Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TIEU LUAN NGUON NHAN LUC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.74 KB, 10 trang )

Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các
quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân
lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do
phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội,
hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát
triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn
chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai
đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế.
1. Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay.
Nhân lực là sức lực cong người, nằm trong mỗi con người và làm cho con
người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể
con người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá trình
lao động – con người có sức lao động.
Nguồn nhân lực là nguồn lực con người. Nguồn lực đó được xem xét ở hai khía
cạnh. Trước hết, với ý nghĩa là nguồn gốc, là nơi phát sinh ra nguồn lực. Nguồn nhân
lực nằm trong bản thân con người, đó cũng là sự khác nhau cơ bản giữa nguồn lực
con người và các nguồn lực khác. Thứ hai, nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể
nguồn nhân lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là một nguồn nhân lực của
quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra
của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện là số lượng và chất lượng nhất
định tại một thời điểm nhất định.
Khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi ở các nước có nguồn kinh tế


phát triển từ những năm giữa thế kỷ thứ XX, với ý nghĩa là nguồn lực con người, thể
hiện một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong quá trình phát triển. Nội hàm
nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao
động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng mà còn chứa đựng hàm ý rộng hơn.
Trước đây, nghiên cứu về nguồn lực con người thường nhấn mạnh đến chất lượng
và vai trò của nó trong phát triển kinh tế xã hội. Trong lý thuyết về tăng trưởng kinh tế,
con người được coi là một phương tiện hữu hiệu cho việc đảm bảo tốc độ tăng trưởng
kinh tế bền vững thậm chí con người được coi là nguồn vốn đặc biệt cho sự phát triển –
vốn nhân lực.Về phương diện này Liên Hợp Quốc cho rằng nguồn lực con người là tất cả
những kiến thức kỹ năng và năng lực con người có quan hệ tới sự phát triển kinh tế xã


hội của đất nước. Ngày nay, nguồn nhân lực còn bao hàm khía cạnh về số lượng, không
chỉ những người trong độ tuổi mà cả những người ngoài độ tuổi lao động.
Ở nước ta khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ khi bắt đầu công
cuộc đổi mới. Điều này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về nguồn
nhân lực. Theo giáo sư viện sỹ Phạm Minh Hạc, nguồn lực con người được thể hiện
thông qua số lượng dân cư, chất lượng con người ( bao gồm thể lực, trí lực và năng
lực phẩm chất). Như vậy, nguồn nhân lực không chỉ bao hàm chất lượng nguồn nhân
lực hiện tại mà còn bao hàm cả nguồn cung cấp nhân lực trong tương lai.
Từ những sự phân tích trên, ở dạng khái quát nhất, có thể hiểu nguồn nhân lực
là một phạm trù dùng để chỉ sức mạnh tiềm ẩn của dân cư, khả năng duy động tham
gia vào quá trình tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội trong hiện tại cũng
như trong tương lai. Sức mạnh và khả năng đó được thể hiện thông qua số lượng, chất
lượng và cơ cấu dân số, nhất là số lượng và chất lượng con người có đủ điều kiện
tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực, thực chất là đề cập đến mặt số lượng và chất
lượng của nguồn nhân lực. Số lượng nguồn nhân lực của bất kỳ quốc gia nào cũng
đều được hình thành dựa trên quy mô dân số, mà trước hết là từ lực lượng lao động
của quốc gia đó, cụ thể là số lượng người đang trong độ tuổi lao động và có khả năng

