Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

“Giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi văn C với UBND Thành phố Đà Lạt về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đúng quy định”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.76 KB, 12 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Công cuộc đổi mới đất nước đã và đang tạo ra thế và lực mới, đất nước ta đang
đứng trước những cơ hội lớn cho sự phát triển nhưng thách thức cũng không nhỏ. Từ
một nước phải nhập khẩu lương thực đến nay nước ta đã vươn lên vị trí các nước dẫn
đầu trong khu vực và trên thế giới về sản lượng gạo xuất khẩu. Sự hợp tác hoá ngày
càng được mở rộng, nhằm khai thác tối đa lợi thế sẵn có trong nước, tiếp cận, ứng
dụng đón đầu các tiến bộ khoa học kỹ thuật trên thế giới, tranh thủ sự đầu tư, hỗ trợ
của cộng đồng quốc tế. Song trong công cuộc xây dựng đất nước, ngoài những thành
tựu đã đạt được, chúng ta còn bộc lộc nhiều yếu kém, khuyết điểm, nhất là về quản lý
kinh tế, quản lý xã hội trong cơ chế thị trường hiện nay. Đòi hỏi công tác đổi mới,
công tác đào tạo cán bộ, đổi mới cán bộ, cải cách hành chính Nhà nước phải được
quan tâm và đầu tư đúng đắn để công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội theo kịp xu
thế phát triển chung của khu vực và thế giới.
Trên thực tế hiện nay, vấn đề thu hồi đất là một vấn đề hết sức phức tạp và nan
giải. Từ xa xưa đất đai đã là một tư liệu sản xuất quan trọng bậc nhất của con người
trong việc con người tạo ra của cải vật chất phục vụ cho bản thân và xã hội, ngày nay
khi dân số ngày càng tăng, đất đai ngày càng thu hẹp giá trị đất đai mỗi ngày một lên
cao thì việc quản lý nhà nước đối với đất đai lại càng khó khăn. Nếu không có những
chính sách hợp lý thì nhà nước sẽ không được lòng dân, nếu không quan tâm tới lợi
ích của nhân dân khi thực hiện các chính sách về đất đai thì sẽ làm nảy sinh nhiều vấn
đề như khiếu nại, tố cáo, biểu tình hay chống đối lại chính quyền. Do vậy Nhà Nước
cần có những chính sách hợp lý để đảm bảo cho quyền lợi của nhân dân, của nhà nước
và đảm bảo cho chế độ xã hội chủ nghĩa được phát triển bền vững
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây
dựng và tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tuy nhiên đất
đai và công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất đang là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều mặt của
đời sống kinh tế - xã hội. Do đó, thực tế công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng và tái định cư vẫn còn nhiều vướng mắc và tồn tại gây nhiều bức xúc trong nhân
dân dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo.
Nguyên nhân dẫn đến tình hình khiếu nại, tố cáo gia tăng chủ yếu là do cơ chế,


chính sách có những bất cập, chưa phù hợp với thực tế; công tác quản lý đất đai còn
nhiều yếu kém. Nhiều trường hợp người dân khiếu nại về việc bồi thường giải phóng
mặt bằng mà ở cấp cơ sở lại thiếu cơ chế, chính sách giải quyết thỏa đáng. Công tác
quản lý đất đai ở một số địa phương còn buông lỏng, để xảy ra sai phạm. Quá trình
thực hiện thu hồi đất của người dân chưa đúng trình tự, thủ tục, thiếu công khai, minh
bạch, dân chủ, gây bức xúc trong dư luận. Thậm trí một số trường hợp số tiền bồi
thường, hỗ trợ chưa đủ để người dân tạo lập chỗ ở mới tốt hơn. Có những dự án sau
khi thu hồi đất sản xuất của người dân nhưng không được sử dụng hợp lý, đất đai bỏ
hoang, lãng phí, trong khi nông dân thiếu đất sản xuất dẫn đến khiếu kiện. Khi phát
sinh khiếu nại, tố cáo, chính quyền địa phương chưa làm tròn trách nhiệm của mình,
thiếu quan tâm giải quyết từ cơ sở, có nhiều vụ việc giải quyết chậm, thẩm tra, xác
minh sơ sài, thu thập chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính xác, áp dụng pháp
luật cứng nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, người dân không đồng tình,
tiếp tục khiếu nại. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước để giải quyết khiếu nại chưa
1


