Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đề cương khoa học lãnh đạo quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.22 KB, 16 trang )

KHOA HỌC LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ
Câu 1: Đồng chí hãy trình bày bản chất của lãnh đạo và nêu sứ mệnh, các đặc
điểm cả lãnh đạo công?
1. Lãnh đạo, bản chất của lãnh đạo:
1.1. Vai trò, tầm quan trọng của lãnh đạo:
- Lãnh đạo là hoạt động có vai trò rất quan trọng và có tính quyết định đến sự thành
bại của cả một hệ thống.
- Lãnh đạo có tác động mạnh mẽ đến tổ chức cả về mặt duy trì, đổi mới, phát triển
và xây dựng văn hoá.
1.2. Định nghĩa:
- Cho đến nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau về lãnh đạo. Song chung nhất có
thể hiểu: Lãnh đạo là những hoạt động để thích ứng sự thay đổi, tạo động lực và
gây ảnh hưởng, khích lệ sự tự tin, ủng hộ từ những người cần thiết để thực hiện
thành công các mục tiêu của tổ chức.
- Lãnh đạo là quá trình dẫn dắt, định hướng của các chủ thể lãnh đạo đối với đối
tượng lãnh đạo nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó của tổ chức.
1.3. Bản chất của lãnh đạo:
- Bản chất đặc trưng của lãnh đạo là tạo ra sự thay đổi.
- Lãnh đạo là sự ảnh hưởng mang tính tuơng tác, là khả năng khơi nguồn tin tưởng
và hỗ trợ con người nhằm đạt tới mục tiêu của tổ chức.
- Bản chất của lãnh đạo là nghệ thuật gây ảnh hưởng đến người khác thông qua
biện pháp thuyết phục hoặc nêu gương.
- Sức mạnh quan trọng của lãnh đạo là thúc đẩy và kết nối tổ chức nhằm đạt được
mục tiêu của tổ chức.
- Đối tượng của lãnh đạo là con người; tầng bậc của lãnh đạo là tầng trung và tầng
cao; quan điểm của lãnh đạo là mang tính dài hạn, tập trung vào tương lai; sự tập
trung của lãnh đạo và hướng vào con người và nhóm; phương pháp của lãnh đạo là
truyền cảm hứng và khích lệ; tham vọng là say mê, đưa ra tầm nhìn mới, viễn cảnh
mới, đưa ra con đường đi mới; quyền lực của lãnh đạo bao gồm cả quyền lực do tổ
chức trao và uy tín cá nhân.
2. Sứ mệnh, các đặc điểm của lãnh đạo công:


2.1. Khái niệm lãnh đạo công:
Lãnh đạo công là quá trình tư duy và hành động nhất quán, không ngừng đổi mới
trong việc huy động các nguồn lực nhằm hiện thực hoá tầm nhìn lãnh đạo về phát
triển xã hội, vì sự thịnh vượng chung và tiếp nối giá trị giữa các thời đại.
2.2. Sứ mệnh của lãnh đạo công:
Là hướng tới xây dựng một tương lai tốt đẹp cho toàn địa phương, quốc gia hay
loài người; là nhằm tìm kiếm và hiện thực hoá công thiện - một cách thức tiếp cận
mới về cuộc sống, về xã hội để hướng tới một xã hội tốt đẹp hơn, đáng sống hơn và
có trách nhiệm hơn. Ở Việt Nam, sứ mệnh của lãnh đạo công là huớng tới xây dựng
một đất nước tự do, hoà bình, hạnh phúc và tự tin đi vào tương lai. Đó là khát vọng
của toàn thể dân tộc Việt Nam như lời Bác Hồ hằng mong muốn.
2.3. Đặc điểm của lãnh đạo công:
- Một là, đối tượng của lãnh đạo công là toàn thể XH (hoặc địa phương) và trước
nhất là trong nội bộ hệ thống lãnh đạo công. Do đó, quy mô tác động của lãnh đạo
công là địa phương, quốc gia, dân tộc, thậm chí loài người.


- Hai là, chủ thể của lãnh đạo công là tập hợp các lực lượng trong hệ thống chính
trị đóng vai trò trung tâm.
- Ba là, lãnh đạo công gắn với tầm nhìn lãnh đạo công. Các quốc gia, địa phuơng
khác nhau, trong những thời điểm khác nhau có thể theo đuổi tầm nhìn khác nhau.
- Bốn là, phương thức và công cụ then chốt của lãnh đạo công là tầm nhìn, chiến
lược và chính sách công - các hình thức cụ thể của quyền lực công.
Câu 2: Vận dụng những tri thức đã được nghiên cứu về khoa học lãnh đạo,
đồng chí hãy đánh giá thực trạng lãnh đạo xây dựng tầm nhìn và lãnh đạo sự
thay đổi ở địa phuơng/ngành của đồng chí hiện nay? Từ đó rút ra những
phương hướng rèn luyện cho bản thân?
1. Thực trạng lãnh đạo xây dựng tầm nhìn ở địa phương hiện nay:
1.1. Định nghĩa về tầm nhìn:
- Tầm nhìn là sự hình dung về một XH đẹp đẽ trong tương lai, nơi mà các mục tiêu,

chiến lược được hiện thực hoá, là một bức tranh sinh động về tương lai xán lạn, nơi
con người có được cảm giác hài lòng, nơi ước mơ trở thành hiện thực.
1.2. Vai trò của tầm nhìn đối với hoạt động lãnh đạo trong thực tiễn hiện nay:
- Tầm nhìn có vai trò quan trọng trong việc huy động sự quan tâm, nguồn lực trong
lãnh đạo; giúp gắn kết tổ chức, hướng tổ chức đến tổng thể, điểm đến được định
trước
- Định hướng về tương lai và tạo niềm tin, sự lạc quan về tương lai;
- Hướng dẫn cách lựa chọn ưu tiên và cung cấp lý do để huy động các nguồn lực
- Thúc đẩy quá trình tư duy và học tập tập thể.
* Tuy nhiên, bản thân tầm nhìn không phải là hiện thực và có thể vĩnh viễn chỉ là
sự tưởng tượng. Một tầm nhìn tốt trong lãnh đạo công trước hết phải là một tầm
nhìn biện chứng, sát với thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự hiểu biết cuộc sống, tránh
sự “lãng mạn cách mạng”, mơ mộng viễn vông…
1.3. Thực trạng tầm nhìn của địa phương thể hiện quan thực tiễn việc lãnh đạo
đổi mới KT - XH của địa phương:
1.3.1. Ưu điểm:
- Về nhận thức, đã thể hiện sự nhận thức khá đầy đủ về vai trò, giá trị của việc xây
dựng tầm nhìn chiến lược.
- Về tổ chức thực hiện, nhìn chung, trong mỗi giai đoạn, các nhà lãnh đạo công đã
đưa ra được những tầm nhìn chiến lược, xây dựng được chương trình, mục tiêu
phát triển KT - XH phù hợp, dài hạn để giải quyết các vấn đề quan trọng của địa
phương.
- Đưa ra những mục tiêu, chương trình, kế hoạch cụ thể phù hợp với thực tiễn và
đáp ứng được nhu cầu, lợi ích chung của nhân dân, được đại đa số nhân dân đồng
tình, ủng hộ và tổ chức thực hiện hiệu quả.
+ Về kinh tế, đưa ra được mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể cho phát triển
kinh tế bằng kế hoạch 5 năm, 10 năm với các cách thức, bước đi khá phù hợp nhằm
hướng đến phát triển kinh tế bền vững.
+ Về xã hội, đưa ra các mục tiêu, chương trình, kế hoạch như chính sách xoá
đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, đổi mới và nâng cao chất lượng bộ

