiếp trong hai quý II và
III/2008. Như vậy, đây là lần đầu tiên kể từ năm 2001, kinh tế Nhật Bản rơi vào suy
thoái. Trước đó
Khủng hoảng tài chính cũng tràn qua Trung Quốc, Nga, Ấn Ðộ, Braxin... là những
nơi được dự đoán là ít chịu tác động nhất. Kinh tế Trung Quốc vốn được coi là một động
lực tăng trưởng của kinh tế thế giới, sau nhiều năm tăng trưởng ở mức hai con số, đã
giảm chỉ còn 9% trong quý III/2008. Ngân hàng Thế giới cho biết tăng trưởng GDP của
Trung Quốc chỉ đạt 7,5% trong năm 2008, mức thấp nhất trong vòng 19 năm qua. Tốc độ
tăng trưởng công nghiệp đã giảm sút nghiêm trọng từ 16% trong tháng 6 xuống còn 8,2%
trong tháng 10/2008, thấp nhất trong 7 năm qua. Xuất khẩu suy giảm do khủng hoảng tài

chính, theo dự báo sẽ còn khó khăn hơn trong năm 2009, kéo theo sự sụt giảm nhiều
ngành sản xuất khác và làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Khủng hoảng tài chính tại Nga đang ngày càng trầm trọng khi đồng Rúp mất giá
mạnh, Chính phủ đã phải chi 58 tỷ USD để giữ giá đồng tiền này. Trong khi đó, nguy cơ
thâm hụt ngân sách của Nga rất lớn và kinh tế khó khăn, bởi thời kỳ thịnh vượng nhờ giá
dầu lửa cao đã chấm dứt. Nền kinh tế Nga vốn ổn định và mạnh lên trong thời gian khá
dài nhờ xuất khẩu dầu lửa được giá, nhưng hiện đứng trước nhiều khó khăn do khủng
hoảng tài chính và giá dầu thế giới giảm mạnh, xuống dưới 50 USD/thùng - đây là mức
thấp nhất trong 4 năm qua. Nga đang thực hiện các giải pháp nhằm thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng tài chính ngày càng nghiêm trọng hiện nay. Chính phủ dự định chi khoảng
190 tỷ USD nhằm hỗ trợ hệ thống tài chính và ngân hàng, các ngành kinh tế then chốt
cũng như cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các nền kinh tế lớn ở Ðông - Nam Á đều định hướng xuất khẩu và phụ
thuộc nhiều vào thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Do vậy, dù ở mức độ khác
nhau các nước trong khu vực Ðông - Nam Á dễ bị tác động của xu hướng giảm sút
thương mại và đầu tư trên thế giới hiện nay. Trước mắt, lĩnh vực xuất khẩu, thị trường
chứng khoán và thị trường tiền tệ khu vực đang chịu ảnh hưởng mạnh của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Singapore là quốc gia đầu tiên ở Ðông - Nam Á rơi vào suy
22


thoái trong năm 2008, ba lĩnh vực trụ cột của kinh tế nước này là xuất khẩu hàng công
nghiệp chế tạo, dịch vụ tài chính- ngân hàng và du lịch đều bị ảnh hưởng nặng nề của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế cả năm khoảng
3%. Chính phủ đã phải tạm thời đình chỉ kế hoạch từng bước tăng giá đồng nội tệ SGD.
Các biện pháp kích thích cả gói có thể làm cho thâm hụt ngân sách năm 2008 tăng lên
gấp ba lần. Kinh tế Hàn Quốc cũng báo động đỏ khi đồng Won mất giá hơn 40% kể từ
đầu năm và hiện ở mức thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Chính
phủ Hàn Quốc đã phải thực hiện một số biện pháp khẩn cấp như cắt giảm lãi suất và
bơm tiền vào hệ thống tài chính. Thái Lan cũng có những biểu hiện của suy thoái kinh tế.

Trong bối cảnh đó Pakistan là nước châu Á đầu tiên kêu gọi IMF trợ giúp 6,5 tỷ USD.