tốt, còn có hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm, chuyển đơn lòng vòng, trả lời thiếu thống
nhất. Việc tuyên truyền, giáo dục vận động, thuyết phục hướng dẫn người khiếu nại
chưa được quan tâm thực hiện đúng mức, cho nên có những vụ việc đơn giản vẫn phát
sinh đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Mặt khác, do không hiểu biết đầy đủ chính
sách, pháp luật về đất đai, nhiều vụ việc người dân khiếu kiện sai, thậm chí bị kẻ xấu
lợi dụng, biến các vụ việc khiếu nại thuần túy trở nên căng thẳng.
Vì vậy, vấn đề giải quyết khiếu nại liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý
nhà nước đối với đất đai và là biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai trò
trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết có hiệu quả các khiếu nại liên quan
đến việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư mà các quan hệ đất đai được điều chỉnh cho
phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của người sử dụng đất. Với ý nghĩa đó
cùng với các kiến thức đã học được qua lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên, tôi chọn

tình huống: “Giải quyết đơn khiếu nại của ông Bùi văn C với UBND Thành phố Đà
Lạt về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư không đúng quy định” để làm tiểu luận
cuối khóa lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên khóa 64.
Mục đích của việc lựa chọn tình huống này là nhằm rút ra những kinh nghiệm,
những bài học cần thiết từ phía các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước trong công
tác quản lý đất đai và việc giải quyết đối với các đơn thư khiếu nại của người dân liên
quan đến các thủ tục thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất. Góp phần vào công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn ngày càng đi
vào nề nếp, có hiệu lực và hiệu quả cao, phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội ở địa phương.
Vì thời gian ngắn ngủi và kinh nghiệm còn ít không thể tránh khỏi những thiếu
xót, em xin chân thành cám ơn sự góp của các thầy cô để chuyên đề được hoàn thiện
và đạt hiệu quả.
Em xin chân thành cảm ơn quý thấy cô đã giảng dạy và giúp đỡ em hoàn thành
lớp Bồi dưỡng ngạch chuyên viên khóa 64.

2


PHẦN NỘI DUNG
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG:
Ngày 08 tháng 7 năm 2004, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành Quyết
định số 2725/QĐ-UB thu hồi 84.527,01m2 đất giao cho Uỷ ban nhân dân thành phố Đà
Lạt để triển khai quy hoạch phân lô khu dân cư đường Y (cũ), phường X - thành phố
Đà Lạt. Diện tích đất thu hồi của hộ gia đình ông Bùi Văn C theo Quyết định số
3399/QĐ-UBND ngày 14 tháng 12 năm 2007 của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt
là 644,48m2, thuộc thửa 101 - tờ số 21 bản đồ địa chính phường X - thành phố Đà Lạt.
Tổng giá trị bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông Bùi Văn C theo các quyết
định của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt là
447.575.000 đồng, cụ thể :

* Tại Quyết định số 952/QĐ-UBND ngày 22 tháng 3 năm 2007 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Lâm Đồng, giá trị bồi thường, hỗ trợ là 95.832.000 đồng, gồm:
- Đất đai :

12.374.000 đồng.

Hỗ trợ đất nông nghiệp: 644,48 m2 x 64.000đồng/m2 = 12.374.000 đồng.
- Nhà cửa, vật kiến trúc và cây trồng :

66.410.000 đồng.

- Các khoản hỗ trợ :

17.050.000 đồng.

Đồng thời hộ gia đình ông Bùi Văn C được bố trí ½ lô biệt lập theo cơ chế 2
giá.
Do hộ gia đình ông Bùi Văn C là một trong các đối tượng đang thuê nhà thuộc
sở hữu Nhà nước có đất bị thu hồi, nhằm tạo điều kiện cho các hộ dân có một phần chi
phí tự lo chỗ ở và nộp tiền sử dụng đất, trên cơ sở tờ trình số 4047/TT-UBND ngày 22
tháng 10 năm 2008 của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt và văn bản số 1971/STCGCS ngày 10 tháng 11 năm 2008 của Sở Tài chính, ngày 19 tháng 11 năm 2008, Ủy
ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã ban hành Văn bản số 8430/UBND-KT thống nhất cho
các hộ gia đình, cá nhân sử dụng nhà và đất có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước vận
dụng quy định tại Điều 21 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP để hỗ trợ 60% giá trị đất và
60% giá trị nhà đang thuê với đơn giá quy định tại thời điểm phê duyệt chi phí bồi
thường, hỗ trợ là năm 2007.
Trên cơ sở đó, ngày 25 tháng 12 năm 2008, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt
đã ban hành Quyết định số 3641/QĐ-UBND phê duyệt bổ sung chi phí hỗ trợ cho các
hộ hộ gia đình và cá nhân, trong đó hộ gia đình ông Bùi Văn C là 201.766.000 đồng,
gồm :

- Hỗ trợ về đất:

191.797.000 đồng.