máy nhà nước và cải cách nền hành chính.
- Việc hoạch định các tầm nhìn chiến lược đã được triển khai sâu rộng đến các địa
phương, đơn vị một cách sâu rộng, cụ thể nên đã tạo được sự đồng thuận, nhất


quán trong hành động, khơi dậy được sự đam mê cống hiến, thực hiện có hiệu quả
các mục tiêu, chỉ tiêu đã đề ra.
- Những tầm nhìn chiến lược trong lãnh đạo về mục tiêu, chương trình, kế hoạch
hát triển KT - XH trong quá trình thực hiện luôn có sự điều chỉnh, bổ sung kịp thời
đã góp phần mang lại hiệu quả rõ nét hơn, làm cho chính sách công ngày càng
được hiện thực hoá.
1.3.2. Những hạn chế:
- Về nhận thức, một bộ phận cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức
đúng đắn về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của việc hoạch định tầm nhìn chiến
lược cho từng vấn đề ở địa phương. Vẫn còn tư tuởng tiểu nông, bảo thủ, trì trệ, tư
duy nhiệm kỳ, ngắn hạn.
- Về tổ chức thực hiện, còn có những hoạch định tầm nhìn hạn hẹp, nhỏ bé, ngắn
hạn, phiến diện, thiếu tính biện chứng, thiếu căn cứ thực tế, thiếu tính khả thi, chưa
đáp ứng được lợi ích của cộng đồng (Ví dụ:…….)
- Nhiếu chiến lược tầm nhìn đưa ra thiếu tính nhất quán, chưa được thực hiện đúng
quy trình, chưa được bàn bạc, thảo luận, đánh giá, bổ sung, điều chỉnh nên chưa
khơi gợi, kích thích và huy động được nguồn lực cũng như sự tham gia của cộng
đồng nhằm hiện thực hoá chính sách.
2. Thực trạng lãnh đạo sự thay đổi ở địa phương/ngành:
2.1. Định nghĩa sự thay đổi:
- Đối mới và sáng tạo được xem là chía khoá cho sự tồn tại và phát triển của tổ
chức, của địa phương, của quốc gia, dân tộc. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá
và hội nhập sâu rộng, thế giới vận động và biến đổi không ngừng, cạnh tranh gay
gắt như ngày nay thì thay đổi, đổi mới càng đóng vai trò quan trọng. (Có thể lấy ví
dụ về sự đối mới toàn diện của VN sau 1986 - đổi mới hay là chết; hay sự điều

chỉnh mới của CNTB hiện nay nhằm che dấu bản chất bóc lột của chế độ TBCN…)
- Thay đổi là quá trình vận động do ảnh hưởng, tác động qua lại của sự vật, hiện
tượng. Nhà lãnh đạo phải biết tìm cách lãnh đạo, quản lý sự thay đổi, nắm rõ quy
trình, cách thức, nguyên tắc thực hiện thay đổi để đạt hiệu quả công việc cao nhất.
- Thay đổi là một tất yếu, thay đổi để thích ứng và phát triển. Nhà lãnh đạo phải là
nguời khởi xướng và thực hiện sự thay đổi vì hiện thực khách quan luôn luôn vận
động và biến đổi không ngừng đòi hỏi con người phải thay đổi, cải biến để thích
nghi với sự thay đổi đó.
2.2. Thực trạng lãnh đạo sự thay đổi ở địa phương:
2.2.1. Ưu điểm:
- Về nhận thức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ngày càng nhận thức đầy
đủ hơn về giá trị, ý nghĩa của sự thay đổi cho phù hợp với thực tiễn, quan tâm đến
trau dồi và rèn luyện kỹ năng lãnh đạo sự thay đổi.
- Về thực hiện, nhiều nhà lãnh đạo công đã tích cực khởi xướng sự thay đổi và thực
hiện sự thay đổi cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, từng lĩnh vực của địa
phương (kinh tế, văn hoá, xã hội…).
- Về cơ bản đã nắm vững và thực hiện đúng quy trình lãnh đạo sự thay đổi và đưa
ra các cách thức thực hiện sự thay đổi phù hợp.
- Biết lựa chọn những nhân tố tạo ra sự thay đổi phù hợp, dám chấp nhận sự thay
đổi và có khả năng thực hiện sự thay đổi.
- Tạo được sự đồng thuận của nhiều người và tích cực thực hiện mục tiêu hiện thực
hoá sự thay đổi.


2.2.2. Những hạn chế:
- Một bộ phận cán bộ lãnh đạo công do hạn chế về năng lực, kinh nghiệm nên ngại
sự thay đổi, có tư tưởng bảo thủ, ngại cái mới, không dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm.
- Ở một số lĩnh vực, một số địa phương đã tích cực thực hiện sự thay đổi nhưng lại
không nắm vững quy trình lãnh đạo sự thay đổi, thiếu cách thức, bước đi cụ thể,

thiếu căn cứ thực tiễn, rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa nên dẫn đến làm sai,
hoặc không phù hợp, không tạo được đồng thuận của nhân dân; hoặc thay đổi quá
chậm, không kịp với sự thay đổi của thời cuộc.
- Ở một số ngành, lĩnh vực, địa phương lại thường xuyên có sự thay đổi dẫn đến
chồng chéo, thiếu hiệu quả, có khi quay về cái cũ… (Ví dụ: Cải cách trong ngành
giáo dục những năm qua)
- Việc đánh giá, ghi nhận, khen thuởng nhằm khích lệ những người có hành vi tích
cực trong việc tạo ra sự thay đổi chưa được quan tâm đúng mức.
3. Phương hướng rèn luyện của bản thân:
- Luôn nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của lãnh đạo tầm nhìn và lãnh đạo sự
thay đổi.
- Rèn luyện các kỹ năng về lãnh đạo tầm nhìn và lãnh đạo sự thay đổi.
- Chú trọng xây dựng những tầm nhìn về mục tiêu, chương trình, kế hoạch, phát
triển chuyên môn, lĩnh vực công tác, phải tạo được động lực cho mọi người luôn
hướng đến tầm nhìn và tạo ra sự thay đổi.
- Thực hiện đúng các bước, quy trình khi xây dựng tầm nhìn và lãnh đạo sự thay
đổi.
- Xây dựng tầm nhìn và lãnh đạo sự thay đổi phải mang tính nhất quán, phù hợp
với thực tiễn. Trong thực tiễn, việc lãnh đạo xây dựng tầm nhìn và lãnh đạo sự thay
đổi có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có tầm nhìn chiến lược nhưng không
dám, hoặc không thể thay đổi thì tầm nhìn chỉ là mơ ước viễn vông, nghĩa là dám
nghĩ thì phải dám làm, dám thay đổi, kể cả chấp nhận thách thức, rủi ro, thất bại.
Đó chính là tố chất của người lãnh đạo mà mỗi cán bộ chúng ta cần rèn luyện.
- Xây dựng tầm nhìn và lãnh đạo sự thay đổi phải đảm bảo lợi ích cộng đồng,
hướng đến mục tiêu công thiện.
- Phải không ngừng tìm tòi các phương pháp, cách thức tối ưu khi xây dựng tầm
nhìn và đổi mới.

Câu 3: Đồng chí hãy trình bày đặc điểm và vai trò của tư duy hệ thống trong
lãnh đạo?

1. Khái niệm tư duy hệ thống:
- Hệ thống: là một tập hợp các phần tử khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ và tác
động qua lại theo một quy luật nhất định, tạo thành một chỉnh thể, có khả năng thực
hiện đuợc những chức năng cụ thể nhất định.