tham gia lao động sản xuất.
Chất lượng nguồn nhân lực là một sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố và giá
trị cùng tham gia tạo nên. Trong đó, gồm ba yếu tố cơ bản: thể lực, trí lực và tâm lực.
Thể lực là tình trạng sức khoẻ của con người, biểu hiện ở sự phát triển bình
thường, có khả năng lao động. Đây là cơ sở quan trọng cho hoạt động thực tiễn của
con người, có thể đáp ứng được những đòi hỏi về hao phí sức lao động trong quá trình
sản xuất với những công việc cụ thể khác nhau và đảm bảo cho con người có khả
năng học tập và lao động lâu dài.
Trí lực là năng lực trí tuệ, khả năng nhận thức và tư duy mang tính sáng tạo thích
ứng với xã hội của con người. Nói đến trí lực là nói đến yếu tố tinh thần, trình độ văn hoá
và học vấn của con người, biểu hiện ở khả năng vận dụng những điều kiện vật chất, tinh
thần vào hoạt động thực tiễn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời là khả năng định hướng
giá trị hoạt động của bản thân để đạt được mục tiêu. Trí lực là yếu tố chiếm vị trí trung
tâm chỉ đạo hành vi của con người trong mọi hoạt động, kể cả trong việc lựa chọn các
giải pháp phù hợp nhằm phát huy tác dụng của các yếu tố khác trong cấu trúc chất lượng
nguồn nhân lực. Trí lực là yếu tố quyết định phần lớn khả năng sáng tạo của con người,
là yếu tố ngày càng đóng vai trò quan trọng và quyết định trong chất lượng nguồn nhân
lực nói riêng và sự phát triển của nguồn lực con người nói chung.
Tâm lực là những giá trị chuẩn mực đạo đức, phẩm chất tốt đẹp và sự hoàn
thiện nhân cách của con người, được biểu hiện trong thực tiễn lao động sản xuất và
sáng tạo cá nhân. Những giá trị đó gắn liền với năng lực tư duy và hành động cụ thể
của con người, tạo nên chất lượng của nguồn nhân lực. Tâm lực tạo ra động cơ bên
trong của chủ thể, thúc đẩy và điều chỉnh hoạt động của con người. Nói cách khác,


tâm lực góp phần vào việc phát huy vai trò của các yếu tố thể lực và trí lực của con
người với tư cách nguồn nhân lực của xã hội.
2. Vai trò quyết định của chất lượng nguồn nhân lực đối với sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá
Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức

chỉ giành được những thắng lợi khi chúng ta biết khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả
tất cả các nguồn lực. Song, yếu tố giữ vai trò quyết định nhất, đảm bảo cho sự thắng
lợi của quá trình đó chính là nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất
lượng cao. Điều này được khẳng định dựa trên những cơ sở sau:
Thứ nhất, các nguồn lực khác (ngoại trừ nguồn nhân lực), xét về mặt số lượng
và trữ lượng, có thể là rất phong phú, dồi dào, nhưng nếu khai thác và sử dụng không
hợp lý thì đến một lúc nào đó, chúng sẽ trở nên cạn kiệt. Khi ấy, nền kinh tế vốn cơ
bản dựa vào nguồn lực này sẽ gặp khó khăn, nếu không nói là bị đe doạ. Trái lại,
nguồn lực con người với tiềm năng trí tuệ, chất xám thì luôn sinh sôi và phát triển
không ngừng. Xét trên bình diện xã hội, có thể khẳng định nguồn lực con người là vô
tận và do vậy, là nguồn lực cơ bản của sự phát triển bền vững. Đây là một ưu điểm nổi
trội của nguồn nhân lực so với các nguồn lực khác trong hệ thống nguồn lực phục vụ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, nếu trước đây, một trong những nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước là do tình trạng nghèo nàn về cơ sở vật
chất, sự thiếu hụt về nguồn vốn… thì ngày nay, trở ngại chủ yếu nhất được xác định
chính là sự hạn chế về trí tuệ và năng lực sáng tạo của con người.
Thứ ba, cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tạo sự phát triển mạnh
mẽ và nhanh chóng trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cùng với đó là quá
trình toàn cầu hoá đã tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho các nước đang phát triển có
thể khắc phục sự yếu kém về trình độ khoa học – kỹ thuật của mình thông qua con
đường hợp tác, có thể giải quyết các vấn đề khó khăn như thiếu hụt nguồn vốn dựa
trên quan hệ đầu tư, vay vốn và bằng nhiều hình thức khác. Nhưng, có một vấn đề đặc
biệt quan trọng mà để đảm bảo sự phát triển bền vững, các nước phải nhanh chóng
giải quyết một cách có hiệu quả, đó là xây dựng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực có chất lượng cao. Có thể nói, việc xây dựng và bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm
phát huy tiềm năng trí tuệ và sức sáng tạo của con người, trước hết và chủ yếu là nỗ
lực tự thân thông qua nhiều biện pháp khác nhau của từng quốc gia.
3. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới,

thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có
sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn
(khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung
bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
Với dân số ước tính khoảng 94 triệu người vào năm 2018; trong đó lực lượng
lao động từ 15 tuổi trở lên là 54,61 triệu người, chiếm 59,5%, Việt Nam vẫn đang


trong thời kỳ dân số vàng với nguồn cung lao động dồi dào và ổn định. Biểu đồ 1 cho
thấy dân số từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam vẫn gia tăng (từ Q2/ 2012 đến quý 2/2017
dân số tăng 3,4 triệu người), lực lượng lao động trong giai đoạn này vẫn tăng trên1,9
triệu người) và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động vẫn duy trì ở mức ổn định.
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người;
hàng năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể
lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy
nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung
Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao
động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ
luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Theo công bố của Tổng cục Thống kê về tình hình Kinh tế Xã hội năm 2017, lao
động từ 15 tuổi trở lên của cả nước năm 2017 ước tính là 54,8 triệu người, tăng
394,9 nghìn người so với năm 2016. Trong số 54,8 triệu lao động qua thống kê, bao
gồm: Lao động nam chiếm 51,9%; lao động nữ chiếm 48,1%; lao động khu vực thành
thị chiếm 32,2%; khu vực nông thôn chiếm 67,8%.
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động của cả nước năm 2017 ước tính 48,2 triệu
người, tăng 511 nghìn người so với năm trước, trong đó lao động nam chiếm 54,1%;
lao động nữ chiếm 45,9%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động khu vực thành
thị chiếm 33,4%; khu vực nông thôn chiếm 66,6%. Lao động 15 tuổi trở lên đang làm
việc trong các ngành kinh tế năm 2017 ước tính 53,7 triệu người, tăng 416,1 nghìn
người so với năm 2016.

Trong đó, lao động đang làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm
40,3%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 25,7%; khu vực dịch vụ chiếm
34,0%. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2017 khu vực thành thị chiếm
31,9%; khu vực nông thôn chiếm 68,1%. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi đã qua đào tạo
năm 2017 ước tính đạt 21,5%, cao hơn mức 20,6% của năm trước.
Cùng với đó, số người có việc làm trong quý I năm nay ước tính là 53,4 triệu người,
tăng 74,7 nghìn người so với cùng kỳ năm trước; quý II là 53,4 triệu người, tăng
164,3 nghìn người; quý III là 53,8 triệu người, tăng 496,9 nghìn người; quý IV là 54,1
triệu người, tăng 671,8 nghìn người.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2017 là 2,24%, trong đó khu vực
thành thị là 3,18%; khu vực nông thôn là 1,78%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ
15-24 tuổi) năm 2017 là 7,51%, trong đó khu vực thành thị là 11,75%; khu vực nông
thôn là 5,87%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi lao động năm 2017 là
1,63%, trong đó khu vực thành thị là 0,85%; khu vực nông thôn là 2,07%. Tỷ lệ lao
động có việc làm phi chính thức phi nông nghiệp16 năm 2017 ước tính là 57%, trong
đó khu vực thành thị là 48,5%; khu vực nông thôn là 64,4%.
Đáng chú ý, tổng số lao động đăng ký của các doanh nghiệp thành lập mới trong năm
2017 là 1.161,3 nghìn người, giảm 8,4% so với năm 2016. Theo ông Nguyễn Bích
Lâm, trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp


trong quý IV, có 61,1% số doanh nghiệp cho rằng khả năng cạnh tranh cao của hàng
hóa trong nước là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh;
32,7% số doanh nghiệp cho rằng gặp khó khăn về tài chính; 31,5% số doanh nghiệp
cho rằng không tuyển được lao động theo yêu cầu…
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực.
Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922
người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên
nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh

vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù
hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ
lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3
lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối
với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở
lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012
là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Biểu đồ 2 cho thấy lực lượng lao động với
trình độ chuyên môn kỹ thuật cao tăng trong giai đoạn Q2/2012 đến quý 2/2017. Tỷ lệ
lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật giảm 5,10 điểm phần trăm, tỷ lệ lao
động với trình độ sơ cấp tăng 1,08 điểm phần trăm, tỷ lệ lao động với trình độ cao
đẳng tăng 0,80 điểm phần trăm và tăng cao nhất là tỷ lệ lao động với trình độ đại học
tăng 3,00 điểm phần tram.
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền
kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá
XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ
thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu
việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao
động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số
người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu
đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người,
sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được
thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính
viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng
lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày
càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp
cận trình độ quốc tế.

Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như:


Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của
xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với
nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ
chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực
thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần
có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ
là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi
trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là
điểm yếu của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn
hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt
khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so
với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
Nguyên nhân của những hạn chế có nhiều, cần được phân tích kỹ và đầy đủ để
rút kinh nghiệm, trong đó theo chúng tôi, đáng chú ý là:
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của
phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất
lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ
ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều
các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.
Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu

cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách kịp
thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách chưa kịp
thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính toán đầy đủ
các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội trong
việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa chặt chẽ.
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng định
hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt; công
tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội, chưa thu
hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động; đội ngũ giáo
viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, còn sự chênh lệch
lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống phương pháp, công


cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo còn lạc hậu,
kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng…
Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực
chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội,
văn hoá nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục
nghề nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của
các nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương
pháp đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến
của các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc
tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ,
bồi dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu
cầu. Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao
đổi nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước
được thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế
này phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước.

4. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Để thực hiện được nhiệm vụ “… nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức” mà Đại
hội Đảng lần thứ X đề ra, cần phải sử dụng một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó
tập trung vào những vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất,đẩy mạnh phát triển kinh tế nhằm tạo điều kiện vật chất cần thiết
phục vụ cho nhu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Con người trước hết cần phải ăn, uống, chổ ở và mặc đã, rồi mới có thể làm
chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và…4để phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao thì trước hết cũng phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu vật chất, tinh thần cần thiết.
Do vậy, sự tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cơ bản để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao, khi nguồn nhân lực chất lượng cao được phát triển thì sẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Kế hoạch phát triển kinh tế 2011 - 2020, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8% năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh
bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt
khoảng 3000 USD5 sẽ là điều kiện để từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, sự tăng trưởng kinh tế chỉ là điều kiện, vì thế cần
có những chính sách hợp lý hơn nhằm đáp ứng nhu cầu trên, theo hướng thực thi một
cơ chế phân phối thu nhập mới cho nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với những
hoạt động đặc thù của lực lượng này; gắn thu nhập với kết quả nghiên cứu và hiệu quả
kinh tế - xã hội mà lực lượng này mang lại.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách.
Hệ thống cơ chế, chính sách có vai trò cực kỳ quan trọng, có thể tác động trực
tiếp hoặc gián tiếp, là động lực thúc đẩy hoặc lực cản kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội nói chung và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng.


Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế, chính
sách mới có tính đột phá, tác động tích cực đến việc phát triển nguồn nhân lực chất