- Hỗ trợ về nhà:

9.969.000 đồng.

Không đồng ý với quyết định phê duyệt của Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt,
hộ gia đình ông Bùi Văn C đã khiếu nại đến Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Thực hiện nội dung chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại văn bản số
479/UBND-TD ngày 21 tháng 01 năm 2009 về việc xử lý đơn khiếu nại của ông Bùi
3


Văn C, ngày 02 tháng 3 năm 2009 Sở Tài chính Lâm Đồng đã có Báo cáo số 394/BCSTC-TTr báo cáo kết quả kiểm tra đơn khiếu nại. Trên cơ sở đó, ngày 31 tháng 3 năm
2009, Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã có Văn bản số 1989/UBND-TD chỉ đạo Ủy
ban nhân dân thành phố Đà Lạt xem xét, giải quyết vụ việc khiếu nại của ông Bùi Văn C
theo thẩm quyền và báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh.
Ngày 22 tháng 7 năm 2009, Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt đã ban hành
Quyết định số 2355/QĐ-UBND bổ sung chi phí hỗ trợ cho hộ gia đình ông Bùi Văn C
149.977.000 đồng, gồm :
- Hỗ trợ về đất :

146.977.000 đồng.

- Hỗ trợ hộ gia đình chính sách :

3.000.000 đồng.


Không đồng ý với việc tính toán bồi thường bổ sung theo đơn giá đất ở năm
2007 và tỷ lệ hỗ trợ đất nông nghiệp liền kề đất ở là 30%. Đồng thời, cho rằng việc
tính toán bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình ông chậm là do lỗi của cơ quan Nhà nước,
ông Bùi Văn C tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt yêu
cầu được bồi thường, hỗ trợ theo đơn giá đất năm 2009 và được hỗ trợ 50% đất ở liền
kề.
Trên cơ sở đề xuất tại Báo cáo số 599/BC-TTPTQĐ ngày 25 tháng 8 năm 2009
của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố Đà Lạt, ngày 07 tháng 9 năm 2009, Uỷ ban
nhân dân thành phố Đà Lạt đã ban hành Quyết định số 3019/QĐ-UBND không chấp
nhận đơn khiếu nại của ông Bùi Văn C.
Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại số 3019/QĐ-UBND của Ủy
ban nhân dân thành phố Đà Lạt, ông Bùi Văn C tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Uỷ ban
nhân dân tỉnh yêu cầu được bồi thường, hỗ trợ theo đơn giá đất năm 2009 và được hỗ
trợ 50% đất ở liền kề.
Ngày 23/9/2008 UBND tỉnh Lâm Đồng ban hành Văn bản số 7069/UBND-TD
về việc giao Sở Tài chính thẩm tra, xác minh theo thẩm quyền báo cáo và đề xuất
hướng xử lý đối với đơn của Ông Bùi Văn C nêu trên.
II. XÁC ĐỊNH MỤC TIÊU XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:
Trong tình hình hiện nay, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá đã và đang diễn
ra nhanh chóng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Đà Lạt theo hướng
tăng dần tỷ trọng nhóm ngành thương mại, dịch vụ, du lịch giảm dần tỷ trọng nhóm
ngành nông nghiệp trình độ thấp. Trong xu thế và yêu cầu mới đã và đang đặt ra cho
thành phố Đà Lạt cần phải tập trung giải quyết có hiệu quả công tác bồi thường, giải
phóng mặt bằng để triển khai xây dựng các công trình, dự án nhằm chỉnh trang, phát
triển đô thị - đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng bộ, Chính quyền,
các ngành, các cấp của thành phố Đà Lạt. Đồng thời, với quan điểm giải quyết một
cách triệt để tình trạng khiếu nại của nguời dân nhằm đảm bảo kỷ cương, sự nghiêm
minh của pháp luật nhằm thực hiện được việc triển khai dự án đúng tiến độ, nhưng bên
cạnh đó phải giải quyết một cách thoả đáng quyền lợi chính đáng của người dân có đất
bị thu hồi khi thực hiện dự án khu quy hoạch dân cư đường H, thực hiện một cách

công bằng, công khai, dân chủ và đúng theo các quy định của pháp luật. Đồng thời
phải xem xét lại việc tính toán chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân

4


nhằm ổn định cuộc sống cho người có đất bị thu hồi giải toả, tạo lòng tin của Nhân dân
đối với Nhà nước.
Xác định mục tiêu xử lý tình huống pháp lý đặt ra là một quá trình phân tích,
đánh giá tính chất cấp thiết của vấn đề do tình huống đặt ra, có ý nghĩa quan trọng
trong việc đưa ra các phương án xử lý tình huống. Trong khuôn khổ tình huống liên
quan đến công tác giải quyết khiếu nại khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai dự án
khu dân cư đường H - thành phố Đà Lạt, việc giải quyết vấn đề cần xác định những
mục tiêu sau:
Một là, việc giải quyết khiếu nại nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ vững kỷ cương phép nước, đảm bảo ổn định an ninh,
trật tự địa phương. Đảm bảo các quy định pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu
nại, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhân dân khi Nhà nước thu hồi đất.
Hai là, chấn chỉnh việc thực hiện pháp luật trong công tác giải quyết khiếu nại
để pháp luật đi vào nề nếp; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật, tạo niềm tin
cho quần chúng nhân dân trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai.
Ba là, việc xử lý tình huống đặt ra nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy nhanh công tác
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng đúng thời hạn để giao đất cho chủ đầu tư thực hiện dự
án theo tiến độ đã định.
Bốn là, kết quả giải quyết khiếu nại giúp cho việc bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đúng đối tượng nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân.
Năm là, việc giải quyết tình huống nhằm đáp ứng yêu cầu đảm bảo việc giải
quyết thấu tình, đạt lý; kết hợp hài hòa giữa tính pháp lý, lợi ích kinh tế và lợi ích xã
hội.

III. PHÂN TÍCH NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA TÌNH HUỐNG:
1. Nguyên nhân:
Nguyên nhân dẫn đến vụ việc khiếu nại như sau:
Tại thời điểm Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành quyết định thu hồi đất và phê duyệt
chi phí bồi thường, hỗ trợ các hộ gia đình và cá nhân gồm: Bùi Văn C - Trần Thị B;
Hoàng Văn H - Nguyễn Thị D; Trần Văn B - Nguyễn Thị N; Nguyễn Văn V - Phan Thị
E và Huỳnh Thị B là các hộ gia đình đang thuê nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước. Ngoài
diện tích nhà thuê của Nhà nước, các hộ gia đình còn diện tích nhà tự cơi nới và đất
sang nhượng, khai phá lấn chiếm sử dụng ổn định không tranh chấp trước tháng 10
năm 1993. Tuy nhiên, do khi lập, thẩm định và phê duyệt chi phí bồi thường hỗ trợ và
tái định cư Dự án Xây dựng khu dân cư đường H trên địa bàn phường X, phường M thành phố Đà Lạt các đơn vị đã không tách diện tích nhà đang thuê và đất khai phá lấn
chiếm ngoài diện tích thuê để áp dụng các chính sách riêng biệt trong tính toán bồi
thường, hỗ trợ cho từng lĩnh vực khi thu hồi đất, cho nên trong quá trình thực hiện bồi
thường, giải phóng mặt bằng đã phát sinh những vướng mắc dẫn đến khiếu nại.
Ngoài Quyết định phê duyệt chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái đinh cư lần đầu của
Ủy ban nhân dân tỉnh cho hộ gia đình ông Bùi Văn C (Quyết định số 952/QĐ-UBND
ngày 22/3/2007). Khi phát sinh vướng mắc, trên cơ sở báo cáo, tham mưu đề xuất
5


hướng giải quyết của các Sở và Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt đã được của Ủy
ban nhân dân tỉnh chấp thuận tại văn bản số 8430/UBND-KT ngày 19 tháng 11 năm
2008 và khi phát sinh khiếu nại, trên cở sở báo cáo số 394/BC-STC-TTr ngày 02 tháng
3 năm 2009 của Sở Tài chính và ý kiến chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh tại văn bản
số 1989/UBND-TD ngày 31 tháng 3 năm 2009.
Vì vậy, khi Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt ban hành các quyết định phê
duyệt chi phí bồi thường, hỗ trợ bổ sung về đất do thay đổi về loại đất và tỷ lệ bồi
thường hỗ trợ về đất (Quyết định số 3641/QĐ- UBND ngày 25 tháng 12 năm 2008 và
Quyết định số 2355/QĐ - UBND ngày 22 tháng 7 năm 2009) cho hộ gia đình ông Bùi
Văn C phải áp dụng theo các quy định tại Quyết định số 15/2008/QĐ- UBND ngày 05