- Tư duy hệ thống: là hoạt động nhận thức ở trình độ cao, trong đó chủ thể sử dụng
một cách có hệ thống những tri thức lý luận và thực tiễn để giải quyết các vấn đề
nảy sinh trong quá trình lãnh đạo một cách đúng đắn, hiệu quả.
2. Đặc điểm của tư duy hệ thống:
- Đặc điểm nổi bật của tư duy hệ thống là giúp cho người lãnh đạo nhìn nhận được
các tính chất của toàn thể, cục diện lớn mà nếu phân tích từng bộ phận nhiều khi
không thể thấy được.
- Tư duy hệ thống đòi hỏi người lãnh đạo phải có cách nhìn nhận, phân tích hoạt
động lãnh đạo thực tế như một chỉnh thể, với các mối liên hệ hữu cơ, tác động qua
lại của chúng với môi trường lãnh đạo, cũng như giữa các yếu tố bên trong của lãnh
đạo.
- Có thể khái quát đặc tính của tư duy hệ thống trên các khía cạnh sau:
+ Tư duy hệ thống là tư duy môi trường - bối cảnh, tư duy toàn thể, mở rộng sự
thấu hiểu về các liên kết tồn tại giữa các sự vật, hiện tượng, giữa sự vật hiện tượng
với môi trường.
+ Tư duy hệ thống là tư duy mạng lưới: chú trọng vào mối quan hệ giữa các sự vật
hơn là từng sự vật riêng lẻ, khuyến khích sự tương tác, linh động giữa các cấp
trong hệ thống.
+ Tư duy hệ thống là tư duy tiến trình, nghĩa là muốn thay đổi kết quả, trước hết
phải thay đổi tiến trình dẫn đến kết quả; khuyến khích cách quản lý tạp trung vào
tiến trình hơn là thành quả.
+ Tư duy hệ thống là tư duy hồi quy, kiểm tra, giả thuyết đặt ra những cau hỏi hồi
tiếp để đi đến tận cùng vấn đề, đây là công cụ bổ trợ cho dự đoán.
+ Tư duy hệ thống là tư duy động, có tính biện chứng cao vì cốt lõi là nhìn nhận

tổng thể trong sự tương tác và biến đổi, sẽ là chìa khoá giúp ta nhìn nhận và giải
quyết tốt nhất những vấn đề đặt ra trong lãnh đạo.
3. Vai trò của tư duy hệ thống:
- Tư duy hệ thống có tầm quan trọng đặc biệt trong bối cảnh lãnh đạo hiện nay do
tính chất mới của các thách thức đang đặt ra hiện nay.
- Tư duy hệ thống có vai trò quan trọng đối với Việt Nam hiện nay trong điều kiện
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước theo định huớng XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng. Nó đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn sâu rộng, toàn cục, tổng thể, biện chứng
giữa tất cả các thành phần kinh tế, các ngành, các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội trong mối tuơng quan, ràng buộc và tác động qua lại với nhau và với
các yếu tố bên ngoài, tránh quan điểm chủ quan, duy ý chí, nhìn phiến diện, một
chiều.
- Tư duy hệ thống là một phương thức nhận thức và cách tiếp cận có hiệu quả để
phát triển vấn đề và giải quyết vấn đề đặt ra trong lãnh đạo, quản lý hiện nay.
- Tư duy hệ thống trong lãnh đạo được vận dụng trong thực tiễn đổi mới tư duy về
chính trị và tư duy kinh tế ở VN hiện nay.
Câu 5: Đồng chí hãy trình bày khái niệm Ra quyết định lãnh đạo và phân tích
quy trình ra quyết định lãnh đạo?
1. Khái niệm ra quyết định lãnh đạo:
1.1. Vai trò ra quyết định trong lãnh đạo quản lý:


- Cuộc sống luôn đặt con người vào những tình huống phải lựa chọn, phải quyết
định. Sự lựa chọn và quyết định có thể đúng hay sai phụ thuộc vào hoàn cảnh và
chủ thể ra quyết định.
- Thế giới đang diễn ra sự thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là trong lĩnh vực chính
trị, kinh tế, rất khó lường. Môi trường lãnh đạo, quản lý đang mở rộng và gia tăng
sự phức tạp, đang thử thách vai trò dẫn đường ra quyết định và chỉ huy của người
lãnh đạo.

- Quyết định của người lãnh đạo vừa là vai trò, trách nhiệm, vừa là sản phẩm hoạt
động của người lãnh đạo. Cấp dưới đánh giá và tín nhiệm người lãnh đạo hay
không phụ thuộc vào hiệu quả, tính đúng đắn của những quyết định mà người lãnh
đạo đưa ra.
- Đối với mỗi cá nhân, tổ chức, cộng đồng, quốc gia, dân tộc, việc đưa ra một
quyết định lãnh đạo đúng đắn, phù hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng và cần thiết.
Ra quyết định đúng lúc, kịp thời, phù hợp với yêu cầu thực tiễn nhằm duy trì sự tồn
tại và phát triển, đáp ứng các nhu cầu về lợi ích có ý nghĩa quyết định đến sự thành
bại, phát triển của một tổ chức, một cộng đồng, dân tộc. (Ví dụ: Việt Nam 1986 Đổi mới hay là chết - vai trò ra quyết định lãnh đạo của ĐCSVN; Võ Nguyên Giáp:
Điện Biên phủ - “đánh nhanh thắng nhanh” -> “đánh chắc thắng chắc” => 1 quyết
định khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của Bác, liên quan đến vận mệnh của
cả dân tộc).
=> Ra quyết định lãnh đạo giữ vai trò trọng yếu nhất trong quá trình lãnh đạo, là
thước đo đánh giá năng lực, phẩm chất, bản lĩnh chính trị của chủ thể lãnh đạo, là
sản phẩm và là chức năng cơ bản của người lãnh đạo.
1.2. Khái niệm ra quyết định lãnh đạo:
- Quyết định là sản phẩm phản ảnh quan điểm, cách tiếp cận của người lãnh đạo
trong việc khẳng định và lựa chọn phương án tối ưu để giải quyết những vấn đề
nảy sinh trong quá trình lãnh đạo, quản lý.
- Ra quyết định là hành vi sáng tạo, có tính chất chỉ thị của nhà lãnh đạo nhằm
định ra chương trình, kế hoạch, mục tiêu hành động của tổ chức góp phần giải
quyết công việc.
=> Có thể hiểu một cách chung nhất, ra quyết định lãnh đạo là việc lựa chọn
phương án hành động có khả năng đạt mục tiêu một cách cao nhất.
* Người lãnh đạo có năng lực thường đưa ra một số tối thiểu quyết định (có nhiều
phương án); không bị xúi giục hay cưỡng ép khi ra quyết định; quyết định phải
đúng lúc, dựa trên những thông tin tốt nhất có thể; tránh những quyết định sốc nổi,
cảm tính; cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng đối với các quyết định liên quan đến nhân
sự, bộ máy tổ chức, thay đổi chiến lược vì đó là những quyết định hết sức quan
trọng.