lượng cao. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách đó đã bộc lộ không ít
những hạn chế, bất cập, hiệu quả mang lại chưa cao. Vì vậy, để tiếp tục phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao có hiệu quả, cần phải có sự điều chỉnh, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao.
Để cơ chế, chính sách thực sự tạo ra động lực cho sự phát triển thì cơ chế,
chính sách đó phải xuất phát từ điều kiện thực tiễn, và không ngừng hoàn thiện, đổi
mới khi điều kiện thực tiễn thay đổi. Trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
cũng vậy, để phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao thì đòi hỏi phải không
ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nếu không, không những không tạo ra
động lực, mà cơ chế, chính sách còn là lực cản lớn cho sự phát triển. Việc đổi mới,
hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo động lực cho sự phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phải thực hiện đồng bộ trên nhiều phương diện, từ cơ chế, chính sách về
giáo dục - đào tạo; cơ chế, chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe đến cơ chế, chính
sách thể dục, thể thao… làm cho con người phát triển toàn diện “phát triển cao về trí
tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”6.
4 C.Mác – Ph.Ăngghen: toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, H 1995, tr. 499.
5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H 2011, tr. 103.
6Xem: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng khóa VII, tại
Wedsite Đảng Cộng sản.
7Xem: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H 2011, tr.
131.
Thứ ba, nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo. Giáo dục và
đào tạo được coi là khâu then chốt, quyết định chất lượng nguồn nhân lực. Đảng ta
xác định “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”(5).
Xuất phát từ vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với tiến trình bồi dưỡng
nguồn nhân lực, cần thiết phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo ở tất cả các bậc
học. Trong đó, bước quan trọng đầu tiên là phải có sự đổi mới cả về mục tiêu, chương

trình và phương pháp dạy học từ bậc phổ thông đến đại học nhằm đảm bảo cung cấp
cho người học những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho hoạt động thực tiễn sau này
của họ. Phương pháp dạy học phải xuất phát từ mục tiêu đào tạo, gắn với nội dung và
phù hợp với điều kiện của học sinh; rèn luyện và tạo điều kiện cho học sinh biểu đạt
vấn đề theo quan điểm và cách nhìn của mình, tạo thói quen suy nghĩ độc lập cho người
học. Có chính sách đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và
đào tạo, đặc biệt là về đội ngũ giáo viên; đồng thời, hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên
toàn quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân
tộc thiểu số. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ điều kiện đáp ứng được yêu cầu giảng dạy,


phân công lại lực lượng giáo viên theo các vùng miền cho phù hợp, có chính sách ưu
đãi đối với giáo viên hiện đang công tác ở những vùng khó khăn.
Chuẩn hoá đội ngũ giảng viên, đảm bảo sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn
với phương pháp sư phạm hiện đại, có tư cách đạo đức tốt, phương pháp tư duy khoa
học… Các cơ quan quản lý giáo dục, trước hết là Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần xây
dựng lộ trình triển khai chuẩn hoá giảng viên cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt,
cần tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nước có
nền giáo dục phát triển. Đồng thời, Nhà nước cần có sự đầu tư thoả đáng nhằm hoàn
thiện cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường
cao đẳng và đại học, như hệ thống phòng thí nghiệm, thư viện, giảng đường.
Bên cạnh đó, cần chuẩn hoá chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội, xác định ngành nghề mũi nhọn nhằm đào tạo đội
ngũ chuyên gia có trình độ cao. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học của giảng
viên và sinh viên. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với chương trình đại học và cao
đẳng. Các đề tài nghiên cứu phải có tính thực tiễn cao. Khắc phục tình trạng phiến
diện, chỉ giỏi về lý thuyết nhưng lại kém về thực hành – một thực tế khá phổ biến mà
sinh viên nước ta đang mắc phải. Đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản
và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng

giáo dục và đào tạo, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo
dục và đào tạo. Nhà nước cần giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và
cao đẳng để các trường có điều kiện chủ động trong việc hợp tác quốc tế và nghiên
cứu khoa học.
Thứ tư, cải thiện và nâng cao thể lực cho con người nói chung và lực lượng lao
động nói riêng.
Bên cạnh việc nâng cao trình độ văn hoá và chuyên môn thì nâng cao thể lực
cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, tạo nền tảng cho việc phát triển
trí lực, tâm lực của nguồn nhân lực. Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Vì
vậy, cần phải đảm bảo mức dinh dưỡng cần thiết cho con người ở mọi lứa tuổi,
khuyến khích đẩy mạnh phong trào rèn luyện thể dục thể thao trong nhân dân… Chú
trọng phát triển công nghiệp dược đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của nhân dân.
Đẩy mạnh nghiên cứu dự báo về y tế, các chương trình khám chữa bệnh miễn phí cho
trẻ em, phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh có khả năng lây lan nhanh. Thực
hiện có hiệu quả công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân, nâng cao tuổi
thọ… góp phần phát triển nguồn nhân lực có chiều sâu.
Thứ năm, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực.
Nhà nước cần nghiên cứu và đánh giá đầy đủ, chính xác về thực trạng cơ cấu
nhân lực ở từng giai đoạn, làm rõ các nguồn nhân lực thừa và nhân lực thiếu, xác định
nguyên nhân của tình trạng trên; từ đó, áp dụng các chính sách và công cụ đòn bẩy
phù hợp nhằm khai thác, sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực. Đẩy mạnh việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân luồng trong đào tạo, hướng nghiệp cho học sinh, qua


đó tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tích cực, phù hợp với nhu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Bên cạnh đó, cần có các chính
sách ưu đãi, hỗ trợ nhằm thu hút nguồn nhân lực từ nơi thừa sang nơi thiếu; từ thành
phố, đồng bằng lên vùng sâu, vùng xa. Trước mắt, cần có kế hoạch sử dụng triệt để và
hiệu quả lực lượng lao động đã qua đào tạo, tránh tình trạng lãng phí như hiện nay
(không bố trí được công ăn việc làm, sử dụng trái ngành nghề đào tạo,…).

Thứ sáu, tăng cường công tác dự báo nguồn nhân lực.
Cần nghiên cứu đánh giá thực trạng cơ cấu nhân lực hiện có cũng như dự báo
về nhu cầu nhân lực ở các ngành, lĩnh vực khác nhau nhằm chủ động tránh tình trạng
thừa và thiếu nhân lực. Tăng cường công tác dự báo phát triển nguồn nhân lực trên
phạm vi vùng, ngành và quốc gia đảm bảo sự phù hợp với chiến lược phát triển kinh
tế – xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Nhiệm vụ này cần được tiến hành thường
xuyên để có sự điều chỉnh cho phù hợp với những thay đổi của thực tiễn cuộc sống.
Thứ bẩy, xây dựng chính sách tiền lương hợp lý.
Chính sách tiền lương hợp lý là một trong những động lực quan trọng kích
thích người lao động nâng cao trình độ của mình để đáp ứng được nhu cầu của công
việc, đảm bảo tăng thu nhập và ổn định đời sống. Lợi ích là khâu nhạy cảm nhất vì
mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt mục tiêu là lợi ích. Nó là yếu tố quan
trọng đối với việc thúc đẩy tính tích cực, sáng tạo của con người. Có nhiều loại lợi ích
khác nhau, trong đó lợi ích kinh tế là lợi ích cơ bản, hàng đầu. Vì vậy, chính sách tiền
lương, tiền công phải đảm bảo nguyên tắc công bằng xã hội, tránh tình trạng giải
quyết lợi ích theo kiểu bình quân chủ nghĩa.
Tóm lại, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển kinh tế tri thức như Đại hội X Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đề ra, chúng ta cần phải thực hiện đầy đủ và đồng bộ các giải
pháp. Giữa các giải pháp có mối quan hệ chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau, coi nhẹ hoặc bỏ
qua một giải pháp nào đó sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả của các giải pháp khác.
(*) Phó trưởng khoa Khoa học cơ bản, Trường Cao đẳng Phát thanh Truyền hình I.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.187.
(2) TS. Nguyễn Thanh. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.86.
(3) Vũ Minh Mão – Hoàng Xuân Hoà. Dân số và chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam trong quá trình phát triển kinh tế. Tạp chí Cộng sản, số 709, 2004, tr.65.
(4) Trần Khánh Đức. Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân lực theo ISO &
TQM. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2004, tr.26.

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.94-95.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×