tháng 5 năm 2008 “về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng”; Quyết định số 45/2007/QĐUBND ngày 18 tháng 12 năm 2007 “ về việc quy định giá các loại đất năm 2008 trên
địa bàn thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng”, Quyết định số 58/2008/QĐ-UBND ngày
22 tháng 12 năm 2008 “về quy định giá các loại đất năm 2009 trên địa bàn thành phố
Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng” và Quyết định số 48/2008/QĐ-UBND ngày 28 tháng 10 năm
2008 “về việc ban hành quy định về nguyên tắc, phương pháp xác định giá các loại
đất trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng” của Ủy ban nhân dân tỉnh.
Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt vẫn áp dụng đơn giá đất năm 2007
để tính toán bồi thường, hỗ trợ bổ sung về đất cho hộ gia đình ông Bùi Văn C là chưa
đúng với quy định tại các văn bản nêu trên vì việc tính toán và bồi thường chậm là lỗi
của các cơ quan nhà nước gây ra.
Mặt khác, trong quá trình triển khai dự án, Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt
chưa chỉ đạo và tổ chức thực hiện một cách thận trọng và chặt chẽ đúng theo quy định
trong việc tính toán bồi thường hỗ trợ, bố trí đất tái định cư, áp dụng đơn giá đất tùy
tiện, có nhiều sai sót trong quá trình thực hiện thể hiện bằng việc ban hành rất nhiều
quyết định phê duyệt chi phí bồi thường gây tâm lý hoang mang tạo ra nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến thắc mắc, khiếu nại của người dân.
Đối với các cơ quan chuyên môn giúp cho Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt
trong lĩnh vực lập phương án và tính toán bồi thường, hỗ trợ về đất không chặt chẽ,
việc không căn cứ vào xác nhận về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của Uỷ ban nhân
dân phường X khi tiến hành tính toán bồi thường, hỗ trợ dẫn đến thắc mắc khiếu nại.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt
không đưa ra được các căn cứ pháp lý thuyết phục để bác đơn khiếu nại của ông
Nguyễn A.
2. Hậu quả:
Từ việc giải quyết khiếu nại lần đầu của Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt
không đúng các quy định của pháp luật, do cán bộ tham mưu thiếu trách nhiệm không
đưa ra được lý do, căn cứ rõ ràng. Dẫn đến thiệt hại kinh tế của cá nhân người khiếu
nại, niềm tin của người dân bị tổn thương cái mất lớn nhất là uy tín của chính quyền
thành phố. Gây ảnh hưởng xấu về mặt xã hội làm giảm tính hiệu lực của pháp luật.

Việc giải quyết khiếu nại lần đầu không đúng quy định dẫn đến người dân phải
đi lại nhiều lần, các cơ quan Nhà nước phải mất thời gian, tiền bạc để xem xét giải
6


quyết ảnh hưởng đến công việc chuyên môn, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án;
gây thiệt hại về kinh tế, bức xúc cho ngững người chấp hành đúng quy định và di dời
đúng tiến độ để bàn giao mặt bằng dẫn đến khiếu nại thắc mắc kéo dài gây ra điểm
nóng, dễ tạo điều kiện cho kẻ xấu lợi dụng kích động để chống phá trên mọi mặt an
ninh, kinh tế, chính trị tại địa phương.
IV. XÂY DỰNG VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT:
Với mục tiêu giải quyết dứt điểm vụ việc khiếu nại trên cơ sở thiết lập các
phương án phân tích mặt mạnh, mặt yếu để tìm ra giải pháp tối ưu.
1. Cơ sở xây dựng phương án:
- Luật Đất đai năm 2003;
- Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của
Chính Phủ.
- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
2. Xây dựng phương án:
2.1 Phương án 1: Giữ nguyên Quyết định số 3019/QĐ-UBND ngày 07 tháng 9
năm 2009 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt về việc giải quyết đơn
khiếu nại của ông Bùi Văn C:
- Ưu điểm: đảm bảo được uy tín của chính quyền thành phố Đà Lạt không mất
thời gian nghiên cứu vận dụng chính sách chế độ.