* Tuy nhiên, khi ra quyết định lãnh đạo cần lưu ý:
- Không ai có đủ mọi thông tin cần thiết khi ra quyết định;
- Không thể đánh giá chính xác hiệu quả hay hệ quả của 1 quyết định.;
- Chúng ta chỉ nhận ra sai lầm sau khi đã thực hiện quyết định;
- Thái độ lần chần, do dự hay nôn nóng, thiếu suy nghĩ khi ra quyết định đều dẫn
đến hiệu quả thấp, thậm chí có khi sai lầm.
- Cần phải có cái nhìn toàn diện, khách quan, cân nhắc kỹ thuận lợi, khó khăn,
những tác động ảnh hưởng để lựa chọn phương án tối ưu
- Quyết định chỉ có giá trị khi nó chuyển thành sự việc;


- Phải đảm bảo tính hợp pháp (không vi luật, vi quyền) và hợp lý khi ra quyết
định..
2. Quy trình ra quyết định lãnh đạo:
2.1. Xác định và hình thành vấn đề cần giải quyết: thường bao gồm:
- Xác định vấn đề cấn cải tiến, giải quyết.
- Xác định nguyên nhân của vấn đề.
- Xác định hình thức, mục tiêu của quyết định.
- Lưu ý: khi hình thành vấn đề thì nguồn thông tin phải đầy đủ, chính xác, đáng tin
cậy, kịp thời, phù hợp, phải nhìn nhận và phân tích vấn đề một cách toàn cục.
2.2. Phân tích vấn đề qua những thông tin cần thiết (thu thập thông tin):
Cần trả lời được các câu hỏi:
- Ai? Liên quan đến ai, cần chú trọng vào chức vụ của người đó.
- Về cái gì? Tìm kiếm dữ kiện, sự việc, hậu quả, tầm quan trọng của vấn đề
- Khi nào? vấn đề đặt ra từ khi nào, ở đâu, ở vị trí nào?
- Tại sao? Nguyên nhân của vấn đề là gì? Các nguyên nhân có liên quan đến con
người, phương tiện, phương pháp, môi trường, hoàn cảnh…như thế nào?
=> Trả lời được các câu hỏi đó giúp ta nhận dạng, chẩn đoán được vấn đề.
2.3. Xây dựng các phương án:
- Dựa trên cơ sở phân tích vấn đề để xác định các phương án có thể có.

- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn của các phương án; phân tích, so sánh điểm
mạnh, yếu của từng phương án để lựa chọn phương án tối ưu nhất trên cơ sở các
điều kiện, thực trạng, các nguồn lực thực tế.
- Đây là bước trung gian từ tư duy đến hành động thực tiễn. Do vậy, đòi hỏi nhà
lãnh đạo phải có tính dự báo và tính sáng tạo, dự đoán tính hiệu lực, hiệu quả của
quyết định. Có kỹ năng phân tích, so sánh, tổng hợp để đưa ra quyết định sáng suốt
nhất.
- Cần tranh thủ trí tuệ của các chuyên gia khi xây dựng phương án, nhất là khi phải
ra các quyết định quan trọng liên quan đến nhân sự, mục tiêu chiến luợc, sự phát
triển của tổ chức; đồng thời khuyến khích trí tuệ, tư duy sáng tạo của mọi người,
cấp dưới, đồng nghiệp…
2.4. Thông qua quyết định (lựa chọn phương án tối ưu):
- Tổ chức thảo luận các phương án trong ban lãnh đạo và một số cấp nếu thấy cần
thiết. Tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của nhiều người song người lãnh đạo
phải có chủ định lựa chọn một phương án mà mình cho là tối ưu.
- Thông qua quyết định. Quyết định được thông qua bằng hình thức biểu quyết theo
đa số; nếu quyết định được thể hiện dưới dạng văn bản thì cần trình bày rõ ràng,
súc tích, dễ hiểu, tránh dùng từ đa nghĩa, nội dung trong văn bản phải thống nhất,
không mâu thuẫn, trùng lặp, đúng quy định và kỹ thuật văn bản.
2.5. Tổ chức thực hiện quyết định:
- Thông báo quyết định đến đối tượng. Cần lưu ý phải có cơ chế thông tin hai chiều
để có thể tiếp nhận, xử lý thông tin phản biện nhằm điều chỉnh quyết định cho phù
hợp.
- Tổ chức lực lượng thực thi quyết định:
+ Thực hiện phân công, phân nhiệm một cách rõ ràng, hợp lý, cụ thể gắn với trách
nhiệm của từng cá nhân, tránh thiên vị.
+ Tăng cường sự phối kết hợp, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của các cấp, các ngành,
các tổ chức CT - XH có liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện quyết định.



+ Cân đối các nguồn lực về tài chính (nếu các quyết định liên quan đến tài chính),
cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, nguồn nhân lực; dự trù các vấn đề phát sinh
và rủi ro nhằm chủ động điều chỉnh và bổ sung kịp thời trong chỉ đạo và tổ chức
thực hiện.
+ Người lãnh đạo cần phải có phẩm chất đạo đức trong sáng, dĩ công vi thượng,
quyết đoán, bản lĩnh, có kỹ năng lãnh đạo và điều hành tổ chức thực hiện; tích cực
giám sát, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, động viên cấp dưới thực hiện có hiệu quả.
2.6. Kiểm tra, đánh giá thực hiện quyết định:
- Kiểm tra, đánh giá để phát hiện những khó khăn, bất cập trong quá trình thực
hiện để có cơ sở điều chỉnh, bổ sung.
- Phát hiện và phân tích những mặt tích cực, những thiếu sót và tìm cách cải thiện
tình hình; xác định nguyên nhân, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức để trên cơ
sở đó đề ra giải pháp làm cho quyết định được thực hiện hiệu quả trong thực tiễn.
- Kiểm tra đánh giá là cơ sở để tiếp tục thực hiện quyết định hay phải đình chỉ thực
hiện quyết định.
- Đánh giá hiệu quả chi phí, so sánh chi phí và lợi ích mang lại từ quyết định,
những ảnh hưởng việc thực hiện quyết định với hoạt động chung của tổ chức, của
cộng đồng.
Câu 7: Đồng chí hãy nêu vai trò của kỹ năng lãnh đạo và nêu những kỹ năng
lãnh đạo cần thiết đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý hiện nay?
I. Vai trò của kỹ năng lãnh đạo:
1. Các khái niệm:
- Lãnh đạo: Là quá trình dẫn dắt, định hướng, gây ảnh hưởng của chủ thể lãnh đạo
đối với đối tượng lãnh đạo nhằm đạt được một mục tiêu nào đó của tổ chức.
- Kỹ năng lãnh đạo: Là khả năng vận dụng những kiến thức lý thuyết, cách thức
hành động và kinh nghiệm của người lãnh đạo để thực hiện các hoạt động lãnh đạo
phù hợp với điều kiện cụ thể nhằm mang lại hiệu quả cao.
2. Vai trò của kỹ năng lãnh đạo:
- Trong thời đại ngày nay, để lãnh đạo tốt, có hiệu quả, đòi hỏi người lãnh đạo phải
thực sự có tri thức, nhất là tri thức nghề nghiệp, tri thức cuộc sống và phải có

những kỹ năng lãnh đạo, quản lý cần thiết.
- Kỹ năng lãnh đạo gồm 3 nhóm kỹ năng cơ bản là:
+ Nhóm kỹ năng cơ sở: là kỹ năng “định vị” bản thân, phải biết mình là ai, đang ở
vị trí nào, hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu của bản thân, vai trò, vị trí của mình
trong các mối quan hệ XH.
+ Nhóm các kỹ năng làm việc với con người: là những kỹ năng giúp chủ thể lãnh
đạo gây dựng, củng cố và phát triển các mối quan hệ XH tích cực giữa bản thân với
những người khác và toàn XH.
+ Nhóm kỹ năng giải quyết vấn đề: là những kỹ năng giúp chủ thể lãnh đạo có thể
hành động hợp lý và hiệu quả, mang lại lợi ích cho tổ chức, cho cộng đồng.
-> Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp thì yêu cầu về các nhóm kỹ
năng lãnh đạo trên là không giống nhau, không đồng nhất; tuy nhiên nhóm các kỹ
năng làm việc với con người là hết sức cần thiết đối với 1 người lãnh đạo, đặc biệt
trong thời đại toàn cầu và hội nhập sâu rộng ngày nay, việc tạo lập các mối quan hệ
XH tích cực cho người lãnh đạo là rất quan trọng.