2.3

VẬN DỤNG LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG GIẢI

THÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH TOÀN CẦU NĂM 2008

23


PHẦN 3 ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH TOÀN CẦU ĐẾN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Thị trường tài chính Việt Nam vẫn chưa gia nhập sâu vào hệ thống tài chính thế giới
cho nên những tác động của khủng hoảng tài chính lần này không ảnh hưởng nhiều đến hệ
thống tài chính của ta. Tuy không phải gánh chịu hậu quả trực tiếp như nhiều nền kinh tế
khác có độ gia nhập sâu hơn vào hệ thống tài chính toàn cầu nhưng khủng hoảng tài chính
Mỹ vẫn gây ra những tác động gián tiếp đến thị trường tài chính Việt Nam thông qua thị
trường tài chính tiền tệ, các hoạt động ngân hàng và thị trường chứng khoán.
3.1. Thị trường tài chính tiền tệ
Đầu năm 2008, để đối mặt với tình trạng lạm phát cao trong nước Chính phủ ta
quyết định thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Kết quả là chúng ta đã thành công trong
việc phá vỡ bong bóng của thị trường bất động sản và làm giảm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên,
chính sách này cũng đồng thời làm giảm tính thanh khoản và làm các hoạt động kinh tế
chậm lại. Tình trạng khó khăn thanh khoản của các ngân hàng từ cuối năm 2007 đã buộc
các ngân hàng thương mại chạy đua lãi suất huy động và làm giảm lãi tỷ suất lợi nhuận của
các ngân hàng cũng như khan hiếm tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác,
Chính phủ còn quy định trần lãi suất cho vay bằng 150% lãi suất cơ bản. Quy định này đã
khiến cho tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng bị thu hẹp giữa mức trần và lãi suất tiền gửi
cộng thêm với chi phí giao dịch và quản lý thì các ngân hàng hoàn toàn không có lãi.

Những khó khăn của các ngân hàng cũng làm cho các doanh nghiệp đặc biệt là những
doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể tiếp cận với nguồn vốn để đầu tư cho sản xuất. Khi
khủng hoảng tài chính Mỹ chính thức lan rộng ra toàn cầu, lãi suất LIBOR, SIBOR tăng
cao làm cho các ngân hàng trong nước lại gặp thêm khó khăn trong việc huy động vốn cho
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Những thay đổi bất ngờ từ hệ thống tài chính thế
giới buộc các ngân hàng trong nước phải nới lỏng chính sách tiền tệ đã thực hiện từ đầu
năm, kéo theo lãi suất trên thị trường tiền tệ giảm mạnh. Cụ thể lãi suất cho vay giảm từ
21%/năm xuống chỉ còn 14%/năm, đặc biệt tại các ngân hàng quốc doanh lãi suất giảm
24


xuống chỉ còn 10%/năm. Thị trường vàng và ngoại tệ có nhiều diễn biến phức tạp trước
những biến động của thị trường thế giới. Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính mà
lượng kiều hối vào Việt Nam giảm rõ rệt, nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu cũng
giảm sút dẫn đến tình trạng thiếu USD cục bộ trong khi nhu cầu về ngoại tệ tăng cao đã
đẩy giá USD tăng tương đối so với VND.
Bảng: Các Mức Lãi Suất Chủ Yếu của NHNN năm 2008
Ngày có hiệu lực
01/02/2008
19/05/2008
11/06/2008
21/10/2008
05/11/2008
21/11/2008
05/12/2008

Lãi suất cơ bản
(%)
8.75
12.0

14.0
13.0
12.0
11.0
10.0

Lãi suất tái cấp
vốn (%)
7.0
13.0
15.0
14.0
13.0
12.0
11.0

Lãi suất chiết
khấu (%)
6.0
11.0
13.0
12.0
11.0
10.0
9.0
Nguồn: NHNN

3.2. Những tác động đến hệ thống ngân hàng
Từ việc phân tích nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xuất phát
từ nước Mỹ nêu trên, chúng ta có thể khẳng định là cuộc khủng hoảng này sẽ không có

tác động đáng kể đến hệ thống ngân hàng Việt Nam, bởi lẽ:
Thứ nhất, mức độ hội nhập của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của hệ thống
ngân hàng nói riêng với nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Mỹ và thế giới chưa sâu. Các
ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu làm cầu nối cung cấp dịch vụ thanh toán, bảo lãnh
và bao thanh toán cho các doanh nghiệp xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, lượng vốn của các
ngân hàng Việt Nam vay trên thị trường quốc tế là không lớn nên có thể loại trừ khả năng
xuất hiện hiệu ứng rút vốn ồ ạt gây nên rủi ro về thanh khoản của hệ thống ngân hàng.
Thứ hai, các ngân hàng và các tổ chức tài chính Việt Nam không sở hữu các MBS
của Mỹ, do vậy không phải gánh chịu những khoản lỗ phát sinh do công cụ này giảm giá.
25


×