- Nhược điểm: không đáp ứng yêu cầu của người khiếu nại, gây mất lòng tin
vào chính quyền địa phương dễ dẫn đến tình trạng khiếu nại kéo dài và vượt cấp, làm
mất trật tự an toàn xã hội tạo áp lực công việc giải quyết khiếu nại đối với cơ quan
trung ương.
2.2 Phương án 2: Chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Bùi Văn C yêu
cầu được bồi thường, hỗ trợ theo đơn giá đất năm 2009 và được hỗ trợ 50% đất ở liền
kề.
Phân tích phương án như sau:
Hộ ông Bùi Văn C là một trong các đối tượng đang thuê nhà thuộc sở hữu Nhà
nước. Ngoài diện tích nhà thuê của Nhà nước, hộ gia đình ông Bùi Văn C còn diện tích
nhà tự cơi nới và đất nhận chuyển nhượng, khai phá lấn chiếm sử dụng ổn định không
tranh chấp trước ngày 15 tháng 10 năm 1993. Tuy nhiên, do khi lập, thẩm định và phê
duyệt chi phí bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, các cơ quan chức năng đã không tách
phần diện tích nhà đang thuê và đất khai phá lấn chiếm ngoài diện tích thuê để tính toán
bồi thường, hỗ trợ.

7


Việc Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt áp dụng đơn giá đất năm 2007 để tính
toán bồi thường, hỗ trợ cho ông Bùi Văn C là chưa đúng với thời điểm sử dụng đất và
thời điểm phê duyệt chi phí bồi thường, hỗ trợ về đất; mặt khác, việc tính toán bồi
thường chậm là do lỗi của cơ quan nhà nước.
Căn cứ quy định tại điểm b Khoản 3 Điều 3 và điểm a Khoản 2 Điều 9 “Quy định
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng” ban hành kèm theo Quyết định số 15/2008/QĐ-UBND ngày 05 tháng 5 năm
2008 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng thì nội dung đơn khiếu nại của ông Bùi Văn
C yêu cầu được bồi thường, hỗ trợ theo đơn giá đất năm 2009 và được hỗ trợ 50% giá
đất ở liền kề khi thu hồi đất của gia đình ông là có cơ sở.
- Ưu điểm: Đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của người dân có

đất bị thu hồi. chấm dứt vụ việc khiếu nại. Tạo niềm tin của người dân đối với chính
quyền các cấp;
- Nhược điểm: ảnh hưởng đến uy tín của các cán bộ, công chức viên chức thực
hiện việc bồi thường, hỗ trợ và giải quyết khiếu nại lần đầu của của chính quyền thành
phố Đà Lạt.
3. Lựa chọn phương án:
Qua phân tích đánh giá ưu điểm, nhược điểm của 2 phương án trên thì bản thân
tôi xét thấy phương án 2 là tối ưu nhất vì đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo
quyền lợi của người có đất bị thu hồi. Mặt khác, tình hình khiếu nại của người dân về
bồi thường, giải phòng mặt bằng đang là điểm nóng và hiện nay đang diễn ra phức tạp
mất trật tự kỷ cương của nhà nước. Nếu không cương quyết xử lý nghiêm minh thấu
tình đạt lý, hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước với công dân thì sẽ dẫn đến việc khiếu
nại kéo dài. Bên cạnh đó Nhà nước sẽ phải tốn kém nhiều hơn về thời gian, công sức
trong quá trình thẩm tra, xác minh xử lý. Nếu nhà nước giải quyết không nghiêm túc
dẫn tới xã hội sẽ rối loạn, kỷ cương phép nước không được nghiêm thì quyền lực nhà
nước sẽ bị giảm sút, niềm tin của nhân dân đối với nhà nước bị hạn chế và chắc chắn
sẽ gặp không ít khó khăn trong công tác quản lý hành chính nhà nước. Mặt khác có
thực hiện nghiêm túc các quyết định quản lý hành chính nhà nước thì người ngay
thẳng, người trung thực, người sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật sẽ được
bảo vệ, thể hiện sự công bằng xã hội và những người cố tình vi phạm pháp luật hoặc
lợi dụng sơ hở của pháp luật làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính sẽ bị pháp luật trừng
trị.
V. KẾ HOẠCH VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN:
Giải quyết khiếu nại theo hướng chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Bùi
Văn C, cụ thể:
Chấp nhận nội dung khiếu nại yêu cầu được bồi thường theo đơn giá đất năm
2009 và được hỗ trợ 50% giá đất ở liền kề khi thu hồi đất của gia đình ông tại số 29
đường H - phường X - thành phố Đà Lạt.
Giao Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Lạt:
- Tính toán và phê duyệt giá trị bồi thường, hỗ trợ bổ sung về đất đối với diện

tích đất bị thu hồi của hộ gia đình ông Bùi Văn C theo đơn giá đất năm 2009; đồng