-> Điều đó cho thấy, vai trò của kỹ năng lãnh đạo trong thực tiễn hiện nay là rất
quan trọng; đó là cơ sở để hình thành năng lực lãnh đạo, là tiêu chuẩn để người
lãnh đạo chuyên nghiệp hoá công tác lãnh đạo, cũng là tiêu chí để phân biệt người
lãnh đạo với nhân viên, cấp dưới. Có tri thức sâu rộng nhưng không có những kỹ
năng lãnh đạo cần thiết thì công việc điều hành sẽ không trôi chảy, lúng túng,
không huy động được sự tham gia, ủng hộ của mọi người, hiệu quả công vịêc đạt
thấp, uy tín của người lãnh đạo sẽ giảm sút…
- Kỹ năng lãnh đạo giúp người lãnh đạo đưa ra được khả năng dự báo tình hình, sử
dụng có hiệu quả quyền lực được giao, dẫn dắt tổ chức vượt qua sự thay đổi. Người
ta ví người lãnh đạo như người chèo thuyền, tay lái có vững thì thuyền mới chạy.
II. Những kỹ năng lãnh đạo cần thiết:
1. Kỹ năng xây dựng tầm nhìn và truyền cảm hứng tầm nhìn:
1.1. Kỹ năng xây dựng tầm nhìn:

a. Khái niệm tầm nhìn:
Tầm nhìn là những định hướng nhằm xác định được đích cần phải đến, con đường
lựa chọn để đi tới đích, là những mục tiêu phải chinh phục.
b. Vai trò của tầm nhìn đối với chủ thể lãnh đạo:
- Trong bối cảnh lãnh đạo hiện nay, tầm nhìn và những giá trị cốt lõi chứa đựng
trong tầm nhìn như “ngôi sao định hướng” giúp nhà lãnh đạo lựa chọn các chiến
lược phát triển của tổ chức một cách đúng hướng và hiệu quả.
- Nguyên nhân của nhiều cuộc đổi mới không thành công đều bắt nguồn do nhà
lãnh đạo chỉ dừng ở việc xây dựng kế hoạch và chương trình hành động thay vì có
một tầm nhìn hợp lý trong dài hạn.
- Tầm nhìn và giá trị gắn kết trong tầm nhìn là điểm tựa để gắn kết là điểm tựa để
quyết định đến các vấn đề quan trọng như kế hoạch chiến lược của tổ chức, giữ cho
mọi người tập trung vào mục tiêu dài hạn, giữ cho các nguồn lực không bị phân tán
khi mà xu hướng phân quyền đang ngày càng diễn ra mạnh mẽ ở các tổ chức.
c. Kỹ năng xây dựng tầm nhìn:
- Yêu cầu khi xây dựng và công bố tầm nhìn: tầm nhìn phải vắn tắt, tầm nhìn phải
có tính khả thi; phải tập trung vào những mục đích chính, có thể hiểu được, gây
hứng khởi, kích thích sự tham gia của mọi người.
- Yếu tố tạo nên tầm nhìn: muốn xây dựng tâm nhìn đòi hỏi người lãnh đạo phải có
tri thức, trí tuệ, có kinh nghiệm, khả năng đổi mới tư duy, phân tích được tổng thể,
chiến lược; có khả năng dự báo, dự đoán; tính thực tiễn cao, hiệu quả, rõ ràng.
- Cách thức xây dựng tầm nhìn: trao đổi ý tưởng, tạo tầm nhìn chung; xây dựng
lòng tin, biết lắng nghe các ý kiến đóng góp.
1.2. Kỹ năng truyền cảm hứng tầm nhìn:
a. Khái niệm:
- Kỹ năng truyền cảm hứng tầm nhìn là khả năng truyền năng lượng đến người
khác, lôi cuốn làm theo, khuyến khích họ nỗ lực hết mình đóng góp cho tổ chức.
- Truyền cảm hứng là khơi dậy hứng khởi, niềm tin cho mọi người, thể hiện sự
nhiệt tình của nhà lãnh đạo, có khả năng thuyết phục, xây dựng tinh thần lạc quan,
khuyến khích mọi nguời phát huy tài năng, sáng tạo của mình.

b. Kỹ năng truyền cảm hứng tầm nhìn:
- Tầm nhìn dù đúng đắn đến mấy thì tự nó không thể phát huy hết tác dụng định
hướng, thúc đẩy mọi người.


- Nhà lãnh đạo phải có kỹ năng truyền cảm hứng về tầm nhìn. Truyền cảm hứng sẽ
giúp chuyển hoá tầm nhìn và các giá trị thành những kết quả trong thực tiễn.
c. Các bước cơ bản để truyền cảm hứng tầm nhìn:
- B1: Xác tín: thể hiện niềm tin của nhà lãnh đạo/nhóm lãnh đạo về tầm nhìn, về
tưong lai của tổ chức.
- B2: Lắng nghe và thấu hiểu: nhà lãnh đạo/nhóm lãnh đạo tiếp xúc, lắng nghe ý
kiến của các nhóm/các cá nhân để thấu hiểu họ.
- B3: Phát hiện những điểm chung: qua lắng nghe để tìm ra mối liên hệ giữa các
nhóm/các cá nhân và những điểm chung của mọi người có liên quan đến tầm nhìn.
- B4: Kết nối: kết nối mối liên hệ giữa các nhóm/các cá nhân và những điểm chung
của họ với tầm nhìn.
- B5: Hành động: thống nhất phương án, kế hoạch hành động giữa các nhóm để
từng bước hiện thực hoá mục tieu của tầm nhìn.
2. Kỹ năng lãnh đạo sự thay đổi.
a. Khái niệm:
- Thay đổi là quá trình vận động do ảnh hưởng, tác động qua lại của các sự vật hiện
tượng, là thuộc tính chung của bất kỳ sự vật, hiện tuợng nào.
- Các mức độ khác nhau của sự thay đổi gồm: cải tiến, đổi mới, cải cách, cách
mạng.
b. Kỹ năng lãnh đạo sự thay đổi:
- Thế giới luôn luôn vận động và biến đổi không ngững. Trong môi trường XH
năng động, nhiều biến động như ngày nay thì không một quốc gia, một dân tộc,
cộng đồng, tổ chức nào có thể tồn tại và phát triển mà không cần thay đổi để thích
ứng.
- Vì vậy, nhà lãnh đạo không thể ngăn chặn sự thay đổi mà chỉ có thể tìm cách lãnh

đạo, quản lý sự thay đổi.
- Nhưng lãnh đạo sự thay đổi là một trong những công việc rất khó khăn và nhạy
cảm bỡi nó tác động đến tâm lý của nhiều người, thường xuyên gặp sự kháng cự vì
con người thường xuyên lo sợ trước sự thay đổi. Vì thế, trong thực tế thì không
phải nhà lãnh đạo nào cũng muốn thay đổi và dám thay đổi.
- Tuy nhiên, sự thay đổi cần phải tạo ra cái mới phù hợp, đúng đắn, phải xuất phát
từ yêu cầu thực tiễn khách quan và đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của tập thể, cộng
đồng
- Nhà lãnh đạo là người khởi xướng và thực hiện thay đổi cần phải có kỹ năng lãnh
đạo sự thay đổi, phải nắm rõ quy trình và cách thức, nguyên tắc thực hiện sự thay
đổi nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. Nếu không sự thay đổi sẽ thất bại, nhà lãnh
đạo sẽ mất uy tín trước tổ chức và mọi người. Có những sự thay đổi tạo nên bước
ngoặt lịch sử cách mạng cho cả một đất nước (đổi mới năm 1986 của Đảng ta),
cũng có những lĩnh vực liên tục đổi mới, cải cách nhưng hiệu quả mang lại chưa
cao (cải cách của ngành giáo dục nước ta trong những năm qua)…
c. 4 giai đoạn của quy trình lãnh đạo sự thay đổi:
- Gđ1: lên phương án thay đổi: nghiên cứu, thảo luận, xác định rõ cái gì cần thay
đổi, mục tiêu cụ thể, kế hoạch thực hiện.
- Gđ2: Khởi xướng sự thay đổi: thông báo, tuyên truyền, truyền cảm hứng về kế
hoạch thay đổi, thử nghiệm ở phạm vi nhỏ.