8


thời tính toán giá đất tái định cư theo đơn giá năm 2009 khi bố trí đất tái định cư cho
hộ gia đình ông Bùi Văn C.
- Hủy bỏ Quyết định số 3019/QĐ-UBND ngày 07 tháng 9 năm 2009 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố Đà Lạt “Về việc giải quyết khiếu nại của ông, bà Bùi
Văn C - Trần Thị B, ngụ tại số 29 đường H- phường X - thành phố Đà Lạt”.

9


PHẦN KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
I. Kiến nghị:
Qua việc xử lý tình huống được nêu trên, xuất phát từ những vấn đề còn cần
phải xem xét giải quyết, từ đó có những kiến nghị sau:
Một là, phải xác định việc thu hồi đất để phát triển đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng
các khu, cụm công nghiệp…nhằm thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa là nhiệm
vụ của cả hệ thống chính trị. Do vậy, trước khi thực hiện công tác thu hồi đất thì toàn
bộ hệ thống chính trị từ tỉnh, thành phố đến tận thôn, làng, tổ dân phố phải thực hiện
tốt công tác tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân nhận thức và ủng hộ các chủ
trương thu hồi đất của nhà nước. Công khai lấy ý kiến của nhân dân; công khai
phương án bồi thường để các hộ dân có liên quan được biết, giám sát; vận động nhân
dân hiến đất, nhận tiền đền bù hoặc nhận đất tái định cư để giải phóng mặt bằng xây
dựng công trình.
Hai là, thực hiện tốt công tác bồi thường giải phóng mặt bằng đúng theo quy
định của nhà nước, đảm bảo chi trả tiền bồi thường đúng tiến độ, kịp thời. Ngoài ra, có
thể vận dụng linh hoạt các chính sách hỗ trợ riêng của địa phương để hỗ trợ ngừng sản

xuất, khen thưởng giải phóng mặt bằng đúng thời gian quy định…
Ba là, phải thực hiện đồng bộ giữa công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch và
triển khai thực hiện theo quy hoạch. Tránh trường hợp đã thu hồi đất nhưng tiến độ
triển khai thực hiện dự án quá chậm gây dư luận không tốt, bức xúc trong nhân dân.
Có thể thực hiện trước công tác bồi thường, sau đó để nhân dân tiếp tục sản xuất các
loại cây ngắn ngày trên diện tích đất đã thu hồi và cam kết sẽ tự hoàn trả lại diện tích
đã thu hồi khi triển khai thực hiện dự án.
Bốn là, giải quyết có hiệu quả công tác đào tạo nghề, chuyển đổi ngành nghề,
giải quyết việc làm cho nhân dân vùng bị thu hồi đất. Đảm bảo nhân dân có đất bị thu
hồi không bị xáo trộn về đời sống và sản xuất. Đối với các hộ dân bị thu hồi hết phần
diện tích đất canh tác hoặc diện tích đất ở thì hỗ trợ chuyển đổi ngành nghề sang phi
nông nghiệp (như: kinh doanh nhỏ, phục vụ du lịch…), gắn với khôi phục và phát triển
các làng nghề truyền thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số: sản xuất rượu cần,
hàng thủ công mỹ nghệ, lưu niệm.
Trong thời gian tới, việc bồi thường, giải phóng mặt bằng để triển khai các dự án
trên địa bàn tỉnh nói chung và thành phố nói riêng sẽ tiếp tục được đẩy mạnh, việc thu
hồi đất, bồi thường giải phóng mặt bằng đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, các cấp, các
ngành cần quan tâm thực hiện:
1. Đảm bảo tính thống nhất, nhất quán trong chính sách bồi thường, hỗ trợ tái
định cư, tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi dự án, mỗi công trình có mức bồi
thường và hỗ trợ khác nhau, từ đó làm nảy sinh ý tưởng so sánh quyền lợi từ phía
người dân. Khẩn trương hoàn thiện các quy định của pháp luật, theo hướng dựa trên cơ
sở thị trường để giải quyết vấn đề bồi thường cho người bị thu hồi đất.
2. Nâng cao chất lượng công trình quy hoạch tái định cư; chú ý đến yếu tố văn
hóa, tập quán, thói quen của đồng bào các dân tộc thiểu số khi xây các khu tái định cư.