- Gđ3: Triển khai thực hiện sự thay đổi: đề ra các nhiệm vụ cụ thể, cơ chế phối hợp,
động viên khích lệ người thực hiện; thực hiện các hoạt động hỗ trợ sự thay đổi,
đánh giá ghi nhận các thành quả và có sự điều chỉnh kịp thời.
- Gđ4: Củng cố sự thay đổi: đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm.
3. Kỹ năng lãnh đạo tổ chức học tập.
a. Khái niệm:
- Là quá trình quản trị tri thức một cách KH và khôn ngoan sao cho từ những vốn
tri thức đã có, mỗi cá nhân/tổ chức có thể nhanh chóng tạo ra những tri thức mới

phục vụ cho sự phát triển của tổ chức, làm cho tầm nhìn của nhà lãnh đạo và những
mục tiêu chung đuợc hiện thực hoá. Hay nói cách khác đó là quá trình nhà lãnh đạo
biết khai thác chất xám của các thành viên trong tổ chức.
b. Kỹ năng lãnh đạo tổ chức học tập:
- Kỹ năng này có vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sản sinh ra tri thức
mới của tổ chức, phục vụ mục tiêu nâng cao năng suất, hiệu quả và phát triển tổ
chức. Kỹ năng này thể hiện ở chỗ:
+ Nhà lãnh đạo phải biết được những tri thức còn thiếu trong tổ chức để tìm biện
pháp thúc đẩy sự sáng tạo ra tri thức mới.
+ Nhà lãnh đạo định hướng, khích lệ mọi người đề xuất và ủng hộ những sáng kiến
quản trị tri thức trong tổ chức.
+ Nhà lãnh đạo phải đảm bảo sự thống nhất giữa các chiến lược, dự án quản trị tri
thức với tầm nhìn, mục tiêu của tổ chức.
+ Nhà lãnh đạo mang đến những hỗ trợ và nguồn lực để triển khai các dự án quản
trị tri thức.
+ Nhà lãnh đạo khởi xướng xây dựng môi trường văn hoá, khuyến khích học tập và
sáng tạo tri thức.
+ Nhà lãnh đạo sử dụng công cụ quản trị tri thức một cách hợp lý để thúc đẩy sự
chuyển hoá qua lại giữa tri thức ẩn và tri thức hiện của các thành viên nhằm tạo ra
tri thức mới.
4. Kỹ năng nói trước công chúng.
- Lời nói có khả năng truyền tải thông điệp của nhà lãnh đạo đến được với nhiều
người. Vì vậy, nhà lãnh đạo cần rèn luyện kỹ năng nói để có thể gây ảnh hưởng đến
nhiều người, để truyển cảm hứng về tầm nhìn, để thuyết phục người khác…
- Muốn rèn luyện kỹ năng cần lưu ý:
+ Người diễn thuyết cần tạo ấn tượng tích cực ban đầu bằng sự xuất hiện phù hợp
với bối cảnh.
+ Thu hút người nghe bằng phong cách biểu cảm của giọng nói, cử chỉ, ngôn
ngữ…
+ Thuyết phục nguời nghe bằng nội dung bài nói rõ ràng, cấu trúc hợp lý, lập luận

chặt chẽ.
+ Quan tâm đến tâm lý của bản thân và đối tượng. Nói trước công chúng là quá
trình giao tiếp 2 chiều nên phải quan tâm đến tâm lý của người nghe….
5. Kỹ năng xây dựng văn hoá tổ chức.
- Văn hoá tổ chức được hiểu như một tập hợp các giá trị, niềm tin, quy chuẩn, hành
vi ứng xử và cách thức hoạt động được các thành viên trong tổ chức cùng chia sẻ,
đồng thuận và cùng thực hiện.
- Văn hoá tổ chức vì thế góp phần quy định mô hình hoạt động của tổ chức và cách
ứng xử của các thành viên trong tổ chức đó.


6. Kỹ năng ra quyết định lãnh đạo: xem câu 5.
=> Tóm lại, cùng với tri thức, sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tiễn thì kỹ năng
lãnh đạo có vai trò hết sức quan trọng và cần thiết với bất kỳ một nhà lãnh đạo nào.
Trong cuộc sống luôn vận động và biến đổi không ngừng như ngày nay, trước yêu
cầu ngày càng cao của công việc, của xã hội đòi hỏi người lãnh đạo cần phải biết
trang bị cho mình những kỹ năng lãnh đạo cần thiết, nắm vững các quy trình,
nguyên tắc, phuơng pháp, biết sử dụng mềm dẻo, linh hoạt, kết hợp nhiều kỹ năng
cần thiết để mang lại hiệu quả lãnh đạo cao nhất./.
Câu 13: Đồng chí hãy trình bày bản chất chính sách công và nêu các giai đoạn
của chu trình chính sách công?
1. Khái niệm CSC:
- Khái niệm CSC xuất hiện từ thời Hy Lạp cổ đại, nhưng khoa học về CSC chỉ bắt
đầu vào đầu TK XX. Từ khi ra đời đến nay, khái niệm CSC đã có nhiều cách hiểu
khác nhau.
- Theo nghĩa chung nhất, “CSC là một tập hợp các quyết định có liên quan đến
nhau của chính quyền về việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để thực hiện các
mục tiêu đó, trên cơ sở có những tính toán và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết
một vấn đề hoặc đáp ứng một nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội”.
2. Bản chất của CSC:

Một là, CSC huớng tới giải quyết các vấn đề công cộng và vì mục đích, lợi ích của
công cộng.
Hai là, CSC là do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nuớc ban
hành nhằm giải quyết các vấn đề công cộng. Tuy nhiên, không phải tất cả các chính
sách do các cơ quan hay các cấp chính quyền trong bộ máy nhà nuớc ban hành đều
là CSC mà trên thực tế các cơ quan này có thể ban hành các Chính sách tư để giải
quyết các vấn đề trong nội bộ cơ quan, vưọt ra ngoài phạm vi ấy thì chính sách
không còn hiệu lực.
Ba là, CSC có tính chính trị, nó thể hiện bản chất của Nhà nuớc và mối quan hệ
giữa nhà nuớc và nguời dân. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân và vì dân, tất cả lợi ích đều huớng đến phục vụ nhân dân.
Bốn là, CSC mang tính định huớng phát triển lâu dài, rộng khắp đến toàn XH.
Năm là, CSC là sự lựa chọn hành động phù hợp để giải quyết các vấn đề thực tiễn
nảy sinh trong điều kiện cụ thể để đạt đuợc mục tiêu hành động. Trước một vấn đề
thực tiễn nảy sinh, diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau, Nhà nước
có thể có nhiều chính sách, biện pháp khác nhau cho phù hợp nhằm đạt được hiệu
quả cao nhất.
Sáu là, CSC có tính chất bắt buộc thi hành. Một khi chính sách đã được ban hành
thì nó được thừa nhận và có tính bắt buộc chung. Dù hình thức này hay hình thức
khác, CSC buộc chủ thể phải làm điều này hoặc không làm điều kia, hoặc buộc một
bộ phận này được làm, bộ phận khác thì không…
3. Các giai đoạn của chu trình CSC:
Tuỳ thuộc vào vấn đề và bối cảnh mà chu trình CSC diễn ra có thể khác nhau,
nhưng nhìn chung chu trình CSC có tính lặp đi lặp lại và bao gồm 3 giai đoạn sau:
3.1. Giai đoạn hoạch định và ban hành chính sách:
- Khái niệm: Hoạch định chính sách là quá trình thiết kế một chính sách đáp ứng
những nhu cầu của thực tiễn xã hội.


- Về bản chất, hoạch định chính sách là quá trình định huớng vào mục tiêu chính

sách và tập trung vào quyết định chính sách.
- Chủ thể hoạch định chính sách gồm:
+ Chủ thể trong chính quyền bao gồm bộ máy và công chức, viên chức, nhà nuớc.
+ Chủ thể ngoài chính quyền, bao gồm nhân dân và truyền thông; các truờng ĐH
và các đơn vị nghiên cứu ngoài nhà nuớc; các nhóm lợi ích khác.
- Các buớc trong hoạch định CSC:
+ Xác định vấn đề chính sách công từ các vấn đề XH nảy sinh;
+ Nghiên cứu sơ bộ và đưa vấn đề vào nghị trình;
+ Nghiên cứu chính thức và xây dựng các phuơng án chính sách;
+ Đánh giá và lựa chọn giải pháp chính sách tối ưu;
+ Ban hành chính sách.
- Nguyên tắc ban hành CSC:
+ Đảm bảo mục tiêu chính sách vì lợi ích công cộng;
+ Sử dụng các biện pháp ép buộc thi hành;
+ Sử dụng cách tiếp cận hệ thống;
+ Đảm bảo chính sách là một tập hợp các quyết định;
+ Đảm bảo tính liên đới, tính kế thừa lịch sử, tính minh bạch và giải trình;
+ Nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số;
+ Đảm bảo sự tham gia.
3.2. Tổ chức thực thi chính sách:
- Khái niệm: Thực thi CSC là một giai đoạn quan trọng trong chu trình CSC, là
buớc duy nhất chuyển ý tuởng chính sách thành những hành động nhất định của
các cơ quan, thiết chế, tổ chức chính quyền ở các cấp và những nguời đại diện để
giải quyết các vấn đề của XH.
- Chủ thể trong thực thi CSC:
+ Nhóm chủ thể chủ động: các cơ quan chuyên trách của Chính phủ, Quốc hội,
Toàn án, các nhóm lợi ích và các tổ chức cộng đồng.
+ Nhóm chủ thể bị động là nhân dân và các đội tuợng áp dụng chính sách.
- Các buớc trong thực thi CSC:
+ Giai đoạn chuẩn bị;

+ Giai đoạn thực hiện;
+ Giám sát đánh gia và điều chỉnh kế hoạch hành động
- Các nguyên tắc cơ bản:
+ Đảm bảo tính thống nhất, nhất quán với các mục tiêu chính sách;
+ Đảm bảo tính hệ thống, tính KH, hợp lý và hợp pháp;
+ Đảm bảo lợi ích của các đối tuợng chính sách.
3.3. Đánh giá chính sách:
- Là một giai đoạn quan trọng trong chu trình CSC nhằm xem xét, đánh giá tính
hiệu quả, hiệu lực, khả năng áp dụng của một CSC sau khi ban hành và thực hiện
trong nhân dân, cộng đồng để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và có sự điều chỉnh,
bổ sung cho phù hợp nhằm hướng đến phục vụ lợi ích công cộng.
- Nhưng trên thực tế hiện nay, đánh giá CSC là giai đoạn đang đuợc xem nhẹ, giản
đơn, phiến diện, chưa thể chế hoá đuợc quy trình, tiêu chí đánh giá; trong đó đặc
biệt là sự can thiệp thấp và vai trò mờ nhạt của các chủ thể đuợc huởng lợi (nhân
dân) trong việc đánh giá hiệu quả của chính sách. Chưa có cơ chế hữu hiệu nhằm
giám sát, ghi nhận và xử lý các phản hồi của nguời dân đối với việc thực thi chính


sách; việc đánh giá chủ yếu còn mang tính định tính, thiếu mức độ luợng hoá cụ
thể.
=> Điểm chung của chu trình CSC:
- Xét về bản chất, chu trình CSC chính là “quá trình khám phá” nhằm tìm kiếm giải
pháp chính sách phù hợp cho vấn đề cần giải quyết.
- Quá trình CSC rất phức tạp do chịu ảnh huởng của nhiều nhân tố và các bên liên
quan.
- Chu trình CSC có tính chính trị, thể hiện thông qua những nhóm gây sức ép, gây
ảnh huởng, sự vận động hành lang, quan điểm của công chúng và sự đấu tranh
quyền lực để đạt đuợc các lợi ích, vị thế, tầm ảnh huởng.
=> Suy cho cùng, điểm cốt lõi của một CSC là ở việc sau khi nó ra đời là phải thực
sự đi vào cuộc sống và huớng đến phục vụ lợi ích chung của cộng đồng, của nhân

dân nhằm góp phần giải quyết các vấn đề của xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất
nuớc.
Câu 14: Vận dụng lý luận về hoạch định và thực thi CSC, đồng chí hãy chỉ ra
những hạn chế trong việc hoạch định và thực thi CSC ở địa phương, ngành của
đồng chí? Trên cương vị lãnh đạo, đồng chí hãy đề xuất các giải pháp để khắc
phục những hạn chế đó?
1. Các khái niệm:
- “CSC là một tập hợp các quyết định có liên quan đến nhau của chính quyền về
việc lựa chọn các mục tiêu và giải pháp để thực hiện các mục tiêu đó, trên cơ sở có
những tính toán và chủ đích rõ ràng nhằm giải quyết một vấn đề hoặc đáp ứng một
nhu cầu thiết yếu của thực tiễn xã hội”.
- Chu trình CSC bao gồm 3 giai đoạn quan trọng là: hoạch định và ban hành chính
sách; thực thi chính sách và đánh giá chính sách. Các giai đoạn này là một quá
trình thống nhất và xuyên suốt, có mối quan hệ tác động chặt chẽ lẫn nhau.
+ Hoạch định chính sách là quá trình thiết kế một chính sách đáp ứng những
nhu cầu của thực tiễn xã hội. Về bản chất, hoạch định chính sách là quá trình định
huớng vào mục tiêu chính sách và tập trung vào việc quyết định chính sách.
+ Thực thi CSC là một giai đoạn quan trọng trong chu trình CSC, là buớc
duy nhất chuyển ý tuởng chính sách thành những hành động nhất định của các cơ
quan chính quyền ở các cấp và những nguời đại diện để giải quyết các vấn đề của
XH.
2. Những hạn chế trọng việc hoạch định và thực thi chính sách:
2.1. Một vài nét khái quát:
- Truớc đổi mới, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, việc điều hành đất
nước nói chung không phải dựa trên các chính sách công mà chủ yếu bằng các chỉ
thị, quyết định mang tính mệnh lệnh; được soạn thảo và thực thi bằng ý chí chủ
quan của cơ quan Nhà nước, hoặc sao chép 1 mô hình nhất định mà không tính đến
các điều kiện thực tiễn khách quan của đất nước hay vùng miền. CSC với đúng
nghĩa chưa đuợc quan tâm, đặt đúng vị trí là công cụ điều hành của đất nước.
- Khi đất nước đổi mới, đòi hỏi phải đổi mới tư duy và thể chế xây dựng chính sách