10


3. Nâng cao năng lực thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các ban, ngành

ở địa phương và các đơn vị tư vấn, cũng như tinh thần trách nhiệm, sự tuân thủ trình tự
thủ tục theo quy định của pháp luật, của cán bộ thực thi việc kiểm kê, kiểm đếm, lập
phương án bồi thường.
4. Có một kế hoạch dài hạn với nguồn tài chính đảm bảo trong nhiều năm để thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Khống chế một cách nghiêm chỉnh về quy mô thu
hồi đất; xác định tiêu chuẩn bồi thường một cách hợp lý và hoàn thiện hơn nữa quy
trình thu hồi đất.
5. Ban hành quy định cụ thể, rõ ràng hơn, chi tiết hơn để khắc phục những khó
khăn trong việc xác định nguồn gốc đất dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định điều
kiện để được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người dân.
II. Kết Luận:
Tình huống trên chưa phải là một điển hình song vấn đề đặt ra là phương thức
giải quyết khiếu nại của các cấp chính quyền địa phương còn nhiều vấn đề phải xem
xét, giải quyết làm thế nào để nâng cao năng lực hiệu quả của cơ quan quản lý nhà
nước mà cụ thể là đối với công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư và công tác giải
quyết khiếu nại tố cáo. Giải quyết khiếu nại của dân phải nắm vững chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước giải quyết hài hoà giữa lợi ích của nhà nước
và công dân. Đạt được điều đó có nhiều việc phải làm, nhưng điều quan trọng hơn cả
là các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước phải cố gắng nỗ lực nhiều hơn nữa hướng
tới việc cải cách thủ tục hành chính, nâng cao trách nhiệm trong giải quyết công việc.
Việc xác minh nguồn gốc, quá trình sử dụng đất nói chung và đất ở nói riêng;
việc áp dụng đơn giá đất để tính toán chi phí bồi thường, hỗ trợ cho người dân khi giải
phóng mặt bằng không chặt chẽ, không đúng thực tế là nguyên nhân dẫn đến thắc mắc
khiếu nại của người dân.
Đất đai là một vấn đề hết sức nhạy cảm, đòi hỏi công tác quản lý nhà nước về
đất đai phải ngày càng chặt chẽ, kỷ cương không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật
đất đai, cải tiến cơ chế, lề lối làm việc sao cho đáp ứng được nhu cầu và tình hình mới
đặt ra trong xu thế mới, thời đại mới.
Trong những năm qua, các ngành các cấp từ trung ương đến địa phương đã thực
hiện nhiều biện pháp để quản lý có hiệu quả. Tuy nhiên, sự thiếu trách nhiệm, thiếu

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa am hiểu pháp luật của một bộ phận cán bộ, công
chức trong ngành chuyên môn cũng đã làm cho công tác quản lý đất đai của Nhà nước
gặp nhiều khó khăn, dẫn đến nhiều vụ khiếu nại kéo dài. Các văn bản của nhà nước về
việc quản lý sử dụng đất còn bất cập không phù hợp cũng như không theo kịp diễn
biến về sự phát triển về kinh tế từng ngày khi mà chúng ta chuyển từ cơ chế quản lý
quan liêu tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như
hiện nay, việc phối hợp của các cơ quan liên quan không đồng bộ, việc tuyên truyền
phổ biến tới người dân còn chưa kịp thời. Do đó, đội ngũ cán bộ, công chức viên chức
cần phải được đào tạo và tự đào tạo nâng cao trình độ thực hiện nhiệm vụ của mình
đồng thời kiên quyết xử lý kỷ luật đối với những trường hợp thoái hóa biến chất của
một bộ phận cán bộ công chức viên chức./.

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu bồi dưỡng Quản lý Hành chính Nhà nước: Tập 1, 2 và 3 của Học
viện hành chính quốc gia.
2. Luật Đất đai năm 2003;
3. Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
4. Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của
Chính Phủ.
5. Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy
định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện
quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.


12



×