nhằm tiến tới xây dựng nền dân chủ hoá XHCN. CSC ngày càng được quan tâm,
coi trọng hơn, công khai hoá, minh bạch hoá nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; đáp ứng yêu cầu của người dân và các chủ thể về quyền tham gia ngày


càng có hiệu quả vào việc hoạch định CSC; đáp ứng yêu cầu của đất nước trong
hội nhập quốc tế.
- Đảng ta là Đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo toàn diện đất nước, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vì vậy, đường lối, quan điểm, chủ trương
của Đảng phải được thể chế hoá bằng pháp luật và chính sách của Nhà nước. Chủ
trương, quan điểm của Đảng có vai trò hết sức quan trọng trong việc định hướng
nhằm thực thi có hiệu quả CSC của đất nước.
2.2. Những hạn chế:
2.2.1. Trong giai đoạn hoạch định và ban hành chính sách:
- Quy trình hoạch định CSC về cơ bản vẫn mang tính nội bộ của các cơ quan Nhà
nước. Sáng kiến lập pháp và lập quy chủ yếu xuất phát từ các cơ quan Chính phủ,
rất ít CSC được soạn thảo và ban hành xuất phát từ những sáng kiến của các chủ
thể xã hội khác.
- Việc phản biện XH và vận động chính sách đang là khâu yếu. Hiện nay nhiều dự
thảo văn bản chính sách đã và đang được đăng tải công khai để lấy ý kiến góp ý
nhưng khâu tổng hợp ý kiến góp ý chưa đuợc công khai minh bạch, các ý kiến
phản biện độc lập hầu như không được cân nhắc.
- Chất lượng chuẩn bị dự thảo văn bản chính sách chưa cao, chưa có nhiều phương
án hoặc kịch bản để lựa chọn kỹ, dẫn đến việc khó đánh giá tính khả thi của các
giải pháp chính sách. Việc xác định vấn đề, nội dung của chính sách còn mang
nặng tính kinh nghiệm chủ nghĩa, hoặc sao chép mô hình, hoặc theo ý kiến chỉ đạo
của cấp trên, thiếu căn cứ thực tiễn khách quan.
2.2.2. Trong giai đoạn thực thi chính sách:
- Tình trạng quá nhiều và chống chéo giữa các chiến lược, chính sách phát triển

ngay trong một lĩnh vực và giữa các lính vực, dẫn đến việc lấn sân, hoặc né tránh,
đùn đẩy trách nhiệm, quan liêu, tham nhũng, phân tán, dài trải các nguồn lực, làm
giảm tính khả thi của chính sách.
VD: Ở VN hiện nay có 501 văn bản mang tính chính sách liên quan đến XĐGN,
trong đó có 188 văn bản tác động trực tiếp và 313 văn bản tác động gián tiếp. Tình
trạng quản lý chồng chéo giữa các bộ, giữa Trung uơng và địa phương.
VD: + Liên quan đến vấn đề ngộ độc Rượu 29 độ gây tử vong về nguời ở Hà Nội
năm 2013, Bộ Y tế và Bộ Công thương đã đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
+ Bộ Công thương, Bộ NN&PTNT và địa phương đổ lỗi cho nhau liên quan
đến vấn đề xả lũ của các hồ thuỷ điện gây lũ lụt, ngập úng trong những năm qua…
- Tình trạng ban hành văn bản không đồng bộ, việc hướng dẫn không thống nhất,
không tuơng thích, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các bộ ngành, giữa các cơ quan
ban hành và cơ quan thực hiện, gây khó khăn cho địa phương cấp dưới thực hiện;
không rõ ràng về cơ chế phối hợp và trách nhiệm giải trình, bị tác động của lợi ích
cục bộ, lợi ích nhóm đã ảnh hưởng đến việc triển khai và thực hiện chính sách.
- Tình trạng Luật chờ Nghị định, Nghị định chờ Thông tư vẫn đang là phổ biến
khiến cho chính sách chậm đi vào cuộc sống. Điều này thể hiện năng lực của đội
ngũ làm trong các cơ quan hoạch định chính sách còn hạn chế, đồng thời phản ảnh
sự quá tải, chồng chéo, phức tạp của hệ thống văn bản cũng như không rõ ràng
trong cơ chế phối hợp giữa các bên liên quan.
- Tình trạng chưa coi trọng việc đảm bảo các yếu tố điều kiện và nguồn lực cho
triển khai và thực hiện chính sách, còn chịu ảnh hưởng nặng của cơ chế xin - cho,
tư duy nhiệm kỳ, thiếu tính chiến lược, thiếu tầm nhìn xa trông rộng, chủ nghĩa


thành tích, chủ quan, duy ý chí, quá dựa dẫm vào đầu tư công từ ngân sách Nhà
nước…đã làm cho nhiều chính sách bị vô hiệu hoá, bất cập, chỉ nằm trên giấy tờ,
không thể đi vào cuộc sống hoặc thực hiện kém hiệu quả.
2.2.3. Trong giai đoạn đánh giá chính sách:
- Nhận thực về việc đánh giá chính sách còn đơn giản, phiến diện, thường được

quy vào nhiệm vụ hành chính, tổng kết, báo cáo công tác của các cơ quan chính
quyền chịu trách nhiệm triển khai chính sách.
- Chưa thể chế hoá được quy trình, tiêu chí đánh giá chính sách, đặc biệt là chưa
đánh giá được hiệu quả của chính sách từ phương diện chi phí - lợi ích.
- Vai trò mờ nhạt của các chủ thể hưởng lợi trong việc đánh giá chính sách. Chưa
xây dựng được một cơ chế hữu hiệu nhằm giám sát, ghi nhận và xử lý những phản
hồi của người dân đối với việc thực thi chính sách. Điều này chỉ được cấc cấp có
thẩm quyền quan tâm khi có sự cố, vướng mắc xảy ra, thiếu sự chủ động trong
công việc, nhất là việc dự báo những rủi ro, khó khăn có thể xẩy ra khi thực hiện
chính sách…
3. Một số giải pháp:
3.1. Chú trọng khâu thể chế hoạch định chính sách công trong khuôn khổ hoàn
thiện thể chế KTTT định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
ở Việt Nam.
Ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chung cho các cơ quan nhà
nước, thay thế 02 Luật trước đây năm 2004 và 2008.
3.2. Thể chế hoá sự tham gia của các chủ thể trong hoạch định, thực thi và đánh
giá CSC, tạo điều kiện thực chất để người dân, các tổ chức CT - XH, doanh
nghiêp... tham gia ngày càng có hiệu quả trong các khâu của CSC, nhất là xây dựng
được cơ chế phản biện, giám sát, ghi nhận và xử lý các phản hồi của người dân một
cách có hiệu quả nhất, góp phần làm cho CSC ngày càng đi vào cuộc sống.
3.3. Xây dựng và công bố công khai các hệ thống chỉ báo giám sát thực thi CSC ở
một số lĩnh vực ưu tiên (chỉ số về năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và Chỉ số về hiệu
quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh).
3.4. Đổi mới mạnh mẽ công nghệ và kỹ năng xây dựng chính sách; phân định rõ
hoạt động hoạch định chính sách với hoạt động xây dựng và ban hành văn bản
chính sách.
3.5. Không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ở các cơ quan hoạch định
chính sách. Xây dựng cơ chế phối hợp đồng bộ, thống nhất, rõ ràng, công khai hoá,
minh bạch hoá giữa các bộ, ngành, cơ quan liên quan nhằm hạn chế tình trạng

chồng chéo công việc hay đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau.
3.6. Tăng cuờng thực hiện một cách thực chất quy trình đánh giá dự báo tác động
của các văn bản Luật và chính sách, đánh giá tác động xã hội, môi trường, sinh kế
đối với các quyết định đầu tư công cũng như giám sát việc thực thi CSC.



×